Saturday, 29 March 2014

SÁNG TRĂNG SUÔNG - Hoàng Hải Thủy

Thiếu nữ ngủ ngày. Tranh Bùi Xuân Phái. Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm..
Thiếu nữ ngủ ngày. Tranh Bùi Xuân Phái. Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm..
Tháng Ba 2014,  mưa tuyết – chắc là lần mưa tuyết cuối cùng của mùa Đông Virginia 2014 – vừa đi qua Rừng Phong. Mưa tuyết đi qua nhưng tuyết còn ở lại trắng trời, trắng đất, trắng cây. Vợ chồng già líu ríu bên nhau trong căn phòng ấm. Già, cơm không là vấn đề. Vợ đan áo, chồng mò mẫm trên Internet.
Tìm được bài viết “Thi Ca Dục Ái trong Văn Học” của NhàBiên Khảo Trần Bích San. Thấy chuyện Lá Đa, Mõm Chó, Sự Đời, Hái Chè, Váy, Con Cúi..vv..; toàn chuyện hấp dẫn, bèn có  hứng muốn viết góp ý. Trước hết mời quí vị đọc:
Trần Bich San. “Thi ca dục ái trong văn học.”
Thi ca dục ái xuất hiện từ lâu trong văn chương truyền khẩu. Phong dao, tục ngữ, câu đố có những bài, những câu liên quan đến tính dục nam nữ . Loại tác văn này không bóng bảy như văn chương chữ viết mà đôi khi còn thô lỗ, trắng trợn, tục tằn nữa. Thực ra đó chỉ là phản ảnh đặc tính nôm na, mộc mạc, tượng hình và cụ thể của nền văn học dân gian:
Tranh Bùi Xuân Phái. Vịnh Quạt Giấy: Mười bẩy hay là mười tám đây?
Tranh Bùi Xuân Phái. Vịnh Quạt Giấy: Mười bẩy hay là mười tám đây?
Sáng trăng em tưởng tối trờiNgồi buồn em để cái sự đời em raSự đời như chiếc lá đaĐen hơn mõm chó, chém cha cái sự đời.
hoặc:
Hôm qua em đi hái chèGặp thằng phải gió nó đè em raEm lạy nó cũng chẳng thaNó cứ ấn, cứ nhét cái đầu cha nó vàoCái gì như cái củ nâuCái gì như thể cái cần câu nó gật gù…
(Phong Dao)
Văn chương chữ nghĩa bề bềThần l.. ám ảnh cũng mê mẩn đời
hoặc:
Không giàu thì cũng đẹp giaiKhông thông kinh sử cũng dài con Q.
(Tục Ngữ)
Canh một thì trải chiếu raCanh hai bóp vú, canh ba sờ l..Canh tư thì lắc xom xomCanh năm cuộn chiếu ẵm con mà về
(Câu đố tả người kéo vó ban đêm)
Từ ngàn xưa đạo Nho bao trùm xã hội Việt Nam, quan hệ tình dục bị coi là thô tục nên văn gia tránh không đề cập tới. Nội dung thơ văn không hợp với đạo lý thánh hiền đều bị lên án khắt khe như “đàn ông chớ kể Phan Trần, đàn bà chớ kể Thúy Vân Thúy Kiều”. Truyện Phan Trần có đoạn tả Phan Sinh ốm tương tư, si tình đến toan tự tử. Với người xưa, nam nhi mà nhu nhược, ủy mị như thế là điều không thể chấp nhận được. Thúy Kiều vượt vòng lễ giáo đang đêm lẻn sang nhà Kim Trọng tình tự là điều luân lý Khổng Mạnh không cho phép. Truyện Kiều bị lên án là dâm ô, khiêu khích tình dục vì có đoạn tả nàng Kiều tắm và lúc Kiều thất thân với Mã Giám Sinh tuy rằng chỉ với những nét ước lệ, mờ nhạt thiếu tính cách cụ thể sinh động:
Buồng the phải buổi thong dongThang lan rủ bức trướng hồng tắm hoaRõ ràng trong ngọc trắng ngàDầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên
(Kiều tắm)
Tiếc thay một đóa trà miCon ong đã tỏ đường đi lối vềMột cơn mưa gió não nềThương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương
(Mã Giám Sinh phá trinh Kiều)
Các thi gia có tư tưởng phóng khoáng như Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Khuyến cũng chỉ dám phớt qua:
Giang sơn một gánh giữa đồngThuyền quyên ứ hự anh hùng nhớ không.
(Nguyễn Công Trứ)
Đàn bà con gái sắn quần lênCái gì trăng trắng như con cúi
(Nguyễn Khuyến, Chỗ Lội Làng Ngang)
Hồ Xuân Hương, nhà thơ đầu tiên vượt trên cấm cản của xã hội, mô tả thật sống động cuộc mây mưa giữa nam nữ :
Trai co gối hạc khom khom cậtGái uốn lưng ong ngửa ngửa lòngBốn mảnh quần hồng bay phấp phớiHai hàng chân ngọc duỗi song songChơi xuân có biết xuân chăng tá?Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không
(Đánh Đu)
Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựaThiếp vội vàng vướn phứa tịnh lênHai xe hà chàng gác hai bênThiếp sợ bí thiếp liền ghểnh sĩChàng lừa thiếp đương cơn bất ýĐem chốt đầu dú dí vô cung…
(Đánh Cờ)
Bà không ngại ngùng ca ngợi vẻ đẹp thể chất con người. Những bộ phận kín phụ nữ được diễn tả rõ ràng bằng lời thơ đầy nghệ thuật:
Thân em như quả mít trên câyDa nó sù sì, múi nó dàyQuân tử có thương thì đóng nõXin đừng mân mó nhựa ra tay
(Quả Mít)
Cỏ gà lún phún leo quanh mépCá giếc le te lách giữa dòng
(Giếng Nước)
Đôi gò bồng đảo sương còn ngậmMột lạch đào nguyên nước chửa thông
(Thiếu Nữ Ngủ Ngày)
Thi ca dục ái Hồ Xuân Hương được lồng dưới hình thức ẩn dụ. Chính phần ẩn dụ chứa đựng những điều bị cho là thô tục, lả lơi, dâm dục có hại cho thế đạo nhân tâm. Thi sĩ Tản Đà lên án như sau: “Người ta thường có câu Thi Trung Hữu Họa, nghĩa là trong thơ có tranh. Như thơ Hồ Xuân Hưong lại là Thi Trung Hữu Quỉ, nghĩa là trong thơ có quỉ (An Nam Tạp Chí số 3 ra ngày 1/10/1932). Dương Quảng Hàm viết trong Quốc Văn Trích Diễm: “Suốt tập thơ Hồ Xuân Hương không mấy bài là không có ý lả lơi, dầu tả cảnh gì vật gì cũng vậy” (Quốc Văn Trích Diễm, chương 10).
Trong nền văn học chữ quốc ngữ, thời tiền chiến sự hiện diện của thi ca dục ái chỉ thấp thoáng trong thơ Hàn Mặc Tử :
Tiếng ca ngắt. Cành lá rung rinhMột nường con gái trông xinh xinhỐng quần vo xắn lên đầu gốiDa thịt, trời ơí trắng rợn mình…
(Thi tập Gái Quê, bài Nụ Cười)
Thi ca dục ái bắt đầu rõ nét hơn trong thơ Bích Khê. “Sự trần truồng dâm đãng đã nhường lại cho ý vị nên thơ của hương, của nhạc, của trăng, của tuyết.” (Hàn Mặc Tử, Tựa tập thơ Tinh Huyết của Bích Khê):
Dáng tầm xuân uốn trong tranh tố nữÔ tiên nương! nàng lại ngự nơi này?Nàng ở mô? xiêm áo bỏ đâu đây?Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễmNàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thườngLệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọcĐêm u huyền ngủ mơ trên mái tócVài chút trăng say đọng ở làn môiHai vú nàng, hai vú nàng, chao ôi !Cho tôi mút một giòng sông ngọt lộngVà ô kìa một tòa hoa nghiêm độngTay run run hãm lại cánh tình siHai tay nàng đã nở ngọc lưu lyHai chân nở màu sen ẻo lảCho tôi nàng, hãy cho tôi tất cả !…
(Tranh Lõa Thể)
Sang thế kỷ 21 thi ca dục ái là sự kết hợp nghệ thuật thơ Hồ Xuân Huơng, tính cách phong dao cận nhân tình và thêm chất thực tế trần trụi chói gắt của thi ca hiện đại. Nhà thơ công khai mô tả, ca ngợi vẻ đẹp lành mạnh tràn đầy nhựa sống, quyến rũ của thân thể con người cả hai phái nam nữ. Các điều đạo đức lánh xa che mặt được nhà thơ biến thành những đối tượng hấp dẫn. Tính dục mang tính cách tất yếu, một bản chất tự nhiên như ăn ngủ, là hạnh phúc hào hứng thực tế nhân loại. Chuyện ái ân nam nữ trong thơ dục ái dồi dào sức sống, bừng bừng sinh lực, đầy ắp không khí tươi mát lành mạnh đất trời. Con người và thiên nhiên hòa nhập, tương ứng, hài hòa với nhau. Thiên nhiên chứa đựng sinh lực con người. Con người thấm đượm màu sắc rực rỡ tươi thắm thiên nhiên:
Trong gió sớm cuộc hẹn hò cảnh khácRạch sậy lau che kín chiếc thuyền câuDành riêng em hưởng nguyên vẹn tình đầuĐang trượt té qua cuộc tình nhục cảmÔi thế sự, ôi cuộc đời bụi cám !Có nghĩa gì bằng dâng hiến tình yêu ?Trái cấm dành người dám bạo dám liềuTòa hoan lạc thường có ngoài cổ tích.Hai thân thể trần truồng cùng quấn quítNụ hôn nồng, môi ham hố cơn sayChồi nhân sinh gay gắt đỏ, giương dàiCứ hăm hở chui huyệt sâu khoái lạc.Trong gió sớm ôm mông chàng thật sátEm lắng nghe thân ngún lửa từng cơnChàng vẫy vùng, thọc ngoáy thật sâu hơnCùng bay bổng lên thiên đường cảm giácTrong gió sớm nhựa tinh chàng thơm ngátTuôn vào em từng đợt quánh và trơnEm tặng chàng những vết máu tươi sonKhi chàng sống bản năng con thú đực
(Hồ Trường An, Trong Gió Sớm)
Thơ dục ái không hoằng dương nhục cảm. Nhà thơ sử dụng nó như phương tiện chuyên chở nghệ thuật, gây thích thú thưởng ngoạn, kích thích giác quan thẩm mỹ, tạo không khí trân trọng nghệ thuật. Tình yêu trong thơ dục ái là sự thăng hoa toàn diện, triệt để, vô hạn giữa tâm hồn và thể xác, giữa cá nhân với quê hương, giữa con người với thiên nhiên:
Rồi đó một trang đời mở rộngAnh đưa em dưới vòm lá đêmTham lam môi nóng ghì môi ướtTay cứng nhồi xoa tảng ngực mềmĐưa đẩy em trong một chiếc giườngXem thường hiểm họa đạp tai ươngKhi nhìn thân thể anh ngồn ngộnDa thịt nồng nàn như bốc hươngEm nghe bật vỡ nơi sâu kínMáu thắm tuôn ra vậy cũng đànhKhông biết thiên đường hay địa ngụcKhi nằm rạo rực dưới thân anh
(Hồ Trường An, Xa Bến Thiên Đường)
Thiên-đường-huyền-thoại vốn là không gian ảo chỉ hiện hữu trong ước mơ, nơi hứa hẹn hạïnh phúc vĩnh cửu nhưng xưa mai có ai tới được ngưỡng cửa thiên đường ? Thiên-đường-dục-ái là không gian có thật. Trong suốt hành trình đời sống hầu như mọi người ai cũng hơn một lần bước vào. Con thuyền-thơ-dục-ái chở những người yêu nhau chân chính trở lại tìm kiếm không gian và thời gian mà họ đã sống đến tận cùng giây phút tuyệt vời ngút lửa của hoan lạc thân xác trên giòng sông đam mê có thực. Thi ca dục ái là tiếng lòng nức nở và hoài niệm thiết tha của những tâm hồn nghệ sĩ đích thực. Một thời đại mới trong thi ca Việt đã mở đầu và dục-ái-ca thực sự chắp cánh bay bổng rạo rực ca ngợi hạnh phúc trần tục, thiên đường có thật của con người.
TRẦN BÍCH SAN
CTHĐ Sao Y Bản Chánh.
Công Tử Hà Đông bàn loạn: Xin Nhà Biên Khảo cho tôi góp vài ý mọn. Tôi không nói quyết tôi viết đúng, chỉ là góp ý thôi.
Chuyện tôi nên góp ý là chuyện “Sáng trăng.”
TBSan:
Sáng trăng em tưởng tối trờiNgồi buồn em để cái sự đời em raSự đời như chiếc lá đaĐen hơn mõm chó, chém cha cái sự đời.
Lời phong dao tôi biết từ năm tôi 12 tuổi:
Sáng trăng suông em tưởng tối trời.Em ngồi em để cái sự đời em ra..
Kính thưa: Phải là “sáng trăng suông” em mới tưởng là tối trời. Nếu trời sáng trăng, em không thể tưởng là tối trời, đang sáng trăng em tưởng tối trời là không có lý. Nhiều người Việt tuổi đời năm nay dưới Năm Bó, Sáu Bó,  không biết, không hiểu  “sáng trăng suông” là gì, tại sao lại gọi là “sáng trăng suông?”
Sáng trăng suông” theo sự biết không bảo đảm trúng trật, tức không quyết là đúng, cũng không quyết là trật, là sai, của kẻ viết CTHĐ là : đêm có trăng nhưng trăng bị mây mù che kín cả bầu trời, trăng không lộ ra, người không thấy trăng nhưng không gian đêm vẫn có ánh trăng sáng mờ mờ. Khi sáng trăng suông, ta không nhìn thấy mặt trăng. Phải ở đồng quê ta mới có thể thấy sáng trăng suông. Ở thành phố đêm có đèn điện, ta không thể thấy sáng trăng suông.
Tục Ngữ Phong Dao. Tác giả Nguyễn Văn Ngọc. Tập Dưới. Trang 182:
Sáng trăng suông, em nghĩ tối trời,Em ngồi em đề cái sự đời em ra.Sự đời bằng cái lá đa,Đen như mõm chó, chém cha sự đời.
Và Trang 128:
Sáng trăng suôngSáng cả vườn đào, sáng cả vườn chanh.Ba bốn cô đằng ấy có cô nào còn không?Có một cô thật đích cô chưa có chồng,Cho anh ghé chút làm chồng. Nên chăng?
Sáng trăng suông sáng cả cái đêm hôm rằm.Nửa đêm về sáng trăng bằng ngọn tre.Em có thương anh thì thương cho vẹn mọi bề..
Phải là “sáng trăng suông” em mới tưởng là tối trời. Chỉ trong 4 câu thấy có ba hình ảnh gợi cảm: Sự đời, Lá Đa, Mõm Chó. Chuyện théc méc là “Sự đời, Lá Đa, Mõm Chó ” ba cái có tội gì mà chúng bị  người đe dọa “chém cha.” Oan thay cho Lá Đa.
Em phải mặc váy thì khi em ngồi, sáng trăng suông em tưởng tối trời, em mới để cái sự đời của em ra được. Em mặc quần thì vô phương. Phải viết rõ là em gái quê em mặc váy, em “không để nó ra,” nó là “cái sự đời” của em, nó vẫn ở trong đó nhưng vì em ngồi hớ hênh  – ngồi bệt mà dạng háng, tức banh hai chân ra — nên người ta nhìn vào, người ta thấy “nó.” Viết lại: Em mặc quần thì vô phương. Em mặc váy mà em đứng em cũng không thể để cái sự đời của em ra được.
Đến đây có vấn đề Váy và Quần Con Gái, Đàn Bà. Sử ghi: Ngày xưa, đàn bà Bắc kỳ mặc váy. Bắc Kỳ đây là từ Ải Nam Quan vào đến tỉnh Quảng Bình. Viết cách khác: từ Sông Gianh trở ra bắc. Từ Quảng Bình vào nam, đàn bà mặc quần. Ngày xưa đây là thời Thực Dân Pháp chưa đến nước Việt Nam. Cũng Sử ghi: Năm 1882 Vua Minh Mạng hạ chiếu, tức ra lệnh:
Cấm đàn bà mặc váy, lại tức: Đàn bà Bắc kỳ phải mặc quần.
Tháng Sáu có chiếu vua raCấm quần không đáy, người ta hãi hùng.Không đi thì chợ không đông.Đi thì bóc lột quần chồng, sao đang.
Lệnh của Vua Minh Mạng không được nữ thần dân Bắc kỳ tuân theo. Vua cấm đàn bà mặc váy, đàn bà Bắc kỳ vẫn cứ mặc váy. Những năm 1947 đến 1950, kẻ viết những dòng chữ này sống trong những làng quê ba tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Phúc Yên, thấy tận mắt 90/100 đàn bà miền quê mặc váy. Chỉ môt số cô gái trẻ, sinh sau năm 1930, mới mặc quần.
Chuyện năm xưa tôi trẻ, 14, 15 tuổi, tuổi sắp dậy thì, làm liên lạc viên Cục Tình Báo, khi đi ngang qua những cánh đồng chiêm, thấy những cô gái quê 15, 16, 17, 18 tuổi cào cỏ trong những thửa ruộng ven đường, nước ruộng lên đến đầu gối các cô, váy các cô sắn cao để khỏi bị ngập nước, chú liên lạc viên  có ý đi thật chậm, chờ mong có làn gió thổi qua, làm váy các cô tốc lên, cho chú được nhìn – dù chỉ thoáng qua trong hai, ba sát-na – cái Sự Đời của các cô, “cái” chưa bao giờ chú nhìn thấy. Nhưng không lần nào chú được nhìn. Váy các cô là váy sồi, dầy và nặng, gió có là bão cũng không thể làm cho tung lên. Các cô còn cẩn thận đục hai lỗ nhỏ ở gấu váy trước sau, dùng cái lạt tre buộc dính lại. Gió có thốc vô, các cô ngồi bệt có hớ hênh, có dạng háng, váy các cô cũng không mở ra, không ai có thể trông thấy cái Lá Đa của các cô.
Théc méc: đàn bà Việt mặc váy từ miền Bắc đi xuống miền Nam, tại sao đến miền Trung lại bỏ mặc váy để mặc quần? Phải có nguyên nhân gì chứ? Ta không biết đó thôi. Váy Bắc Kỳ là váy sồi. sồi dệt bằng những sợi tơ tằm thô, nên sồi dầy và cứng ngắc. Sồi chỉ có thể làm váy, không thể may thành quần. Phải chăng vì thế mà  Bắc Kỳ có váy sồi.
Năm xưa tôi trẻ – trước năm 1950 – ngoài câu đố “Cái thúng mà thủng hai đầu. Bên ta thì có, bên Tầu thì không,” cái Váy còn có những tên “Sống,”: Dậy đĩ vén sống. Người Bắc không nói “Dậy đĩ vén váy” mà nói “Dậy đĩ vén sống;” và cái tên “Pằng-tà-lồng Ộp, Bùng Rền;” những năm 1965 thế giới có cái mode – dường như phát xuất từ Paris – mode minijupe. Váy ngắn. Năm xưa ấy Mini Jíp có đến Sài Gòn.
TB San:
Hôm qua em đi hái chèGặp thằng phải gió nó đè em raEm lạy nó cũng chẳng thaNó cứ ấn, cứ nhét cái đầu cha nó vàoCái gì như cái củ nâuCái gì như thể cái cần câu nó gật gù…
CTHĐ:
Hôm qua lên núi hái chè.Gặp thằng phải gió nó đè em ra.Lậy van nó cũng chẳng tha.Nó đem nó nhét cái mả cha nó vào.
Trong Tục Ngữ Phong Dao NV Ngọc không có bài “Hôm qua lên núi hái chè..”
Nhắc lại và nhấn mạnh: Chỉ khi mặc váy đàn bà, con gái mới để cho người đời nhìn thấy cái Sự Đời Lá Đa. Phụ nữ Á, Phụ nữ Âu Mỹ mặc váy cũng để hở Sự Đời như nhau. Chỉ có khác là phụ nữ Âu Mỹ mặc slip, phụ nữ Á châu ở trần. Bà Hillary Clinton khi là First Lady có lần – mặc váy – ngồi hớ hênh bị anh Phó Nháy chụp ảnh bà để lộ cái slip. Từ đó người ta thấy bà Hillary Clinton chuyên mặc quần.
Tennis không ăn nhậu gì đến “Sáng trăng suông,” Tennis ăn nhậu đến “Váy.” Từ năm 1980 mỗi năm qua quần short của nam đấu thủ Tennis một dài ra, xuống đầu gối, mỗi năm qua váy của nữ đấu thủ Tennis một ngắn đi và cao lên. Hai Em Tennis Anna Kournikova. Maria Sharapova đều có ảnh ngồi ở sân quần để lộ slip. Từ đó – tôi, CTHĐ – thấy mỗi lần nghỉ vài phút giữa trận đấu, vào ghế ngồi nghỉ, chưa ngồi Maria Sharapova đã cầm cái khăn bông phủ lên đùi nàng, để che cái Sự Đời của nàng.
Chỗ lội làng Ngang:
Cái gì trắng trắng như con cúi?:
Théc méc: Con cúi là con gì? Từ lâu tôi – CTHĐ – vẫn théc méc về chuyện “con Cúi.” Trong mấy quyển Tự điển ở Rừng Phong tìm không thấy có “con Cúi.”  “Trăng trắng” chỉ là “bẹn.” Cái Lá Đa Sự Đời nó phải đen đen. Ông Cuội phải nhìn thấy cái Lá Đa  đen đen ông Cuội mới có thể mỉm miệng cười.
Quí vị đọc bài này ai biết “con Cúi” là con gì, hình dáng nó ra sao, xin cho mọi người cùng biết.
Theo tôi: “Đàn bà đến đó sắn váy lên.”
Đánh đu.
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phớiHai hàng chân ngọc duỗi song song.
Théc méc: Bốn mảnh quần hồng: Trai mặc quần hồng? Đùi trai cũng là đùi ngọc?
Tiếng “Suông” trong Thơ Tản Đà.
Đêm suông phủ Vĩnh.
Đêm suông năm bẩy cái suông suồng.Suông rượu, suông tình, bạn cũng suông.Một bức mành con coi ngán nỗi.Một câu đối mảnh nghĩ dơ tuồng.Một vầng trăng khuất đi mà đứng,Một lá màn treo cuốn lại buông.Ngồi hết đêm suông suông chẳng hết.Chùa ai xa điểm mấy hồi chuông.
Theo tôi “trăng khuyết”, không phải “trăng khuất.”
TB San:
Tiếc thay một đóa trà miCon ong đã tỏ đường đi lối vềMột cơn mưa gió não nềThương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương
CTHĐ: Một cơn mưa gió nặng nề.
Những năm 1981, 1982 sống buồn quá đỗi ở Sài Gòn Cờ Máu., tôi làm bốn câu:
Tối trời em tưởng trăng thanhEm ngồi em để  Sao Vành em ra.Sao Vành như cái lá đa.Đen hơn mõm chó. Chém cha Sao Vành.