Sunday 11 September 2016

Tùy bút: TẠ ƠN MẢNH ĐẤT NÀY - ĐIỆP MỸ LINH

Vừa rời chiếc xe buýt của công ty du lịch Trafalgar, tôi chú ý ngay đến một nhóm đàn ông lớn tuổi, người Nga, ngồi bên trái lối đi, cạnh con kinh đào. Mỗi ông mang một nhạc cụ nhà binh như saxophone, trumpet, clarinet, v.v… Không hiểu có phải vì nghe những tiếng thầm thì bằng tiếng Anh của du khách hay không mà bỗng nhiên ban nhạc đều đứng lên, cử hành Quốc Ca Hoa-Kỳ.
Nhóm du khách và tôi đều dừng bước, ngạc nhiên, vì đây là lãnh thổ của Nga. Du khách Mỹ để tay phải lên lồng ngực bên trái. Nhìn các nhạc công, tôi nghĩ, có lẽ họ là những người lính trẻ nhất của trận thế chiến thứ II. Tôi cảm thấy nao nao buồn. Những người lính già nua, yếu đuối đang cố kéo chút hơi tàn để tìm sự sống qua bản Quốc Ca của kẻ thù xưa, vì lương hưu của cựu chiến binh Nga rất thấp!
Bản nhạc dứt. Du khách vui vẻ lấy tiền cho vào cái xắc nhỏ được đặt trước mặt các nhạc công. Các nhạc công ngồi xuống, đồng tấu tiếp bản America, the Beautiful. Tôi đứng lặng, lòng đầy xúc động!
Niềm xúc động trong tôi lần này cũng dạc dào như năm 1977, khi con gái lớn của tôi, Xuân-Nguyệt – lúc đó là học sinh lớp 8 – được trao tặng giải nhất toàn tiểu bang Arizona về bài luận văn “What Makes America Beautiful?”
Gia đình tôi được giúp phương tiện để đưa Xuân-Nguyệt từ Yuma đến Phoenix nhận phần thưởng trong một buổi lễ vô cùng long trọng. Ðó là lần đầu tiên tôi nghe bản America, the Beautiful được cả hội trường đồng ca. Tự dưng tôi khóc. Nhưng rồi âm điệu và lời ca của bản nhạc khiến lòng tôi lắng xuống. Tôi trầm tĩnh lại để nhận những vòng tay thân ái và những lời chúc mừng của những người Mỹ quanh tôi. Theo những lời chúc mừng của những người chưa quen này, tôi hiểu những người này nghĩ rằng tôi xúc động vì thành quả của con gái tôi. Ðiều đó chỉ đúng một phần; vì, ngoài sự hãnh diện của một người Mẹ, những giọt nước mắt của tôi còn mang nặng niềm âu lo và sự lạc lõng trước một tương lai đầy thử thách mà tôi không hiểu tôi có thể vượt qua được hay không!
Hơn 26 năm qua, với tất cả hy sinh và nỗ lực, gia đình tôi đã vượt được nhiều trở ngại. Những người con, dâu và rể của tôi hiện đang đem tất cả khả năng và kiến thức đã học hỏi, đã hấp thụ tại đất nước này để góp công xây dựng một nơi mà ai cũng hơn một lần ước mơ được nhìn tận mắt sự văn minh và phồn thịnh.
Riêng tôi, ngoài sự văn minh và phồn thịnh, nước Mỹ còn có những công dân với trái tim rất vỹ đại.
Chỉ có những trái tim vỹ đại mới có thể thực hiện những chuyến máy bay đầy thực phẩm, thuốc men cùng những phái đoàn y tế tình nguyện sang Phi-Châu cứu đói. Chỉ có những trái tim vỹ đại mới sáng tác và hát say sưa nhạc bản We Are The World để quyên góp hiện kim gửi sang Phi-Châu cứu đói. Chỉ có những trái tim vỹ đại mới đưa nhiều phái đoàn y dược sỹ, dụng cụ y tế sang Nga cứu giúp khi lò nguyên tử của Nga – tại Chernobyl – bùng nổ. Chỉ có những trái tim vỹ đại mới có thể thực hiện những chuyến bay khẩn cấp để di chuyển hằng mấy trăm em bé mồ côi ra khỏi Việt-Nam vào cuối tháng Tư năm 1975. Chỉ có những trái tim vỹ đại mới cứu giúp hết đợt di dân này đến đợt di dân khác. Trong số triệu triệu di dân đó có gia đình tôi. Gia đình tôi xin biết ơn:
  • Cựu Thiếu Tá Thủy Quân Lục Chiến và bà Michael Z. Smith, người đã bảo trợ chúng tôi từ Camp Pendleton. Ông bà Smith có ba người con: Michael, hiện là Ðại-Úy Không Quân Hoa-Kỳ và cô con gái nuôi, người Nhật, Kristin cùng với bé Heather. Hiện nay ông Smith là một mục sư ở California.
  • Ông bà Collins. Ông Collins từng tham chiến tại Việt-Nam. Ông được một gia đình Việt-Nam che chở trong khi Việt-Cộng ruồng bắt. Ông Collins bảo vì Ông mang ơn người Việt cho nên Ông thương và muốn giúp đỡ người Việt với tất cả nhiệt tình. May mắn cho chúng tôi, vì chúng tôi là gia đình Việt-Nam duy nhất tại thành phố Yuma.
  • Ông bà Collard, người đã thật lòng thương yêu gia đình tôi như ruột thịt. Ông bà thường vui vẻ và hãnh diện giới thiệu với mọi người rằng chúng tôi là con và cháu của ông bà.
Tôi không hề biết ông Collard là một cựu chiến binh thế chiến thứ II; vì không bao giờ Ông nhắc nhở hoặc đề cập đến cuộc chiến khốc liệt đó. Ðến khi Ông Collard qua đời, người bạn đồng ngũ của Ông đọc điếu văn, tôi mới biết ông Collard có mặt trong trận Trân-Châu-Cảng. Chính ông Collard đã cứu giúp nhiều người – kể cả người đang đọc điếu văn – rời khỏi chiến hạm... và Ông là người sau cùng.
Sự hiểu biết của tôi về quân nhân Hoa-Kỳ trong trận Trân-Châu-Cảng hoặc Normandy chỉ căn cứ theo sách vở và phim ảnh cho nên rất mơ hồ, rất hạn hẹp. Nhưng sự hiểu biết của tôi về sự hy sinh và lòng quả cảm của người lính Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt-Nam thì khá tường tận – tường tận hơn cả những cuốn sách viết về chiến tranh Việt-Nam mà tác giả chưa bao giờ có mặt tại chiến trường Việt-Nam! Do đó, tôi nhận thấy, dù cuộc chiến kết thúc một cách tức tưởi, thiếu công bằng, nhưng cũng phải chấm dứt; vì máu của người Việt – cả hai miền Nam Bắc – và máu của người Mỹ đã chan hòa trong từng thước đất nơi quê hương nghèo khó của tôi.
Sau khi miền Nam bị bức tử, hạm đội Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa đã di tản cả hơn 30 ngàn người Việt thoát khỏi hiểm họa Cộng-sản. Nhưng nếu không có sự hiện diện của Ðệ-Thất Hạm-Ðội Hoa-Kỳ tại Thái-Bình-Dương cũng như không có sự giúp đỡ vô điều kiện của nhân dân Hoa-Kỳ thì số người tỵ nạn khổng lồ của chúng tôi sẽ về đâu?
Nương vào lòng nhân ái của người Mỹ, chúng tôi vào Mỹ với thái độ biết ơn và lòng tự tin để vươn lên.
Người Việt, qua bao thử thách cam go, đã vươn lên, đã góp công xây đắp và bảo vệ đất nước này.
Khi cuộc chiến Trung-Ðông bùng nổ, năm 1992, tôi đã đau buồn và lo sợ khi đưa tiễn một độc giả trẻ và thân thiết nhất của tôi – Hải-Quân Ðại-Úy Hoàng-Quốc-Tuấn – tòng sự trên hàng không mẫu hạm USS Independence, ra khơi, tiến về vùng lửa đạn của Persian Gulf. Trong lá thư gửi về từ vùng Vịnh, Tuấn viết: “... Người lính Hoa-Kỳ được huấn luyện để bảo vệ Hòa-Bình chứ không phải để gây chiến ...” Theo tinh thần cao cả đó, biết bao thanh niên nam nữ Vietnamese-American đã tốt nghiệp hoặc đang thụ huấn tại các quân trường lừng danh của Hoa-Kỳ như West Point Academy, Naval Academy, Air Force Academy, v. v...
Ngoài những tham gia đáng kể về quân sự, giới trẻ Việt-Nam cũng đã và đang xây đắp đất nước này trong tất cả mọi lãnh vực như truyền thông, giáo dục, y tế, khoa học, khoa học không gian, v. v…
Giới trẻ Việt-Nam có những đóng góp lớn lao như vậy thì những nỗ lực của thế hệ di dân Việt-Nam đầu tiên cũng không nhỏ. Thử nhìn bản đồ của các thành phố lớn như Los Angeles, San José, Houston, v. v... thì sẽ thấy: Từ những vùng đất hoang tàn cách nay 20 năm, bây giờ đã trở thành những vùng thương mại sầm uất do người Việt khai thác. Và trong các hãng, xưởng, văn phòng, biết bao người mang họ Nguyễn, Lê, Trần ...
Khi những đóng góp của người Việt vào đất nước này mỗi ngày mỗi thăng tiến thì bỗng dưng sự phá hoại từ đâu ùa đến, phủ chụp xuống ngay lòng đất nước mà gia đình tôi đã âm thầm nhận là quê hương thứ hai!
Tin Nữu-Ước và Hoa-Thịnh-Ðốn bị máy bay tấn công đến với tôi trong lúc tôi cùng nhóm du khách dùng cơm trưa sau những giờ thăm viếng thành phố Minks. Tôi ngồi bất động, lòng đầy phẫn uất! Nếu bảo rằng tôi không lo sợ thì không hẳn đúng; nhưng niềm lo sợ trong tôi bây giờ khác hẳn với sự hãi sợ của đứa bé gái, giữa thập niên 40, theo Cha Mẹ tản cư và thấy những chiếc máy bay mang cờ tam tài – cờ Pháp – bắn phá những làng mạc xác xơ. Những chiếc máy bay đó bắn vào tất cả những vật thể nào di động; vì vậy nông dân không giám ra đồng, súc vật bị giết hại, sinh sản không kịp và con người thì đói và thiếu thốn mọi bề.
Hơn hai mươi năm sống yên lành tại miền Nam nước Việt và hơn hai mươi năm sống thanh bình trên đất Mỹ, tôi cứ ngỡ rằng bom đạn đã xa tôi, không còn cơ hội làm tôi sợ hãi nữa. Nhưng không! Trên màn ảnh TV, một tòa nhà của The World Trade Center bốc khói và một chiếc máy bay lao thẳng vào tòa nhà thứ hai. Cả hai tòa nhà lần lượt sụp xuống trong khi niềm phẫn uất trong tôi dâng cao như những cuộn khói đen ngòm thoát ra từ The Twin Towers! Tình cảm trong tôi chẳng khác gì nỗi đau xót của tôi cách nay hơn một phần tư thế kỷ, khi Việt-Cộng pháo kích ồ ạc vào Saigon.
Là một phụ nữ được giáo dục chỉ để nuôi con và phục tòng chồng, ngày đó, trước thảm trạng của quê hương Việt-Nam, tôi chỉ biết viết những dòng ca ngợi tinh thần chiến đấu can cường của Người Lính Việt-Nam Cộng-Hòa và tôn vinh lòng hy sinh vô bờ của những người Mẹ, người vợ và người con.
Bây giờ, trước sự đổ nát và thiệt hại nhân mạng một cách phi lý và tàn bạo tại Nữu-Ước và Hoa-Thịnh-Ðốn, tâm hồn tôi bị chấn động mạnh và tôi muốn viết ra những ý nghĩ thầm kín của tôi về một nơi chốn mà gia đình tôi âm thầm thọ ơn. Ý nghĩ này làm cho cuộc du lịch giảm thiểu nhiều phần thích thú. Cuộc du lịch này chỉ vì sự tò mò của tôi, muốn tìm hiểu về một nước Nga rộng lớn.
Nước Nga rộng lớn nhưng môi người Nga không đàn hồi cho nên người Nga không biết cười. Thức ăn của người Nga thường là những miếng thịt dai dừ, mà không ai đoán được và cũng không ghi trong thực đơn là thịt gì, được tẩm trứng hoặc bột rồi chiên, không mùi vị, ăn đệm với khoai tây. Lâu lắm, may ra mới có một bữa thịt gà. Thức ăn của Mỹ như các loại kẹo, ice cream và sản phẩm của hãng Coca Cola được bày bán khắp nơi. Tôi cũng thấy vài nhà hàng McDonald’s và Pizza Hut. Sản phẩm tiểu công nghệ của Nga như thủy tinh và đồ gỗ thì tuyệt đẹp, vì được làm bằng tay. Hệ thống Metro của Nga tại Moscow rất tối tân, dù đã được hoàn tất cách nay nửa thế kỷ. Cứ 30 giây – vâng, 30 giây – thì một chuyến tốc hành đến và một chuyến đi ngược lộ trình với chiếc kia. Trong sinh hoạt hằng ngày, người Nga không ăn mặc giản dị, xềnh xoàng như người Mỹ. Những buổi trình diễn ballet, skate on ice làm tôi say mê bao nhiêu thì những màn vũ dân tộc và những bản dân ca cũng khiến hồn tôi giao động bấy nhiêu! Âm hưởng dân ca của Nga mang nặng niềm thống thiết của dân du mục.
Dân Nga rất kiêu hãnh về Red Square, vì đó là biểu tượng của thủ đô. Khi thấy trong hình và phim ảnh, tôi cũng nghĩ Red Square rất vỹ đại. Nhưng sau khi thấy tận mắt, tôi nghĩ – không phải vì định kiến chính trị – Red Square không là gì cả, vì thiếu sự hài hòa giữa thiên nhiên và nhân tạo. Khu vực Red Square được lát bằng gạch, trên triền đồi thoai thoải, diện tích khoảng một phần ba của công trường Thiên-An-Môn. Phần cao nhất của Red Square là tòa nhà của chính phủ và mộ của Lenin. Chân đồi bên này là ngôi nhà thờ với những chóp cao hình tròn, chạm trổ và sơn phết rất rực rỡ. Chân đồi bên kia chỉ là một lối đi rộng lớn. Lối đi này, vào những dịp diễn hành để phô trương lực lượng, được Hồng Quân Nga cũng như thiết giáp và các cơ giới nặng dùng làm lối ra. Bây giờ, trên lối ra này, người ta xây một ngôi nhà trên cao, phía dưới để trống vừa đủ cho bộ hành và xe hơi nhỏ ra vào. Lối vào Red Square, phía nhà thờ, cũng được chận lại bằng nhiều dãy trụ xi-măng, với mục đích không cho thiết giáp và cơ giới nặng vào điện Cẩm-Linh.
Trước điện Cẩm-Linh, ban đêm, trong khi những cặp tình nhân thủ thỉ bên nhau những lời mặn nồng thì những người Nga lớn tuổi lại chậm bước, lòng hướng về một thủ đô đã đổi tên: St. Petersburg.
St. Petersburg là một thành phố mang nặng di tích lịch sử của Nga-Hoàng. St. Petersburg không chinh phục được cảm tình của tôi nếu không có ngôi nhà thờ cổ còn hằn vết đạn của thời Hitler xâm lược và những bức tranh đầy sinh động của Ivan Aivazovsky, Wassily Kandinsky, Pavel Filonov, v. v... Những dòng sông ở St. Petersburg đã để lại trong hồn tôi rất nhiều lưu luyến. Những dòng sông im lìm, nhẫn nhục, chỉ biết len lõi trong từng ngõ ngách của thành phố trước sự kiêu căng thách đố âm thầm nhưng lố bịch của từng dãy lâu đài nguy nga. Lúc xuôi theo giòng Neva, trong khi mọi người lưu ý đến mấy chiếc cầu dựng đứng – vào những giờ nhất định – để tàu thủy có thể đi qua, thì tôi chỉ nghĩ đến những gì tôi đã thấy trên đoạn đường sau khi vào biên giới Nga.
Trên đoạn đường loang lở đó tôi đã thấy những xóm nhà lụp xụp. Thỉnh thoảng tôi mới thấy một chiếc xe hơi cũ thật cũ đậu dưới tàng cây, không biết xe còn xử dụng được hay không. Nơi khoảng sân hẹp, mỗi nhà thường cất một cái chòi nhỏ, mái và chung quanh được bọc ny-lông, để trồng hoa màu. Tôi cũng thấy người dân quê canh tác bằng tay chứ không bằng máy.
Những hình ảnh nghèo khó này cứ theo tôi mãi. Nhưng khi đến Minsk, mọi hình ảnh đều bị đẩy lùi về quá khứ, chỉ còn trong tôi nỗi xót xa của một người vừa biết nơi mình nương náu hơn hai mươi năm qua đang bị xâm phạm nặng nề! Từ Minsk đến Riga, tôi thấy các thành phố đều treo cờ rũ và mọi người dân địa phương có vẻ sốt ruột, dán mắt vào TV hoặc ngóng tin tức từng giờ. Ðiều làm cho tôi xúc động nhất là hôm 14-09, lúc 12 giờ trưa, tại khách sạn Scandic thuộc thành phố Helsinki của nước Finland, ban giám đốc đã yêu cầu mọi người đứng nghiêm, dành năm phút mặc niệm để tưởng nhớ những nạn nhân của khủng bố tại Hoa-Kỳ!
Trong khi đứng nghiêm tôi vẫn bị những lời tường trình của xướng ngôn viên đài truyền hình CNN – từ chiếc TV lớn treo nơi góc phòng khánh tiết – chi phối. Tôi đau đớn, xốn xang trong lòng như ngày xưa, năm 1968, hay tin Việt-Cộng tấn công và cưỡng chiếm thành phố Huế, quê Ngoại của tôi.
Sau khi Huế được quân lực Việt-Mỹ giải tỏa, tôi nôn nóng muốn trở về để nhìn sự tan thương và đổ nát của quê Ngoại. Bây giờ, tại phi trường Helsinki đợi máy bay để sang Frankfurt, tôi cũng nôn nóng muốn trở về một nơi mà tôi gọi là nhà – Home! Nhưng bà nhân viên hãng hàng không Lufthansa, sau khi nhìn vé máy bay và thấy rõ ràng tôi không phải là một người da trắng, tóc màu, đã khẳng định:
- Bà có vé. Tôi sẽ ghi tên bà vào danh sách, nhưng sẽ không có chỗ cho bà. Bà phải chờ, vì đây là chuyến phản lực 747 đầu tiên từ Ðức vào lục địa Hoa-Kỳ.
- Vé của tôi mua từ lâu, tại sao bây giờ tôi phải chờ? Và chờ đến bao giờ?
- Rất tiếc, tôi không biết bà phải chờ đến bao giờ. Khi nào có chỗ chúng tôi sẽ thông báo cho bà. Hiện tại, chúng tôi có rất nhiều hành khách ứ đọng từ mấy ngày qua. Và chuyến bay này, từ Helsinki đến Frankfurt để về Nữu-Ứớc, chỉ dành ưu tiên ...
Không đủ kiên nhẫn chờ bà ấy nói hết câu, tôi cắt ngang:
- Tại sao tôi mới rời nhà chỉ có hai tuần mà nay tôi không thể trở về, hả?
Bà ấy ngạc nhiên, nhìn tôi, gằn giọng:
- Nhà?
Tôi đáp với giọng nghèn nghẹn như sắp khóc:
- Vâng. Nhà của tôi.
- Cho tôi xem thẻ thông hành.
Chỉ nhìn thoáng qua passport, bà ấy thay đổi thái độ ngay:
- Vâng. Bà là công dân Mỹ. Bà ưu tiên đi chuyến bay này.
Tôi cúi xuống xách hành lý, lòng âm thầm tạ ơn nước Mỹ, nơi đã cho tôi hiểu thế nào là giá trị thực tiễn của tự do, dân chủ và công bằng. Và trên tất cả mọi điều, nước Mỹ đã cho tôi cơ hội thể hiện tinh thần tự lập của một phụ nữ./.


WITH LOVE
AND
APPRECIATION FOR AMERICA


ĐIỆP-MỸ-LINH

       Translation by Merle L. Pribbenow

(While vacationing in Russia, Điệp-Mỹ-Linh, a member of Ngay Nay’s editorial staff, watched the television in horror as the terrorist attack on America unfolded and hijacked commercial aircraft crashed into the World Trade Center towers in New York and the Pentagon in Washington, D.C.  This short article was written at the airport in Frankfurt, Germany, while the author was waiting for a connecting flight home to the United States.)

As I stepped out of the Trafalgar Tour Company’s bus, I immediately noticed a group of old Russian men sitting on the left side of the entranceway, next to a small canal.  Each man was carrying a military musical instrument – saxophone, trumpet, clarinet, etc.  I didn’t know whether or not they had heard the tourists speaking in English, but suddenly this little band stood up and began playing the American national anthem. 

The entire tour group stopped in surprise, because we were in Russia.  The American tourists among us placed our right hands over our hearts.  Looking at the band as they played, I thought to myself that they might have been very young soldiers who fought in the Second World War.  I was touched with sadness as I watched these old, weak soldiers trying to use their failing breath to make a living by playing the national anthem of their former enemy, because a Russian veteran’s pension is very small.

The music ended.  The tourists smilingly dropped money into a small bag placed in front of the musicians.  The musicians sat down and began playing “America, the Beautiful.”  I stood still, extremely moved.

The emotions I was feeling were similar to those that I felt in 1977, when my oldest daughter, Xuan-Nguyet, then in the 8th Grade, won first prize in the entire state of Arizona for her essay, entitled “What Makes America Beautiful?”  My family was assisted with transportation to take Xuan Nguyet from Yuma to Phoenix to receive the award in a wonderful and solemn ceremony.  That was the first time I heard the song “America, the Beautiful” as the entire audience joined in singing.  I suddenly realized that I was crying.  But then the rhythm and the words of the song calmed my emotions.  I regained my composure as I accepted hugs and congratulations from the Americans standing near me.  From the congratulations spoken by these people whom I had never met before, I realized that they thought I was crying tears of joy for my daughter’s success.  That was true only in part, because, in addition to a mother’s pride, my tears also reflected my worry and homesickness as I faced future challenges that I did not know if I could overcome.

After more than 26 years and after great sacrifices and efforts, my family has overcome many difficulties. My children and their spouses are now devoting the abilities and the knowledge they have gained in this nation to contribute to building a prosperous, educated, and cultured land.  As for myself, in addition to culture and prosperity, I see that the American people had truly enormous hearts. Only such good, great hearts would have sent planeloads of medicine and volunteer medical personnel to save the starving people of Africa. Only such great hearts would have written and sung a song like “We Are the World” to raise money to send to Africa to stop starvation. Only great hearts would have sent doctors, pharmacists, and medical supplies to Russia to help when the Russian reactor at Chernobyl exploded. Only great hearts would have sent emergency flights to evacuate orphans from Vietnam in April 1975. Only great hearts would have helped wave after wave of refugees coming to this country. Among those millions of refugees were the members of my family. My family is truly grateful to:
§  Retired Marine Corps Major Michael Z. Smith and his wife, who sponsored us out of the Camp Pendelton refugee camp. Mr. and Mrs. Smith have three children: Michael, currently a captain in the U.S. Air Force; Kristin, whom they adopted from Japan; and the youngest girl, Heather. Mr. Smith is currently a pastor in California.
§  Mr. and Mrs. Collins: Mr. Collins was a Vietnam veteran.  A Vietnamese family hid and supported him when the Việt-Cộng were hunting for him. Mr. Collins told us he owed a debt to the Vietnamese people, so he loved them and wanted to help them with all his heart. This was fortunate for us, because we were the only Vietnamese family in the city of Yuma.
§  Mr. and Mrs. Collard, who loved my family like their own. They always happily and proudly introduced us to everyone as their own children and grandchildren. I was not aware that Mr. Collard had been a veteran of World War II, because he never once mentioned that terrible war. Only when Mr. Collard died and a shipmate of his gave the eulogy at his funeral did I learn that he had been at Pearl Harbor during the Japanese attack. Mr. Collard had saved many lives, including that of the man who gave the eulogy, and had been the last man to leave his ship.

My knowledge about U.S. servicemen at Pearl Harbor, Normandy, and other such battles is very limited, because it is based only on books and movies. However, my knowledge of the sacrifices and courage of U.S. soldiers during the Vietnam is rather vast – much better than that of authors who never saw the war in Vietnam. I believe that, even though the war ended precipitously and unfairly, it had to come to an end, because so much Vietnamese blood, from both North and South Vietnam, and American blood had been shed that it permeated every inch of the ground of my poverty-stricken country.

After South Vietnam expired, the South Vietnamese Navy evacuated more than 100,000 Vietnamese, rescuing them from the horrors of communism. If, however, it had not been for the presence of the U.S. 7th Fleet in the Pacific, and if we had not received the unconditional support and assistance of the American people, where would this massive flood of refugees have gone?  Thanks to the humanity of the American people, we entered the United States with a spirit of gratitude and confidence that we could recover and rebuild our lives. After untold difficulties and challenges, the Vietnamese have recovered and have contributred to the building and the defense of this nation.

When the Gulf War broke out, I was worried and frightened when I said goodbye to one of my youngest and most beloved readers, Navy Lieutenant Hoang-Quoc-Tuan, who was serving aboard the aircraft carrier U.S.S. Independence and sailing off to the battlefront in the Persian Gulf. In a letter he sent me from the Gulf, Tuan wrote, “…American servicemen are trained to defend the United States, not to start wars.” Countless Vietnamese-American young men and women who shared that wonderful spirit have graduated or are now studying at famous U.S. military academies, like West Point, the Naval Academy, the Air Force Academy, etc.

In addition to their significant participation in military service, Vietnamese young people have contributed and continue to build this nation in every area and facet of society, including the media, education, medicine, science, space science, etc.

While Vietnamese young people have made such enormous contributions, the efforts of the first generation of refugees are no less significant. If one looks at large cities such as Los Angeles, San Jose, Houston, etc., one will notice that areas that twenty years ago were open land are now bustling business areas owned and operated by Vietnamese, and if one looks at the rosters of employees of companies, factories, and offices throughout the country, one will see countless people with last names of Nguyen, Le, and Tran.

As contributions to this country by Vietnamese continue to grow, suddenly sabotage and terror struck right in the heart of the nation that my family had now taken as our second homeland. The news about the attacks on New York and Washington using hijacked airliners arrived as I was eating lunch with a group of tourists after hours of sightseeing. I sat motionless; my heart filled with rage. Not that I was not afraid, but the fear and worry I felt was completely different than the terror of a young girl who had to flee home with her parents as they saw strange aircrafts with tricolor markings [French aircrafts] bombing and strafing their poor village. The aircrafts attacked anything that moved, so the people were afraid to go out to work on the fields. The livestock were slaughtered, leaving the people to starve and to lack even the most basic necessities of life.

After living for twenty-five quiet years in South Vietnam and more than twenty years of peace in America, I thought I had nothing to fear from bombs and shells anymore. But no!  On the TV screen, one tower of the World Trade Center belched smoke as another airplane flew straight into the second tower. Both towers collapsed, and the anger in me grew apace with the black columns of smoke rising from the wreckage of the Twin Towers. The pain I felt was exactly the same as what I felt a quarter of a century before, when the Việt-Cộng shelled Saigon. As a woman whose education had been aimed solely at raising children and serving my husband, all I could do after I viewed the tragedy that faced my native land of Vietnam was to write – write to praise the courage of the soldiers of the Republic of Vietnam and to honor the indescribable sacrifice of their mothers, their wives, and their children, because whenever a soldier fell the hearts and the lives of those close to him were crushed as well.

Now, as I saw the senseless and brutal carnage and loss of life in New York and Washington D.C., my soul was touched and I wanted to write out my private thoughts about the place that had given us a home and to which my family is still so grateful. Those thoughts took away most of my enjoyment of the tour, which I had only taken out of curiosity and the desire to understand the vast country of Russia.

Russia is a vast nation, but Russian lips are tight and they do not know how to smile and laugh. Russian food usually consists of tough, tasteless pieces of meat of unknown origin (even the menu does not say what kind of meat it is) that is fried with eggs or flour and eaten with potatoes. Every once in a while they will serve chicken. American foods, such as candy, ice cream, and different soft drinks made by the Coca Cola Company, are sold everywhere. I saw a few McDonald’s and Pizza Hut restaurants. Russian handicrafts, such as glassware and wood products, are extremely beautiful, because they are all hand-made. The Russian “Metro” subway system is very modern, even though it was built a half century ago. Every 30 seconds (and I emphasize that this is seconds, not minutes), a high-speed train arrives and another passes going the other direction. In their daily activities and work Russians, unlike Americans, do not dress in casual attire. While I was enthralled with the ballet and the ice skating performance, the Russian folk dances and folksongs touched my soul.  The music of Russian folk songs reflects the sad, mournful fate of the nomadic peoples of the steppes.

Russians are very proud of Red Square, because it is the symbol of the capital. When I saw the square in photographs and in movies, I thought it must be magnificent, but after seeing it with my own eyes, I decided, and not because of any political prejudice, that Red Square was not as grand, because it failed to blend the natural and the man-made together. Red Square is paved in red bricks and is located on a gently sloping hill. The entire square covers an area only about one third the size of Tienanmen Square in Beijing.  The highest points in this area are the government house and Lenin’s tomb. A cathedral with gaudily painted onion-shaped towers lies at one side of the base of the hill. The other side is just a large roadway. During parades to display its military might, Russia’s Red Army troops, tanks, and vehicles used this roadway as an exit. Now a high building has been erected there with an open roadway through the ground level to allow pedestrians and small cars to pass through. At the entrance to the other end of Red Square, the cathedral side, many cement barriers have been erected to prevent tanks and heavy vehicles from entering the Kremlin.  At night in front of the Kremlin, while young lovers whisper sweet nothings in each other’s ears, older Russians walk with halting steps, their thoughts turned toward a capital whose name has been changed to St Petersburg.

St. Petersburg is a city steeped in the history of the Russian Czars. St. Petersburg did not win my heart with its old cathedral, still bearing the scars of the bombs and shells of the Hitler era, or with its colorful paintings by Ivan Aivazovsky, Wassily Kandinsky, and Pavel Filonov, but I formed a deep affection for the rivers of St. Petersburg. The quiet, peaceful waters that stretch through every part of the city are challenged at every turn by proud, quiet, and strangely magnificent palaces. Sailing down the Neva River, while everyone else was watching the drawbridges being raised to let ships pass through, I could only think about the things I had seen along the road after crossing the Russian border. 

Along a stretch of rough road I had seen small clusters made up of rundown huts and shacks. Once in a while an ancient automobile could be seen parked under a tree, but I could not tell if the car was still usable or just a piece of junk. In the narrow yards, each house had put up a small shed, with a roof and walls covered with plastic sheets, to grow vegetables. I saw that the rural people farmed by hand rather than using machinery.

These scenes of poverty stayed in my mind constantly, but when we got to Minsk, all these images were thrust into the past, and all I felt was the inner pain of someone who had just learned that the place where she had lived for more than twenty years had just suffered a serious attack! From Minsk to Riga, I noticed that all the flags in the cities were flying at half-mast, and all the local people appeared to be worried, constantly watching their televisions or anxiously waiting for the hourly news. 

The event that moved me the most deeply happened at noon on September 14 at the Scandic Hotel in Helskinki, Finland, when the hotel management asked everyone to stand still for five minutes of silence to commemorate the tragedy. While I stood there in silence, the reports by the CNN commentator from the television on the wall of the conference hall filled my thoughts.  I felt the same pain in my heart that I felt in 1968, when I learned that the Việt-Cộng had attacked and captured the city of Hue, the home of my maternal grandparents.

After American and South Vietnamese forces regained control of Hue, I was anxious to return to see the destruction that had touched the home of my relatives. Now, at the Helsinki airport as I waited for a flight to Frankfurt, I was also anxious to return to a place I now called home.

After looking at my ticket and seeing that I was not a Caucasian, the Lufthansa employee told me:

You have a ticket. I will put your name on the list, but you will not get a seat. You will have to wait, because this is the first 747 flight from Germany to the United States.”

“I bought my ticket a long time ago. Why do I have to wait? And how long will I have to wait?”

“I am very sorry, but I do not know how long you will have to wait. Whenever we have a seat, we will notify you.  Right now we have a huge backup of passengers because there have been no flights for several days. And this flight, from Helsinki to Frankfurt and on to New York, is reserved only for...”

Too impatient to let her finish the sentence, I interrupted,

“I left home just two weeks ago. Can you tell me why I can’t return now?”

The woman looked at me in surprise.

“Home?” she asked.

I replied, my voice shaking as if I was about to cry,

“Yes, it’s my home.”

“Let me see your passport.”

After glancing at my passport, her entire demeanor changed.

“Yes, you are an American citizen. You will receive priority boarding on this flight.”

I bent down to pick up my luggage, silently saying a prayer of gratitude to the United States, the place that had taught me the true value of freedom, democracy, and justice, and where, in every respect, America had given me the opportunity to demonstrate my independence as a woman./.


Mit Liebe und Anerkennung für Amerika
THỦY ĐIỀN dịch sang Đức ngữ       
                                                                                           ĐIỆP MỸ LINH

(Während in Russland Urlaub, Điệp-My-Linh, ein Mitglied der ngày Nay-Redaktion, beobachtete das Fernsehen in Entsetzen, wie der Terroranschlag auf Amerika entfaltete und entführte Verkehrsflugzeuge in die Türme des World Trade Center stürzte in New York und das Pentagon in Washington, DC wurde Dieser kurze Artikel am Flughafen in Frankfurt am Main, Deutschland geschrieben, während der Autor für einen Anschlussflug nach Hause in die Vereinigten Staaten wartete.)
 Als ich aus dem Trafalgar-Tour Company Bus trat, bemerkte ich sofort eine Gruppe von alten russischen Männer auf der linken Seite des entranceway sitzt neben einem kleinen Kanal. Jeder Mann wurde ein Militärmusikinstrument trägt - Saxophon, Trompete, Klarinette, etc. Ich wusste nicht, ob sie die Touristen gehört hatte, in Englisch gesprochen, aber plötzlich dieser kleine Band stand auf und fing an, die amerikanische Nationalhymne zu spielen.
Die gesamte Reisegruppe gestoppt überrascht, weil wir in Russland waren. Die amerikanischen Touristen unter uns platziert unsere rechte Hand über unseren Herzen. Mit Blick auf die Band, wie sie gespielt haben, dachte ich mir, dass sie sehr gewesen sein könnte junge Soldaten, die im Zweiten Weltkrieg gekämpft. Ich war mit Traurigkeit berührt, wie ich diese alten, schwachen Soldaten beobachtete versuchen, ihre Fehler zu Atem zu verwenden, um ein Leben zu machen, indem die Nationalhymne ihres früheren Feind zu spielen, weil ein russischer Veteran Rente sehr gering ist.
Die Musik endete. Die Touristen fiel smilingly Geld in eine kleine Tasche vor den Musikern gelegt. Die Musiker setzte sich und begann zu spielen "Amerika, das Schöne." Ich stand still, sehr bewegt.
Die Emotionen, die ich fühlte mich ähnlich denen waren, die ich im Jahr 1977 fühlte, als meine älteste Tochter, Xuan-Nguyet, dann in der 8. Klasse, den ersten Preis in der gesamten Bundesstaat Arizona für ihren Aufsatz gewonnen, mit dem Titel "Was macht Amerika schön? "Meine Familie wurde mit dem Transport unterstützt Xuan Nguyet von Yuma nach Phoenix zu nehmen die Auszeichnung in einer wundervollen und feierlichen Zeremonie erhalten. Das war das erste Mal, dass ich das Lied hörte "America, the Beautiful", wie das gesamte Publikum in Gesang verbunden. Mir wurde plötzlich klar, dass ich weinte. Aber dann der Rhythmus und die Worte des Liedes beruhigte meine Gefühle. Ich gewann meine Gelassenheit, wie ich Umarmungen und Glückwünsche von den Amerikanern in der Nähe von mir stand akzeptiert. Von den Glückwünschen von diesen Leuten gesprochen, die ich noch nie zuvor getroffen hatte, wurde mir klar, dass sie dachte, dass ich Tränen der Freude für meine Tochter Erfolg zu weinen. Das stimmte nur zum Teil, weil, zusätzlich zu einem Stolz der Mutter, meine Tränen auch meine Sorge und Heimweh reflektiert, wie ich die zukünftigen Herausforderungen konfrontiert, die ich wusste nicht, ob ich überwinden konnte.
Nach über 26 Jahren und nach großen Opfern und Anstrengungen, hat meine Familie viele Schwierigkeiten zu überwinden. Meine Kinder und deren Ehepartner widmen jetzt die Fähigkeiten und das Wissen, das sie in dieser Nation gewonnen haben, zum Aufbau einer prosperierenden, gebildet, und kultiviert Land beizutragen. Was mich betrifft, neben Kultur und Wohlstand, sehe ich, dass das amerikanische Volk wirklich enorm Herzen hatte. Nur so gute, große Herzen Flugzeugladungen von Medizin hätte gesendet und das medizinische Personal freiwillig den hungernden Menschen in Afrika zu retten. Nur so großen Herzen hätte geschrieben und ein Lied gesungen wie "We Are the World" um Geld zu sammeln, nach Afrika zu schicken Hunger zu stoppen. Nur große Herzen, wenn der russische Reaktor explodierte in Tschernobyl zu helfen würde, haben die Ärzte, Apotheker und medizinische Versorgung nach Russland geschickt. Nur große Herzen Notfall Flüge hätte geschickt Waisen aus Vietnam im April zu evakuieren 1975. Nur große Herzen nach der Welle von Flüchtlingen in dieses Land kommen haben dazu beigetragen, Welle würde. Unter den Millionen von Flüchtlingen waren die Mitglieder meiner Familie. Meine Familie ist wirklich dankbar:
• Retired Marine Corps-Dur Michael Z. Smith und seine Frau, die uns aus dem Camp Pendelton Flüchtlingslager gefördert. Mr. und Mrs. Smith haben drei Kinder: Michael, die derzeit ein Kapitän in der US-Air Force; Kristin, den sie aus Japan angenommen; und das jüngste Mädchen, Heather. Herr Smith ist derzeit ein Pastor in Kalifornien.
• Herr und Frau Collins: Mr. Collins war ein Vietnam-Veteran. Eine vietnamesische Familie versteckt und ihn unterstützt, wenn das ..... wurden für ihn zu jagen. Herr Collins sagte uns, er schuldete eine Schuld an dem vietnamesischen Volk, so dass er liebte sie und wollte sie mit seinem ganzen Herzen zu helfen. Das war ein Glück für uns, weil wir die einzige vietnamesische Familie in der Stadt Yuma waren.
• Herr und Frau Collard, der meine Familie liebte wie ihre eigenen. Sie immer glücklich und stolz stellte uns alle wie ihre eigenen Kinder und Enkelkinder. Mir war nicht bewusst, dass Herr Collard ein Veteran des Zweiten Weltkriegs gewesen war, weil er nicht ein einziges Mal das schreckliche Krieg erwähnt. Erst als Herr Collard starb und ein shipmate seines gab die Laudatio bei seiner Beerdigung habe ich erfahren, dass er in Pearl Harbor während des japanischen Angriffs gewesen war. Herr Collard hatte viele Leben gerettet, dass der Mann mit, der die Laudatio gab, und war der letzte Mann gewesen sein Schiff zu verlassen.
Mein Wissen über US-Soldaten in Pearl Harbor, der Normandie und andere solche Schlachten ist sehr begrenzt, weil es nur auf Bücher und Filme basiert. Doch mein Wissen über die Opfer und den Mut der US-Soldaten während des Vietnam ist ziemlich große - viel besser als die von Autoren, die nie den Krieg in Vietnam sah. Ich glaube, dass, obwohl der Krieg endete jäh und unfair, es hatte zu einem Ende kommen, weil so viel Vietnamesisch Blut, aus Nord- und Süd-Vietnam, und amerikanisches Blut war vergossen worden, dass es jeden Zoll Boden meines durchdrungen verarmten Land.
Nach Südvietnam abgelaufen ist, evakuiert die südvietnamesischen Marine mehr als 100.000 Vietnamesen, sie von den Schrecken des Kommunismus zu retten. Wenn jedoch war es für die Anwesenheit der US-7. Flotte im Pazifik nicht gewesen, und wenn wir nicht die bedingungslose Unterstützung und Hilfe der amerikanischen Bevölkerung erhalten hatte, wo würde dies massive Flut von Flüchtlingen gegangen sind? Dank der Menschheit des amerikanischen Volkes, gingen wir in den Vereinigten Staaten mit einem Geist der Dankbarkeit und Zuversicht, dass wir erholen konnten und unser Leben wieder aufzubauen. Nach unsäglichen Schwierigkeiten und Herausforderungen haben die Vietnamesen gewonnen und sind zu dem Gebäude und die Verteidigung dieser Nation contributred.
Als der Golfkrieg ausbrach, war ich besorgt und ängstlich, wenn ich Abschied sagte zu einem meiner jüngsten und geliebter Leser, Marine-Leutnant Hoang-Quoc-Tuan, der an Bord des Flugzeugträgers diente U.S.S. Unabhängigkeit und Segeln an die Front im Persischen Golf ab. In einem Brief, den er mir aus dem Golf geschickt, schrieb Tuan, "... amerikanische Soldaten die Vereinigten Staaten zu verteidigen, sind darauf trainiert, nicht Kriege zu beginnen." Unzählige Vietnamese-American junge Männer und Frauen, die geteilt, dass wunderbare Geist absolviert haben oder jetzt studieren an der berühmten Militärakademien USA, wie West Point, der Naval Academy, der Air Force Academy, usw.
Neben ihrer bedeutenden Beteiligung an Militärdienst haben Vietnamesisch jungen Menschen beigetragen und auch weiterhin diese Nation in allen Bereichen und Bereichen der Gesellschaft zu bauen, einschließlich der Medien, Bildung, Medizin, Wissenschaft, Weltraumforschung, usw.
Während Vietnamesisch junge Menschen so enorme Beiträge geleistet haben, sind die Anstrengungen der ersten Generation von Flüchtlingen nicht weniger bedeutend. Wenn man bei den großen Städten wie Los Angeles sieht, San Jose, Houston, usw., so wird man feststellen, dass Bereiche, die vor zwanzig Jahren offenes Land waren jetzt tummeln Geschäftsbereiche von vietnamesischen Besitz und betrieben, und wenn man die Dienstpläne sieht der Mitarbeiter von Unternehmen, Fabriken und Büros im ganzen Land, so wird man unzählige Menschen mit Nachnamen von Nguyen Le und Tran zu sehen.
Als Beitrag zu diesem Land Vietnamesisch weiter wachsen, plötzlich Sabotage und Terror schlug direkt im Herzen der Nation, dass meine Familie jetzt als unsere zweite Heimat genommen hatte. Die Nachricht über die Angriffe auf New York und Washington mit entführten Flugzeugen angekommen, wie ich das Mittagessen nach Stunden Sightseeing mit einer Gruppe von Touristen essen wurde. Ich saß regungslos; mein Herz mit Wut gefüllt. Nicht, dass ich hatte keine Angst, aber die Angst und Sorge fühlte ich war ganz anders als der Terror eines jungen Mädchens, die nach Hause fliehen musste mit ihren Eltern, als sie seltsame Flugzeuge mit tricolor Markierungen [Französisch Flugzeuge] Bombardierung sah und strafing ihre armen Dorf . Die Flugzeuge griffen alles, was bewegt, so dass die Menschen hatten Angst, auf den Feldern arbeiten zu gehen. Die Tiere wurden geschlachtet, so dass die Menschen verhungern und selbst die Grundbedürfnisse des Lebens zu fehlen.
Nach dem Leben fünfundzwanzig ruhigen Jahren in Süd-Vietnam und mehr als zwanzig Jahre Frieden in Amerika, ich dachte, dass ich nichts von Bomben und Granaten zu befürchten hatte mehr. Aber nein! Auf dem TV-Bildschirm, rülpste ein Turm des World Trade Center Rauch als ein anderes Flugzeug direkt in den zweiten Turm flog. Beide Türme stürzten, und die Wut in mir wuchs zügig voran mit den schwarzen Rauchsäulen aus den Trümmern der Twin Towers steigen. Der Schmerz, den ich fühlte, war genau das gleiche wie das, was ich vor einem Vierteljahrhundert fühlte, als der Vietcong Saigon beschossen. Als eine Frau, deren Ausbildung Kinder und dazu dient, mein Mann auf die Steigerung allein gerichtet worden war, alles, was ich tun konnte, nachdem ich die Tragödie gesehen, dass mein Heimatland von Vietnam konfrontiert war zu schreiben - schreiben den Mut der Soldaten der Republik Vietnam zu loben und das unbeschreibliche Opfer ihrer Mütter zu ehren, ihre Frauen und ihre Kinder, weil, wenn ein Soldat die Herzen fiel und das Leben derer, die ihm nahe als auch niedergeschlagen wurden.
Jetzt, da ich die sinnlosen und brutalen Gemetzel und Verlust von Menschenleben in New York und Washington DC sah, war meine Seele berührt, und ich wollte, dass meine privaten Gedanken über den Platz zu schreiben, die uns ein Haus gegeben hatte und zu dem meine Familie immer noch so dankbar. Diese Gedanken nahmen die meisten meiner Freude an der Tour entfernt, die ich nur aus Neugier und dem Wunsch genommen hatte das weite Land von Russland zu verstehen.
Russland ist ein riesiges Land, aber russische Lippen sind eng, und sie wissen nicht, wie zu lächeln und zu lachen. Russische Küche besteht in der Regel aus robustem, geschmacklos Stücke Fleisch unbekannter Herkunft (auch das Menü nicht sagen, welche Art von Fleisch ist es), die mit Eiern oder Mehl und gegessen mit Kartoffeln gebraten wird. Jeder einmal in eine Weile werden sie dienen Huhn. Amerikanische Lebensmittel wie Süßigkeiten, Eis und andere weiche von der Coca Cola Company Getränke werden überall verkauft. Ich sah ein paar McDonalds und Pizza Hut Restaurants. Russische Kunsthandwerk, wie zum Beispiel Glas und Holzprodukte, sind extrem schön, weil sie alle von Hand gefertigt sind. Die russische "Metro" U-Bahn-System ist sehr modern, obwohl es vor einem halben Jahrhundert gebaut wurde. Alle 30 Sekunden (und ich betonen, dass diese Sekunden, nicht Minuten), ein High-Speed-Zug kommt und eine andere Pässe in die andere Richtung gehen. In ihrer täglichen Arbeit und Arbeit Russen, anders als die Amerikaner, kleiden sich nicht in Freizeitkleidung. Während ich mit dem Ballett und der Eislauf Leistung, die russischen Volkstänze und Volkslieder berührt meine Seele war begeistert. Die Musik der russischen Volkslieder spiegelt die traurige, traurige Schicksal der nomadischen Steppenvölker.
Russen sind sehr stolz auf dem Roten Platz, denn es ist das Symbol der Hauptstadt. Als ich den Platz auf Fotografien und in Filmen sah, dachte ich es großartig sein, aber es mit meinen eigenen Augen, nachdem er, entschied ich mich, und nicht wegen irgendeines politischen Vorurteilen, dass dem Roten Platz nicht so großartig war, weil es versäumt Mischung der natürlichen und vom Menschen verursachten zusammen. Der Rote Platz ist in den roten Ziegelsteinen gepflastert und ist auf einem sanft abfallenden Hügel. Der gesamte Platz erstreckt sich über eine Fläche nur etwa ein Drittel der Größe des Tienanmen-Platz in Peking. Die höchsten Punkte in diesem Bereich sind die Regierungsgebäude und Lenins Grab. Eine Kathedrale mit grell bemalt Zwiebeltürmen liegt an einer Seite der Basis des Hügels. Die andere Seite ist nur eine große Straße. Während Paraden seine militärische Macht Russlands Truppen der Roten Armee, Panzer und Fahrzeuge, die diese Straße als Ausgang verwendet, um anzuzeigen. Nun wird ein hohes Gebäude wurde dort mit einer offenen Fahrbahn durch den Boden errichtet Fußgänger und kleine Autos passieren lassen. Am Eingang zum anderen Ende des Roten Platzes, der Kathedrale Seite haben viele Zementbarrieren wurden Panzer und schwere Fahrzeuge vom Eintritt in den Kreml zu verhindern errichtet. In der Nacht vor dem Kreml, während junge Liebhaber süße Nichtigkeiten in die jeweils anderen Ohren flüstern, ältere Russen mit Halte Schritte gehen, wandte sich ihre Gedanken zu einer Hauptstadt, deren Name nach Sankt Petersburg geändert wurde.
St. Petersburg ist eine Stadt, in der Geschichte der russischen Zare durchdrungen. St. Petersburg nicht gewinnen mein Herz mit seiner alten Kathedrale, noch die Narben der Bomben und Granaten der Hitler-Ära trägt, oder mit seinen bunten Gemälden von Ivan Aiwasowski, Wassily Kandinsky und Pavel Filonov, aber ich bildete eine tiefe Zuneigung zu die Flüsse von St. Petersburg. Die ruhigen Gewässern, die durch jeden Teil der Stadt dehnen sich bei jeder Gelegenheit durch stolz, ruhig in Frage gestellt, und seltsam prächtige Paläste. Segeln am Fluss Newa nach unten, während alle anderen wurde die Zugbrücken beobachten angehoben werden Schiffe, die durch passieren zu lassen, habe ich nur über die Dinge denken konnte ich auf der Straße gesehen hatte, nachdem die russische Grenze überquert.
Entlang einer Strecke von holprigen Straße hatte ich kleine Cluster aus heruntergekommenen Hütten und Baracken aus gesehen. Einmal in eine Weile ein altes Automobil könnte unter einem Baum zu sehen geparkt, aber ich konnte nicht sagen, ob das Auto noch brauchbar war oder nur ein Stück Müll. In den engen Höfen, hatte jedes Haus einen kleinen Schuppen, mit einem Dach und die Wände mit Plastikfolien abgedeckt setzen, um Gemüse anzubauen. Ich sah, dass die ländlichen von Hand bewirtschaftet Menschen statt Maschinen verwendet wird.
Diese Szenen der Armut blieb in meinem Kopf ständig, aber wenn wir nach Minsk bekam, alle diese Bilder wurden in der Vergangenheit gestoßen, und alles fühlte ich war der innere Schmerz von jemandem, der hatte gerade gelernt, dass der Ort, an dem sie für mehr gelebt hatte als 20 Jahre hatte gerade einen schweren Angriff gelitten! Von Minsk nach Riga, bemerkte ich, dass alle Flaggen in den Städten auf Halbmast flogen, und alle Menschen vor Ort erschien besorgt zu sein, ständig ihren Fernseher oder ängstlich wartet auf den stündlichen Nachrichten zu beobachten.
Das Ereignis, das mich bewegt am tiefsten am Mittag am 14. September geschah im Scandic Hotel in Helskinki, Finnland, wenn das Hotelmanagement alle gefragt noch für fünf Minuten der Stille zu stehen, die Tragödie zu gedenken. Während ich in der Stille stand da, füllten die Berichte der CNN-Kommentator aus dem Fernseher an der Wand des Konferenzsaal meine Gedanken. Ich spürte den gleichen Schmerz in meinem Herzen, dass ich im Jahr 1968 fühlte, als ich erfuhr, dass der Vietcong angegriffen hatte und eroberte die Stadt Hue, die Heimat meiner Großeltern mütterlicherseits.
Nach amerikanischen und südvietnamesischen Streitkräfte die Kontrolle über Hue wiedererlangte, war ich besorgt, die Zerstörung zurückzukehren, um zu sehen, die das Haus meiner Verwandten berührt hatte. Jetzt, am Flughafen Helsinki als ich für einen Flug nach Frankfurt wartete, war ich auch an einen Ort zurückzukehren, ängstlich ich jetzt zu Hause angerufen.
Nachdem bei meinem Ticket suchen und zu sehen, dass ich nicht ein kaukasischer war, sagte der Lufthansa-Mitarbeiter mir:
"Sie haben ein Ticket. Ich werde Ihren Namen auf die Liste gesetzt, aber Sie werden nicht einen Platz zu bekommen. Sie werden warten müssen, denn dies ist die erste 747 Flug von Deutschland in die Vereinigten Staaten. "
"Ich kaufte mein Ticket schon vor langer Zeit. Warum muss ich warten? Und wie lange muss ich warten? "
"Ich bin sehr traurig, aber ich weiß nicht, wie lange müssen Sie warten. Jedes Mal, wenn wir einen Platz haben, werden wir Sie benachrichtigen. Im Moment haben wir eine riesige Sicherung der Passagiere, weil dort waren keine Flüge für mehrere Tage. Und dieser Flug von Helsinki nach Frankfurt und weiter nach New York, reserviert nur für ... "
Zu ungeduldig sie beenden den Satz zu lassen, unterbrach ich ihn,
"Ich verließ vor nur zwei Wochen nach Hause. Können Sie mir sagen, warum ich jetzt nicht zurückkehren können? "
Die Frau sah mich überrascht an.
"Zuhause?", Fragte sie.
Ich antwortete, meine Stimme zitterte, als ob ich weinen wollte,
"Ja, es ist mein Zuhause."
"Lassen Sie mich Ihren Pass zu sehen."
Nach einem Blick geändert in meinem Pass, ihr ganzes Verhalten.
"Ja, Sie sind ein amerikanischer Bürger. Sie Priority Boarding auf diesem Flug zu erhalten. "
Ich bückte mich, mein Gepäck zu holen, leise ein Gebet der Dankbarkeit gegenüber den Vereinigten Staaten sagen, der Ort, der mir den wahren Wert der Freiheit gelehrt hatte, Demokratie und Gerechtigkeit, und wo, in jeder Hinsicht, Amerika hatte mir die Möglichkeit gegeben, meine Unabhängigkeit als Frau zu demonstrieren.


  ĐIỆP MỸ LINH