Monday 12 October 2015

In Memory of Mr. Robert Funseth...

Thưa Quý Vị, Quý NT và CH,

Ông Robert L. Funseth, một sĩ quan Hải quân trong đệ nhị thế chiến, một nhà ngoại giao thâm niên của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, và đặc biệt là một vị ân nhân, đã đóng góp nhiều thời gian, công sức và nổ lực, trong việc điều đình với cộng sản Hà Nội để đạt được kết quả qua chương trình H.O, giúp cho những Quân, Cán, Chính Việt Nam Cộng Hòa được rời Việt Nam định cư tại các quốc gia tự do, mà đông nhất là tại Hoa Kỳ.    

Sau khi người con trai duy nhất qua đời, và gần đây nhất với sự ra đi của bà Marilyn Funseth - người bạn đời lâu năm - đã để lại cho Ông một niềm thương xót vô biên, và vào ngày 25 tháng 9, 2015 vừa qua, Ông đã vĩnh viễn giã từ thân nhân, và bằng hữu...lưu lại nhiều thương nhớ sâu xa trong lòng những Quân, Cán, Chính, Cảnh Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam Cộng Hòa và gia đình ở khắp mọi nơi.

Thương Ông, vì Robert Funseth sẽ không còn được nghe những lời tri ân chân thành của những Quân, Cán, Chính, Cảnh Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam Cộng Hòa và gia đình, đã đến được bến bờ tự do qua Chương Trình H.O, trong dịp Hội Ngộ 25 Năm sẽ được tổ chức tại Little Saigon vào tháng 11, 2015 sắp tới, khi Ban Tổ Chức đã mời Ông từ nhiều tháng trước.

Sau khi Ông mất, thi hài đã được hỏa táng, và vào ngày 9 tháng 10, 2015, lể an táng hộp đựng tro của Ông Robert Funseth, đã được tổ chức rất đơn giản tại nghĩa trang Oakwood, Falls Church, Virginia (rất gần Trung tâm Thương Mại Eden). Tang quyến gồm có hai người cháu là các ông Karl & John Funseth và người cháu rễ là ông Todd Baran. Cùng tham dự còn có Bà Khúc Minh Thơ, một vị cũng đã đóng góp nhiều thời gian, công sức và nổ lực cùng với Ông Robert Funseth trong Chương Trình H.O, một vài vị H.O và gia đình (tôi không nhớ được tên) có người đến từ Texas, ôngNgô Viết Quyền đến từ Philadelphia, cô Lê Bích Hồng & Lê Bích Phượng, Virginia (con gái H.O) cùng các con và chúng tôi.

Trong một buổi sáng mây thấp Mùa Thu lạnh sớm, tiếng kèn của người nữ 
Chiến Sĩ Hải Quân Hoa Kỳ tiển đưa người Chiến Sĩ Hải Quân, nhà ngoại giao lão thành Robert Funseth đến nơi an giấc ngàn thu nghe thật ảo nảo, buồn thương...
Một lá cờ Hoa Kỳ đã được một Chiến Sĩ Hải Quân trang trọng trao cho đại diện của tang quyến. Những nghi thức tôn giáo đã được tiến hành tiếp theo. 

Ông Ngô Viết Quyền thay mặt cho đại gia đình H.O ngõ lời phân ưu đến tang quyến, và chúng tôi cũng đã chuyển lời thành kính phân ưu của Cộng Đồng Việt Nam Vùng Washington, D.C., Maryland và Virginia đến thân nhân của Ông Robert Funseth .

Lễ an táng đã được kết thúc, sau khi chúng tôi đến chào vĩnh biệt và gởi lại ông Robert Lloyd Funseth những bông hồng trắng nơi mộ phần của ông, bên cạnh người bạn đời Marilyn Funseth và người con trai, anh Eric Christian Funseth.      

BMH
Washington, D.C 


RLF1.jpg
RLF2.jpg
RLF3.jpg
(Hình của Cô Lê Bích Phượng)

VĨNH BIỆT ROBERT FUNSETH, NGƯỜI ĐIỀU HÀNH

 CHƯƠNG TRÌNH HO ((HUMANITARIAN OPERATION)


 Ngày 25 tháng Chín 2015, Robert Funseth, ân nhân của những người Việt Nam đến Mỹ theo con đường HO (Humanitarian Operation) qua đời, hưởng thọ 89 tuổi, tại bệnh viện Nothern Virginia.

11 ROBERT FUNSETH
11 ROBERT FUNSETH 2

 Theo Robert Funseth, quá trình hình thành chương trinh HO như sau:

 “Khi tôi được cử về làm việc cho Văn Phòng Đặc Trách Tỵ Nạn của Bộ Ngoại Giao, kế hoạch cứu tù chính trị được đặt trong khuôn khổ của Chương trình Ra Đi Có Trật Tự (ODP) và nằm dưới sự hỗ trợ của Cao ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR).

 Chúng tôi bắt đầu tham khảo với đại diện của phía Việt Nam tại Geneva, và ngay trong buổi gặp gỡ đầu tiên với họ, tôi được thông báo là trong số những người Hoa Kỳ muốn đón sang Mỹ định cư, thành phần tù nhân chính trị là diện khó nhất.

 Năm 1982, tôi gặp ông Trợ Lý Bộ Trưởng Hà Văn Lâu và đưa đề nghị cho thân nhân của những người đang cư ngụ ở Mỹ và thành phần tù chính trị được nộp đơn định cư, tức là những cựu quân nhân quân đội Việt Nam Cộng Hòa bị tù cải tạo vì họ có liên hệ với Hoa Kỳ, và những nhà văn, nhà báo, các tu sĩ.

 Chúng tôi tiếp tục thảo luận, tiếp tục áp lực Việt Nam qua những phiên họp cấp thấp nhưng kết quả chẳng được là bao. Một năm sau đó tôi gặp lại ông Hà Văn Lâu, tiếp tục yêu cầu và thúc đẩy để đạt kết quả.

 Đến mùa hè năm 1984, tôi đánh giá thấy những cuộc vận động ngoại giao như vậy không đem lại kết quả, nên tôi đề nghị ông Ngoại Trưởng George Schultz trình thẳng với Tổng Thông Reagan là khi thông báo cho Quốc Hội Liên Bang biết về con sốngười nước ngoài được nhập cảnh vào Mỹ hàng năm, ông Ngoại Trưởng sẽ thay mặt Tổng Thông đưa ra một chương trình mới là nhận 10,000 tù nhân chính trị từ Việt Nam và 5,000 người ở diện con lai.

 Sau đó tôi đi Geneva đưa vấn đề này ra nói với đại diện của Việt Nam là ông Trợ Lý Bộ Trưởng Ngoại Giao Lê Mai nhưng cũng không nhận được đáp ứng tích cực, và con số tù nhân chính trị mà chúng tôi hứa nhận định cư cứ mỗi năm mỗi tăng.

 Cuối cùng vào năm 1988, tôi đi Hà Nội gặp ông Trợ lý Bộ trưởng Trần Quang Cơ và chúng tôi đạt được thỏa thuận đầu tiên. Đùng một cái chuyện Hà Nội chiếm đóng ở Kampuchea được đưa ra mổ xẻ, Hà Nội bèn loan báo đình chỉ tất cả mọi hợp tác với Hoa Kỳ như hợp tác POW/MIA, hợp tác thảo luận và thực hiện chương trình cho tù chính trị sang Mỹ định cư.

 Lúc đó làn sóng người vượt biển tiếp tục xảy ra, những chiếc tầu tiếp tục đến các nước trong vùng, nhiều người chết trên biển cả. Tôi còn nhớ rõ là hôm 29 tháng Bẩy, sau 2 ngày thảo luận rốt ráo vẫn chưa đi đến kết quả nào cụ thể cả.

 Sau đó, tôi đề nghị với người cầm đầu đoàn đàm phán Việt Nam là ông Vũ Khoan là tôi với ông ta gặp riêng nhau, để thảo luận từng điểm một. Chúng tôi cùng nhau giải quyết từng điểm một và  Cuối cùng văn kiện ngoại giao đó thành hình, tôi và ông ta cùng ký tắt ở Hà Nội “.

PHỎNG VẤN  ROBERT FUNSETH, NGƯỜI PHỤ TRÁCH CHƯƠNG TRÌNH HO

Nguyễn Khanh / RFA

 Ít năm sau ngày cuộc chiến Việt Nam kêt thúc, Hoa Kỳ bắt đầu thảo luận với Việt Nam để đưa những cựu quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và gia đình sang Mỹ định cư qua chương trình được gọi là H.O, viết tắt từ chữ Humanitarian Operation mà chúng tôi xin được tạm dịch là Chương Trình Nhân Đạo.

 Đại diện cho Washington để thảo luận với Hà Nội về vân đề này là ông Phụ tá Ngoại trưởng Robert Funseth, từng làm Người Phát Ngôn cho Bộ Ngoại Giao trong thời gian cuộc chiến Việt Nam đang xảy ra. Ông Funseth nay đã nghỉ hưu và đồng ý dành cho Ban Việt Ngữ chúng tôi cuộc phỏng vấn đặc biệt vào đúng chiều 29 tháng Tư giờ Washington, tức sáng sớm ngày 30 tính theo giờ Việt Nam.

Nguyễn Khanh: Chắc ông vẫn nhớ chuyện gì xảy ra ở Washington cách đây 30 năm chứ?

Robert Funseth: Đúng giờ này, tức là vào chiều ngày 29 tháng Tư năm 1975, Sài Gòn bắt đầu sụp đổ. Từ phòng điều hành, ông Phụ Tá Ngoại Trưởng Phillip Habib và tôi nói chuyện lần cuôi cùng với ông Đại Sứ Graham Martin. Đại Sứ Martin không muôn rời Việt Nam, vì ông ta muôn kéo dài thì giờ để có thể cứu thêm những người khác. Cuối cùng, chúng tôi phải chỉ thị bắt ông đại sứ phải rời nhiệm sở. Ông đại sứ Martin nói chuyện với tôi và tôi còn nhớ là ông ta bảo sẽ lên sân thượng của Tòa Đại Sứ, dùng trực thăng để ra hạm đội. Không đầy một giờ đồng hô sau đó, đại sứ Martin gọi điện lại báo đã ra tới hạm đội bình yên. Đại Sứ Martin là một người anh hùng, người con trai duy nhất của ông ta chết ở chiến trường Việt Nam. Ông Martin tìm đủ cách để hoãn giờ phải rời Sài Gòn vì ông ta muôn di tản được càng nhiều người Việt càng tốt.

Kể từ cái đêm kinh hoàng 29 tháng Tư 1975 đó ở Washington, chúng tôi không bao giờ quên được Việt Nam. Ở ngay Bộ Ngoại Giao, chúng tôi có đặt một tấm bảng tưởng niệm những nhân viên ngoại giao đã hy sinh ở chiến trường Việt Nam. Tấm bảng này ghi tên biết bao nhiêu nhân viên ngoại giao Hoa Kỳ đã chết vì lý tưởng đem lại tự do và dân chủ cho nhân dân miền NamViệt Nam. Riêng cá nhân tôi, tôi không thể nào nghĩ rằng 7 năm sau ngày khó quên đó, tôi lại được giao trách nhiệm đàm phán với giới lãnh đạo Hà Nội để yêu cầu thả tù chính trị và cho họ cùng với gia đình sang Hoa Kỳ định cư, cũng như cho những người thuộc diện con lai và thân nhân của những người Việt đang sinh sống tại Mỹ được rời Việt Nam theo chương trình Ra Đi Có Trật Tự.

Nguyễn Khanh: Tại sao chương trình Ra Đi Có Trật Tự được thành hình?

Robert Funseth: Vì lúc đó có biết bao nhiêu người chết trên biển cả, nên chúng tôi muốn phía Việt Nam đồng ý cho những người Việt muốn sang Mỹ được nộp đơn xin định cư và đến Mỹ an toàn hơn.

Nguyễn Khanh: Về chương trình H.O, tức là chương trình đưa tù cải tạo mà trong cuộc điều đình với Hà Nội, Washington gọi là tù nhân chính trị và thân nhân của họsang Mỹ, chúng tôi muốn biết ai là người đưa ra sáng kiến này?

Robert Funseth: Khi tôi được cử về làm việc cho Văn Phòng Đặc Trách Tỵ Nạn của Bộ Ngoại Giao, kế hoạch cứu tù chính trị được đặt trong khuôn khổ của Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự và nằm dưới sự hỗ trợ của Cao ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc.

Chúng tôi bắt đầu tham khảo với đại diện của phía Việt Nam tại Geneva, và ngay trong buổi gặp gỡ đầu tiên với họ, tôi được thông báo là trong số những người Hoa Kỳ muốn đón sang Mỹ định cư, thành phần tù nhân chính trị là diện khó nhất.

Năm 1982, tôi gặp ông Trợ Lý Bộ Trưởng Hà Văn Lâu và đưa đề nghị cho thân nhân của những người đang cư ngụ ở Mỹ và thành phần tù chính trị được nộp đơn định cư, tức là những cựu quân nhân quân đội Việt Nam Cộng Hòa bị tù cải tạo vì họ có liên hệ với Hoa Kỳ, và những nhà văn, nhà báo, các tu sĩ.

Chúng tôi tiếp tục thảo luận, tiếp tục áp lực Việt Nam qua những phiên họp cấp thấp nhưng kết quả chẳng được là bao. Một năm sau đó tôi gặp lại ông Hà Văn Lâu, tiếp tục yêu cầu và thúc đẩy để đạt kết quả.

Đến mùa hè năm 1984, tôi đánh giá thấy những cuộc vận động ngoại giao như vậy không đem lại kết quả, nên tôi đề nghị ông Ngoại Trưởng George Schultz trình thẳng với Tổng Thông Reagan là khi thông báo cho Quốc Hội Liên Bang biết về con sốngười nước ngoài được nhập cảnh vào Mỹ hàng năm, ông Ngoại Trưởng sẽ thay mặt Tổng Thông đưa ra một chương trình mới là nhận 10,000 tù nhân chính trị từ Việt Nam và 5,000 người ở diện con lai.

Sau đó tôi đi Geneva đưa vấn đề này ra nói với đại diện của Việt Nam là ông Trợ Lý Bộ Trưởng Ngoại Giao Lê Mai nhưng cũng không nhận được đáp ứng tích cực, và con số tù nhân chính trị mà chúng tôi hứa nhận định cư cứ mỗi năm mỗi tăng.

Cuối cùng vào năm 1988, tôi đi Hà Nội gặp ông Trợ Lý Bộ Trưởng Trần Quang Cơ và chúng tôi đạt được thỏa thuận đầu tiên. Đùng một cái chuyện Hà Nội chiếm đóng ở Kampuchea được đưa ra mổ xẻ, Hà Nội bèn loan báo đình chỉ tất cả mọi hợp tác với Hoa Kỳ như hợp tác POW/MIA, hợp tác thảo luận và thực hiện chương trình cho tù chính trị sang Mỹ định cư.

Lúc đó làn sóng người vượt biển tiếp tục xảy ra, những chiếc tầu tiếp tục đến các nước trong vùng, nhiều người chết trên biển cả. Tôi còn nhớ rõ là hôm 29 tháng Bẩy, sau 2 ngày thảo luận rốt ráo vẫn chưa đi đến kết quả nào cụ thể cả.

Cuối cùng tôi đề nghị với người cầm đầu đoàn đàm phán Việt Nam là ông Vũ Khoan là tôi với ông ta gặp riêng nhau, để thảo luận từng điểm một. Chúng tôi cùng nhau giải quyết từng điểm một và Cuối cùng văn kiện ngoại giao đó thành hình, tôi và ông ta cùng ký tắt ở Hà Nội.
Nguyễn Khanh: Ông nghĩ gì lúc đặt bút ký kết?
Robert Funseth: Dĩ nhiên tôi rất vui mừng, nhưng đồng thời cũng tiếc là phải mất quá nhiều thời gian mới giải quyết được chuyện này. Phải chi giải quyết được nhanh hơn thì có thể giảm bớt những ngày khổ đau cho những người tù chính trị ở Việt Nam. Ngày ký kết cũng là ngày mà tôi hãnh diện nhất trong 40 năm làm ngoại giao. Đến nay, đã có 300,000 người Việt, gồm cả những cựu tù nhân chính trị và gia đình đến Mỹ định cư qua chương trình H.O.
Nguyễn Khanh: Họ có liên lạc với ông không?
Robert Funseth: Nhiều lắm. Trong những năm qua, tôi cảm động, nghẹn ngào vì cảm tình họ dành cho tôi. Tôi nói với mọi người là công này không phải chỉ mình tôi, mà còn liên quan đến rất nhiều người khác nữa, từ những người tham dự đàm phán cho tới những người thực hiện chương trình giúp định cư.
Tôi nghĩ phần nào chương trình này đã bù lại cho những mất mát xảy đến sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, khi Sài Gòn thất thủ, bao nhiêu người phải đi tù. Chúng tôi vẫn kiên trì, không bỏ rơi họ và cuối cùng đạt được thành công.
Nguyễn Khanh: Xin cám ơn Ông.