Sunday, 12 January 2014

BS Nguyễn Hy Vọng Tết là gì? Sưu tầm & tản mạn



photo:ykhoahuehaingoai.com
BS Nguyễn Hy Vọng
Tết là gì?
Sưu tầm & tản mạn


Tết là tên riêng [nom propre] gọi ngày lễ mừng đầu năm mới của rất nhiều dân tộc và sắc dân
ở khắp miền đông nam Á, còn tiết chỉ là một tên thường [nom commun] của Tàu gọi những
thời tiết thay đổi trong một năm.

Chỉ có ngừời Việt gọi là Tết , trong khi cả ngàn triệu nguời Tàu gọi ngày đó là duỳn tản
[nguyên đán] hay là xin  nển [tân niên]

Vậy tại sao họ không gọi là Tết ? vì Tết không phải là  tiếng của họ

Giờ ta hãy trở lại với cái tên gọi là TẾT.

Có một cách hợp lý để tìm cho ra nguồn gốc của ngày Tết và ý nghĩa ấy.

Hãy đi tìm trong tất cả các ngôn ngữ khác nhau ở miền nam Á châu  xem thử có ngôn ngữ nào
cũng có cái tên là tết và cũng có cái cách phát âm cách đọc cách nói và cũng có cái nghĩa là
ngàylễ ăn mừng đầu năm không ? Dù cho tiếng ấy không phải là tiếng Việt hay là tiếng Tàu
Nếu không có thì đành vậy chứ sao!

Vậy mà có đấy mà lại có rất nhiều và rất giống nhau gần y hệt, các bạn ơi!

Thật ra từ khi con nguời xưa ở miền rộng lớn Đông nam Á biết đuợc là cứ đều đều mỗi năm thì
 mùa gió đổi chiều và đem lại mùa mưa # tháng tư tháng năm, tùy theo từng vùng gió mùa, trước
 hết là từ bờ biển phía tây của lục địa Ấn độ rồi chuyển dần qua ngang vùng đất Ấn độ rồi tiếp
 tục lan qua phía đông đến lần lượt các xứ Bangladesh, Assam qua Miến điện, Myanmar bây giờ
 rồi thổi qua Thái lan Lào mà đến Việt nam rồi tiếp tục cùng lúc lên phía đông bắc là vùng Hoa
 nam bên Tàu và xuống phía đông nam là 15 000 hòn đảo của Indonesia.

 Và cách đây cả chục ngàn năm, con nguời ở cái vùng gió mùa mênh mộng ấy đã gọi tên là Tết
 cho cái hiện tuợng trời đất gặp nhau qua mùa qua gió này và họ ăn mừng cái lúc giao mùa đó
 bằng cái tên là TẾT, vì ai mà chẳng biết là không có mùa mưa đến thì kể như không trồng trọt gì
 được, huống chi là là trồng lúa.

 Đông nam Á là vùng của gió mùa mưa mùa, của mấy chục triệu con trâu, của mấy trăm triệu
 con nguời sống với cây lúa, nơi mà những hạt lúa oriza sativa đã đựợc tìm ra từ 6000 năm trước
 [tài liệu của ông William Solzheim, đại học Hawai]

 Gió mùa và mưa mùa là quyết định dứt khoát của đất trời cho con nguời ở Đông nam Á. Khi
 mưa gió không thuận hoà thì hạn hán và đói kém sẽ bao trùm, cuồng phong và lụt lội sẽ tàn phá
 hàng trăm ngàn mẫu ruộng lúa và giết hại hàng ngàn nguời. nông nghiệp và sự sống còn của
 hàng chục triệu nguời hoàn toàn tùy thuộc vào cái ân huệ vừa phải của mùa mưa đến hàng năm
 trên cái phần đất mênh mông này !

 Gió mưa đầu mùa là hứa hẹn của năm mới, của một đời sống mới, đuợc chờ đợi khoắc khoải
 và đón mừng hân hoan, và triền miên có mặt trong mọi lãnh vực tin tuởng, huyền thoại hay tâm
 linh, và cái thực tế của đời sống hàng ngày của nguời đi cày đi cấy cũng gắn liền với bao nhiêu
cái tin tuờng đó. 

Trên những trống đồng từ ba ngàn năm trước, mấy con ếch, cóc nhái, ễnh ương ệnh oạng nằm
chồng lên nhau, mỗi góc trống ba con, như một ám ảnh không ngừng về mùa mưa về ruộng
đồng ao hồ sông nuớc về bất cứ mảnh đất nào mà cây lúa có thể mọc lên
   
Biết bao nhiêu ca dao tục ngữ, bài vè nói về mùa mưa, về lúa gạo về ếch nhái và về ngàyTết
trong tiếng Việt.

Ở xứ Nepal bên đông bắc Ấn độ, ngày lễ đầu mùa mua cung gọi là TEETJ ; trong mấy ngày
 đó, nguời dân bản xứ ăn mừng, ca hát, nhảy múa, đánh đu, uống ruợu, tạt nuớc vào
nhau để chúc mừng, chúc lành cho nhau, chúc Teetj .

 Chung quanh xứ Nepal nhu ở Sikkhim và Bhutan, dân ở đó cung gọi ngày đầu mùa mưa là
 Tiitj

 Bên Miến điện và Thái lan thì tha hồ xịt nuớc tạt nuớc nhau ướt mèm vào ngày đó.

 Năm 1986 tôi qua học tiếng Mon bên Thái lan, gặp ngày lễ Song khràn ngày tết âm lịch cổ
truyền của dân Thái xưa, có nghĩa là giao mùa, trùng với mùa lễ Têj, vào 13 đến 15 april của
 năm dương lịch, bị một cô nguời Thái ở đền Nakhon Pathom lén bỏ một cục nước đá vào cổ áo
 sơmi của tôi nó lọt vào xuống lưng lạnh ngắt, cô ấy cười xin lỗi và nói là muốn chúc tết bất ngờ
 cho tôi theo kiểu tạt nuớc vào nhau của họ !
   
Người Lào Thái còn gọi ngày ấy là  wan pi  may / ngày năm mới

Người dân Kampuchia thì gọi ngày đó là thngày  chul  thnăm  chmây / ngày vào năm mới
[trong lịch cũ của họ thì họ gọi tháng giêng là  khae  Chêt // tháng tết]
  
 Người Chàm thì gọi là bulan  Chit tháng tết

Các dân tộc mạn ngược ngoài bắc Việt, cũng như nhiều dân tộc miền núi ở trung Việt vẫn có ăn
mừng hội mùa mưa, hội ngày mùa còn lớn hon cả hội mùa xuân[theo tài liệu của ông Nguyễn
văn Huyên ; "Les chants alternés des garcons et des filles en Annam / 1934"

Kể từ khi Tàu qua đô hộ Giao chỉ  cách đây 2000 năm, thì người Giao chỉ không còn ăn tết
 vào tháng tư tháng năm của lịch Muờng xưa lịch ngày lui tháng tới' đó nữa mà ăn Tết theo
 lịch Tàu, mà lịch Tàu hồi xưa thì cũng "bất thùng chi thình", khi thì ngày đầu năm của Tàu rớt
 vào tháng chạp, khi thì nhằm vào tháng giêng của họ, và sau nhiều thay đổi mới gọi là ngày
 duỳn tán xin nển của họ, chứ Tàu không gọi ngày đầu năm của họ là  tiết nhật [sic] bao giờ cả.
   
Chỉ có vài ông hán việt  « chợ chiều » khư khư cố mà tìm cho ra đuợc một cái âm huởng tàu
 cho cái tiếng Tết, nên cố tình guợng gạo mà ép cho nó là tiết , cũng như họ đã giải thích kiểu
"tầm phào" là Giao chỉ là ngón chân giao nhau [nói tàm bậy !] 

Lạc là chim lạc, ghe chài là ghe tải ! @ Lê ngọc Trụ [trời đất!]

Sau đây là những cognates / từ đồng nguyên / khắp Đông Nam Á, dính líu với TẾT

Al de RhodesTết                  Tết năm [sic], Tết ai, ăn Tết

Từ Điển Khai Trí Tiến Đức    không hề cho rằng Tết là # tiết của Tàu

Nùng:    TẾT
        niên Tết                          năm Tết

MuờngThết                         # Tết
         ăn Thết                        #  ăn Tết

Thái:     Thêts                       Lễ mừng năm mới [New Year celebration]
             Thêts khal               Mùa Tết, những ngày tết
             Thêts Thày             Tết Thái [Thai New Year’s celebration]
             Thrếts                      Tết [theo Từ Điển Francais-Thái của Pallegoix]
             Thrếts Chìn             Tết Tàu / Chinese New Year [Chìn là Tàu]
             Chêtr                        Tết của Thái [fifth lunar month / mid April festival]
             Tết / Đết                    # tên ông thần mưa [rain god, monsoon deity]
             Trôts                         lễ hội Thái từ xưa vào  đầu mùa mưa, cuối April-May
             Trốts Farăng            Tết Hoa-Lang [Western New Year's Day]
                                                [xem bài "Hoa lang đạo là đạo gì?" @ Bs Nguyễn
                                                hy Vọng [Hoa Lang là: Occident, West]

ZhuangXIT / SIT                  Lễ Tết của 20 triệu người Zhuang bên Quảng Tây,
                                                 nói tiếng Tai # tiếng Thái xưa!
              đươn  Sít                   tháng Tết [mois de festival célébrant la mousson]
                                                [đươn là tháng]
Chàm:   TÍT                            Lễ tháng năm của lịch xưa Chàm
                                               [tháng gió mùa bắt đầu thổi]
     băng Tít                             ăn Tết
             CHÊT                       Tết
   bu-lăn Chêt                         tháng tết [bu lăn là tháng, tiếng Chàm]
              KTÊH                      lễ hội lớn nhất trong năm của nguời Chàm

Mon:     KTEH                       New Year Day of the Mon people in Myanmar
             o-TEH                       New Year celebration with water splashing
             o - Tet                                                      id
               k-Tât                       New Year rituals
               k-Tet                                  id

Khmer:  CHÊTR                   Tết, lễ mừng tháng năm theo cổ lịch Khmer
                                              là tháng gió mùa bắt đầu thổi ngược lại,
                                              tháng của mùa gió nồm ở Đông Nam Á
                                              [tùy theo nơi, từ cuối tháng tư đến cuối tháng năm]
         khae Chêtr                   tháng tết [khae là tháng] # 13 tháng 4 dương lịch
                                              # 23 tháng ba âm lịch.
         Chêtr khal                   thời gian có lễ Tết [khal là thời gian].
     
 India:       Chêtr                 là tên tháng tư và tháng năm của cổ lịch Ấn Độ,
                                             tên của tháng giao mùa đem mưa đến.
                                             [mois du début de la mousson]
Nepal:      TEEJ                  Lễ đầu năm của dân xứ Nepal

Mustang:  TIDJ  / Tidji      Lễ đầu năm của xứ Mustang, bên cạnh xứ Nepal

Miền đông bắc Ấn Độ:
MundaTEEJ                 Monsoon festival celebration, college girls singing  the ancient melodies of Teej,
                                           marking the return of the monsoon and the promises of prosperity
    [National Geographic magazine]
      
Kinh Lễ Ký: TẾ-SẠ!         Khổng Tử nói [trong kinh Lễ Ký]: “Ta không biết Tết là gì, nghe đâu đó là tên của một
ngày lễ hội lớn của bọn người Man, họ nhảy múa như điên, uống ruợu và ăn chơi vào
những ngày đó ». « Họ gọi tên cho ngày đó là "TẾ SẠ" ».  Khổng Tử không nghĩ  rằng « tiết »
                                          là cái âm sinh ra Tết, nên ổng mới phiên âm khác đi là Tế-Sạ.

 Hơn nữa, xem trên, có cả chục ngôn ngữ và nền văn hóa khác với Tàu, ăn mừng ngày đầu năm của họ mà vẫn mang những cái tên
 mà ý nghĩa và phát âm, cách nói và đọc đều giống  với cái âm, cái tên, cái tiếng Tết của dân Giao Chỉ và của dân Mường, nên ta phải
"suy nghĩ lại" về cái hiểu lầm Tết  # Tiết của hơn 2000 năm qua.
    
    Như vậy, tết là tên gọi cái ngày ăn mừng đầu mùa mưa và sau này trở thành ngày ăn mừng đầu năm âm lịch luôn của các dân
Mường, Nùng, Thái, Zhuang, Chàm, Mon, Khmer, Vùng đông bắc Ấn độ, Nepal. Mustang, Munda

Hỏi nhỏ bạn, bạn có còn cho rằng Tết là tiết của Tàu mà ra không?

                                  
                                                        
NGUYỄN HY VỌNG,  M.D.



Tài liệu tham khảo :
Ancient China, Howard Edward H. Shafer / Time Life, New York
Ancient China, Maurizio Scarpari / Barnes Noble, Italy
Thai Dictionary, Mary Haaj / Stanford, CA  1964
The languages of China before the Chinese, Terrien de Lacouperie / London 1887, Taipei 1966
A dictionary of the Mon inscriptions, HL Shorto, London 1971
Studies in Munda linguistics , Sudhibushan Batacharya / Simla, Calcutta 1975
Lao English dictionary, Russell Marcus/ Japan 1975
Dictionary Lingua Thai, Pellegoix PL 4186 PS 1854 a 1972
English Hmong dictionary, Lang siong & Joua Siong, Nao Leng Siong PL 4072 4X / 1984
Introduction to Sino Tibetan [Shafer 1966 – Wiesbaden germany PL 3521,S
A grammar of the Khasi language [rev H. Roberts / London- Kegan Paul Trench Hubner and Co LTD, Pater Noster House, Charing Cross Rd, 1891
Excerpts from Brittanica 1999