Tùy nơi cư ngụ, quý vị có thể ngắm Trăng theo bảng ghi bên dưới, lấy từ link http://moongiant.com/moonphases/September/2014/
Phía cuối dưới cùng mail này, là một bài viết về Đồng Dao và Trò Chơi Trẻ Con, LH xin gửi tặng quý Ông Bà Nội/ Ông Bà Ngoại, để có dịp nhớ lại ngày xưa, và nay vui cùng các cháu nội ngoại với những trò chơi đặc biệt của tuổi thơ Việt Nam.
Chúc quý bạn hiền một Trung Thu vui vầy sum họp đầm ấm cùng con cháu quây quần trong yêu thương.
LH
September 2014 Moon Phases
First Quarter September 2 11:11 UTC | Full Moon September 9 01:38 UTC | Last Quarter September 16 02:05 UTC | New Moon September 24 06:14 UTC |
Times of Full Moon for September 2014 in your current timezone and major cities:
Time of Full Moon forAmerica/New_York
September 08, 2014 - 09:38 pm (EDT)
Local Date and Time for September 2014 Full Moon in major cities around the world:
Los Angeles, San Francisco, Vancouver
September 08, 06:38 pm (PDT)
September 08, 06:38 pm (PDT)
Denver, Salt Lake City, Calgary
September 08, 07:38 pm (MDT)
September 08, 07:38 pm (MDT)
Chicago, Houston, San Antonio
September 08, 08:38 pm (CDT)
September 08, 08:38 pm (CDT)
New York, Toronto, Atlanta
September 08, 09:38 pm (EDT)
September 08, 09:38 pm (EDT)
London, Manchester, Dublin
September 09, 02:38 am (GMT/BST)
September 09, 02:38 am (GMT/BST)
Paris, Rome, Berlin
September 09, 03:38 am (CEST)
September 09, 03:38 am (CEST)
Athens, Istanbul, Helsinki
September 09, 04:38 am (EEST)
September 09, 04:38 am (EEST)
Dubai, Abu Dhabi, Muscat
September 09, 05:38 am (GST)
September 09, 05:38 am (GST)
Bangalore, Mumbai, New Delhi
September 09, 07:08 am (IST)
September 09, 07:08 am (IST)
Singapore, Kuala Lumpur
September 09, 09:38 am (SGT)
September 09, 09:38 am (SGT)
Perth, Hong Kong, Beijing
September 09, 09:38 am (WST)
September 09, 09:38 am (WST)
Sydney, Brisbane, Melbourne
September 09, 11:38 am (EST)
September 09, 11:38 am (EST)
Chơi Chong chóng, tranh Võ Đình, UNICEF 63
Trần thị LaiHồng
ĐỒNG DAO
và
TRÒ CHƠI
TRẺ CON
Tranh minh họa dân
gian của Henry Oger và Võ Đình
Đồng dao, đồng diêu: câu hát chơi, con nít hay hát. Đó là định
nghĩa đơn giản nhất của Huình Tịnh Paulus Của, trong Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, cuốn tự điển đầu tiên của Việt Nam, xuất bản năm 1895 tại
Sàigòn.
36
năm sau, Ban Văn học Hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo Việt Nam Tự Điển, Mặc Lâm xuất bản tại Hà Nội năm 1931 và Nhà In
Imprimarie Trung Bắc Tân Văn phát hành, cũng định nghĩa ngắn gọn. Đồng
dao: câu hát trẻ con. Hơn thế kỷ sau, tức là cả 103
năm sau, Đại Từ Điển Tiếng Việt của Nguyễn Như
Ý, do Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Cộng hòa Xã hội Chủ
Nghĩa Việt Nam, nhà xuất bản Văn hóa Thông tin phát hành năm 1998, định
nghĩa đồng dao: lời hát truyền miệng của trẻ con, nhưng không
đưa ra một câu nào.
Đồng
dao được truyền từ đời này tiếp đời nọ, vùng này qua vùng kia, có khi thay đổi,
có khi sai lạc, có khi thất truyền, và bị quên lãng. Tác giả hẩu hết vô
danh, hay nói đúng hơn, chính dân gian là tác giả.
Dạy
con từ thuở lên ba, nhưng từ lúc lọt lòng mẹ qua ba tháng biết lẩy bẩy
tháng biết bò cho đến khi lổm ngổm tập ngồi bi bô tập nói lựng chựng
bước đi, với Việt Nam ta, tiếp nối lời mẹ ru, đồng dao giữ phần quan trọng
trong giáo dục gia đình, chuẩn bị cho trẻ đến trường với khoa sư phạm áp dụng
phương pháp giúp trẻ con vừa vui chơi giải trí vừa học hỏi, phát triển các khả
năng cơ thể và mở mang trí tuệ. Hát mà chơi. Hát mà học. Hát
chơi mà học thật.
Thuở
ban đầu, đồng dao chỉ được truyền miệng, nhưng nhờ ngắn gọn đơn giản ba, bốn
hoặc năm chữ, có khi ngô nghê, nhưng vần điệu tiết tấu nhịp nhàng nên rất dễ
hiểu dễ nhớ. Về sau, rất nhiều bài đồng dao được đặt nhạc nên được phổ biến
rộng rãi. Trong hàng trăm bài đồng dao truyền miệng và hàng ngàn bản nhạc,
chúng tôi chỉ nêu một số bài đồng dao truyền miệng từ Bắc qua Trung vào Nam,
còn nhớ hoặc tìm tòi sưu tầm được, và đồng dao được phổ nhạc, cùng một số
nhạc phụ lục. Chuyện bổ túc theo đà tiếp nối rất dễ dàng thuận tiện.
Chơi Diều, tranh Võ
Đình, UNICEF 69
Những trò chơi đầu tiên
chỉ có mẹ và con. Khi trẻ bớt ngủ ngày, tức vào khoảng một tháng sau khi
ra đời, trẻ bắt đầu biết nghe và nhìn. Bài học đầu tiên có thể chỉ tập cho
con theo dõi, nhận xét, ghi nhận. Mẹ chỉ cho con biết những phần trên cơ
thể, cả danh từ lẫn động từ tĩnh từ: mắt mở mắt nhắm, mắt đen mắt nâu,
miệng nói môi cười, răng trắng, tai nghe, tóc đen tóc trắng, tóc ngắn tóc dài,
tay nắm, chân đạp …
Trẻ
chưa biết ngổi, có thể cùng mẹ chơi trò Cất Rớ Chống Rớ, đặt con nằm ấp trên hai ống chân mẹ, mông con
an vị trên hai bàn chân mẹ, hai tay nắm chặt hai tay con, mẹ nằm ngửa, vừa nâng
hai chân lên cao vừa đọc:
Cất
rớ lên! Bỏ rớ xuống!
Cá
chi? Cá bống! Chống rớ!
Cá
chi? Cá rô! Chống rớ!!
Cá
chi? Cá hồng! Chống rớ! …
Vẫn
vị thế đó, có thể đổi cách chơi qua trò cỡi ngựa, hát mà chơi, nhún
nhẩy đong đưa theo bài đồng dao:
Nhong
nhong nhong nhong
Ngựa
ông đã về
Cắt
cỏ bồ đề
Cho
ngựa ông ăn
Nhong
nhong nhong nhong …
Mẹ
tập con chơi mà học, quan sát theo dõi:
Một
ngón tay nhúc nhích này/ một ngón tay nhúc nhích này
Một
ngón tay nhúc nhích cũng đủ cho ta vui vầy…
Hai
ngón tay nhúc nhích này/ hai ngón tay nhúc nhích này!
Hai
ngón tay nhúc nhích cũng đủ cho ta vui vầy!
và
cứ thế tiếp tục cho đến mười ngón. Bài này có phần nhạc ở phụ lục.
Tay mẹ
tay con có nhiều trò thú vị. Hát mà chơi với bài đồng dao Kéo Cưa Lừa Xẻ, khi con biết ngồi, hai
mẹ con cùng nắm tay nhau kéo qua kéo lại:
Kéo
cưa lừa xẻ/ ông thợ nào khỏe/ về ăn cơm trưa
Ông
thợ nào thua/ về bú tí mẹ
hay: Cút
ca cút kít/ làm ít ăn nhiều/ nằm đâu ngủ đấy
Nó
lấy mất cưa/ lấy gì mà kéo!!!
Vẫn
tay mẹ tay con:
Xỉa
cá mè/ đè cá chép
Tay
nào đẹp/ đi hái hoa
Tay
nào thô/ đi mót củi
Tay
dính bụi/ đừng dụi mắt …
Cũng
bài Xỉa Cá Mè nhưng chơi với hai
chân:
Xỉa
cá mè/ đè cá chép
Chân
nào đẹp/ đi buôn men
Chân
nào đen/ ở nhà làm… chó (hay mèo) và sủa gâu gâu như chó
hoặc kêu meo meo như mèo để mẹ con cùng vui.
Mẹ
con vuốt tay vỗ đập tay nhau nhịp hai theo bài đồng dao Vuốt Hột Nổ nói đến những vật dụng
hàng ngày. Bảo con chắp tay lai, mẹ cũng chắp tay xong mở ra vuốt
hai bàn tay con, vừa vuốt vừa đọc, mỗi lần vuốt xong là vỗ tay, và có thể tiếp
nối vô tận:
Vuốt
hột nổ
Đổ
bánh bèo
Xao
xá… quạ kêu
Nồi
đồng vung méo/ cái kéo thợ may
Cái
guộng đắp bờ/ cái cờ làng tế
Cái
ghế để trèo/ cái khoèo mót củi
Cái
chủi tòe loe/ cái khe nước chảy
Cái
xảy xảy rơm/ cái nơm chơm cá
Cái
ná bắn chim/ cái kim may áo
Cái
gáo múc nước/ cái lược chải đầu
Cái
câu câu cá/ cái rá vo gạo…
Mẹ
con ngồi đối mặt nhau, mẹ vừa hát vừa tập con vỗ tay. Hát mà học, vì
khi lớn lên bé sẽ cùng vui chơi với anh hoặc chị, và cách chơi khó hơn:
vừa đọc bài đồng dao vừa tự vỗ tay mình xong vỗ tay trái chéo
vào tay trái người kia; trở lại tự vỗ tay, rồi vỗ tay phải mình chéo qua tay
phải người kia, và tiếp tục ban đầu chậm sau nhanh dần cho đến hết bài. Bài
đồng dao Tập Tầm Vông cũng dùng cho trò chơi này là:
Tập
tầm vông
Chị
lấy chồng/ em ở góa/ chị ăn cá/ em mút xương
Chị
nằm giường/ em nằm đất/ chị húp mật/ em liếm ve
Chị
ăn chè/ em liếm bát/ chị coi hát/ em vỗ tay
Chị
ăn mày/ em xách bị/ chị làm đĩ/ em thâu tiền
Chị
đi thuyền/ em đi bộ/ chị kéo gỗ/ em lợp nhà
Chị
trồng cà/ em trồng bí/ chị tuổi Tý/ em tuổi Thân
Chị
tuổi Dần/ em tuổi Mẹo
Chị
kéo kẹo/ em nấu đường/ chị trồng thơm/ em trồng khóm
Chị
đi xóm/ em coi nhà/ chị thờ cha/ em nuôi mẹ
Chị
trồng hẹ/ em trồng hành/ chị để dành/ em ăn hết
Chị
đánh chết/ em la làng/ chị đào hang/ em chui tuốt…
Vẫn
trò chơi dùng hai tay nhưng đông người hơn, có thể dùng một cái gậy hay thanh
trúc để các em nắm tay chồng lên nhau lần lượt và tiếp tục cho hết bài. Không
có gậy thì chỉ cần chồng tay lên nhau. Trò chơi này gọi là Hát Đúm/ Cùm Nụm Cùm
Nịu hay Tay Tí Tay Tiên:
Cùm
nụm cùm nịu/ tay tí tay tiên
Đồng
tiền chiếc đũa/ hột lúa ba bông
Ăn
trộm ăn cắp trứng gà
Bù
xa bù xít/ con rắn con rít
Thì
ra tay này!
Vẫn
tay mẹ tay con, khi con biết xử dụng tay chân, mẹ con cùng chơi trò Thi Chân Đẹp hoặc mẹ giúp con
theo dõi chơi Nu Na Nu Nống cùng các anh chị. Ngồi trong lòng mẹ, bé chỉ tập trung theo dõi,
chăm chú nghe và nhìn, lanh mắt lẹ tay nhanh chân học mà chơi theo
luật chung:
Nu
na nu nống/ cái cống nằm trong
Cái
ong nằm ngoài/ củ khoai chấm mật
Phật
ngồi Phật khóc/ con cóc nhảy ra/ con gà ú ụ
Nhà
mụ thổi xôi/ nhà tôi nấu chè
Tè
he cống rụt!
Nu
na nu nống/ thằng công cái cạc
Đá
xỉa đá xoi/ đá đầu con voi/ đá lên đá xuống
Đá
ruộng bồ câu/ đá râu ông già
Đá
ra đường cái/ gặp gái đi đường
Có
phường trống quân/ có chân thì rút!
Nu
na nu nống/ đánh trống phất cờ/ mở cuộc thi đua
Thi
chân đẹp đẽ/ chân ai sạch sẽ/ gót đỏ hồng hào
không
bẩn tí nào/ được vào đánh trống!
Khi
trẻ khá lớn đi đứng chạy nhảy vững vàng và đến trường, gia nhập những trò chơi
tập thể dễ dàng cũng như học những bài đồng dao dần dà dài khó hơn, và mẹ chỉ
để mắt theo dõi, hướng dẫn hoặc nhắc nhở giúp đỡ khi cần.
Có
những bài đồng dao kết cấu liên hoàn lập đi lập lại, làm điệu bộ theo lời diễn
đi diễn lại cho đến khi mệt nghỉ, như Con Voi, Con Công, Lúa
Ngô:
Con
vỏi con voi/ cái vòi đi trước
Hai
chân trước ịch đi ịch trước
Hai
chân sau ịch đi ịch sau
Còn
cái đuôi thì đi là sau rốt
Tôi
xin kể nốt cái chuyện con voi i í ị con voi
Cái
vòi í i ị đi trước…
Con
công hay múa/ nó múa làm sao?
Nó
rụt cổ vào/ nó xòe cánh ra
Nó
đỗ cành đa/ nó kêu ríu rít
Nó
đỗ cành mít/ nó kêu vịt chè
Nó
đỗ cành tre/ nó kêu bè muống
Nó
đỗ dưới ruộng/ nó kêu tầm vông
Con
công hay múa…
Lúa
ngô là cô đậu nành/ đậu nành là anh dưa chuột
Dưa
chuột là ruột dưa gang/ dưa gang là nàng dưa hấu
Dưa
hấu là cậu lúa ngô/ lúa ngô là cô đậu nành…
Ba
bài liên hoàn khác về chim:
Ác-
là là cha ca-cưỡng/ ca-cưỡng là dượng bồ câu
Bồ
câu là dâu ác- là/ ác-là là cha cà- cưỡng …
Bồ-các
là bác chim gi/ chim gi là dì sáo sậu
Sáo
sậu là cậu sáo đen/ sáo đen là em tu-hú
Tu-hú
là chú bồ-các/ bồ-các là bác chim gi …
Cái
cò mày mổ cái tôm/ cái tôm quắp lại mà ôm cái cò
Cái
cò mày mổ cái trai/ cái trai quặp lại mà nhai cái cò
Cái
cò mày mổ cái tôm…
Một
bài đồng dao liên hoàn khác về Chim Chích Chòe được Đức Quỳnh phổ
nhạc và hát từ Bắc vào Nam, lời lẽ ngụ ý hài hước châm biếm:
Con
chim chích chòe/ nó kêu chích chòe
Nó
đậu cành chanh/ nó kêu chích chòe
Tôi
ném hòn sành/ nó quay lông lốc
Tôi
làm một chốc/ được ba mâm đầy
Ông
thầy ăn một/ bà cốt ăn hai
Cái
đầu cái tai/ đem về biếu chúa
Chúa
hỏi chim gì? – Là con chim chích chòe!
Nó
kêu chích chòe/ nó đậu cành chanh…
Bài
đồng dao có nhạc trong Nam lời hát như sau:
Con
chim manh manh/ nó đậu cây chanh
Tôi
vác miểng sành/ tôi liệng nó chết
Tôi
làm được bảy mâm/ tôi dâng cho ông một mâm
Tôi
dâng cho bà một đĩa/ bà hỏi tôi con chim gì?
Tôi
nói con chim manh manh …
Có
một trò chơi trong Nam gọi là Bắc Kim Thang, dùng bài đồng dao ngô nghê ngộ nghĩnh khi các em làm thành vòng
tròn, chân trái xỏ rế ngoéo vào chân trái bạn, vừa vỗ tay vừa nhảy lò cò bằng
chân phải và giữ không bị té, cùng hát:
Bắc
kim thang, cà lang bí rợ
Cột
qua kèo là kèo qua cột
Chú
bán dầu qua cầu mà té
Chú
bán ếch ở lại làm chi?
Con
le le đánh trống thổi kèn
Con
bìm bịp thổi tò te tí te ……
Em
nào không vững thăng bằng bị té là thua, bị phạt búng tai hoặc khẻ tay nếu là
con gái, hoặc phải cõng bạn cùng cặp chạy một vòng nếu là con trai. Vui
tếu thì phạt bằng quẹt nhọ nồi/ lọ nghẹ lên mặt. Các em
trai còn bị phạt làm ngựa cho bạn cỡi, nhẹ thì dùng bài đồng dao ngắn Nhong nhong nhong
nhong, mà phạt nặng hoặc trẻ
lớn thì dùng bài Lý Ngựa Ô. Lý Ngựa ô cũng có ba điệu phổ nhạc, Bắc, Trung và Nam.
Trò Trốn Tìm/ Ú Tim/Cút Bắt được trẻ con khắp thế
giới vui chơi, và đồng dao ta có rất nhiều bài cả đám cùng loạt đọc
lên để chọn người phải đi tìm. Bài đặc biệt có tính cách một bài sấm dính
đến lịch sử, nói về giai đoạn rối loạn của triều đình Nhà Nguyễn và phong trào
Cần Vương, thời ta bị Pháp đô hộ:
Chu tri
rành rành/ Cái đanh nổ lửa
Con
ngựa đứt cương/ ba vương tập đế
Cấp
kế đi tìm/ ú tim… òa ập!
Bài
đồng dao Trốn
Tìm/ Thả Đỉa Ba Ba:
Thả
đỉa ba ba/ con đỉa đeo bà
Con
gà tục tác/ mỏ-nhát cầm chầu
Con
mèo cầm lái/ con rái chạy buồm
Con
tôm tát nước/ vọc nước giỡn trăng
Bài Thả Đỉa Ba Ba khác:
Thả
đỉa ba ba
Chớ
bắt đàn bà/ phải tội đàn
ông
Cơm
trắng như bông/ gạo tiền như nước
Sang
sông về đò/ đổ mắm đổ muối
Đổ
nải chuối tiêu/ đổ niêu cứt gà
Đổ
phải nhà nào/ nhà ấy phải chịu!
Khi
đám trẻ chạy tìm chỗ nấp, em còn lại phải bịt mắt đọc bài đồng dao khác đến hết
mới được mở mắt đi tìm:
Mít
mật mít gai/ mười hai thứ mít
Đi
vào ăn thịt/ đi ra ăn xôi
Bởi
chẳng nghe tôi/ tôi bịt mắt chú
Ăn
đâu ẩn kín/ lúa chín thì về!
Chơi bịt mắt bắt dê,
tranh Võ Đình
Ngoài
Bắc có bài đồng dao khác và Phạm Duy đã mượn ý phổ nhạc:
Ông
trẳng ông trăng
Xuống
chơi với tôi/ có bầu có bạn
Có
oản cơm xôi/ có nồi cơm nếp
Có
nệp bánh chưng/ có lưng hũ rượu
Có
chiếu bám đu/ thằng cù xí xoại
Bắt
trai bỏ giỏ/ cái đỏ ẵm em
Đi
xem đánh cá/ đem rá vo gạo
Có
gáo múc nước/ có lược chải đầu
Có
trâu cầy ruộng/ có muống thả ao
Ông
sao trên trời…
Hoặc:
Ông
tiễn ông tiên
Ông
có đồng tiền/ ông giắt mái tai/ ông cài lưng khố
Ông
ra hàng phố/ ông mua miếng trầu/ ông nhai tóp tép
Ông
mua con tép/ về ông ăn cơm
Ông
mua mớ rơm/ về ông đánh thổi
Ông
mua cái chổi/ về ông quét nhà
Ông
mua con gà/ về cho ăn thóc
Ông
mua con cóc/ về thả gậm giường
Ông
mua nén hương/ về cúng ông cụ!
Tranh
dân gian của Henry Oger đầu thế kỷ XX,
chú
thích bằng chữ Nôm: Đánh Cờ Chân Chó
Làm Hùm Bắt Lợn, tranh
dân gian Henry Oger
Khi
trẻ đã lớn, đã đi học và có nhiều bạn cùng lứa, có rất nhiều trò chơi dùng
những thứ kiếm được ngay chung quanh hoặc tự chế lấy, ví như bắn ná làm bằng nạng ổi, bắn súng bẹ sống lá chuối
đánh đáo, bắn súng ống hóp ồng thú đủ, đạn hạt sầu đông
hoặc hạt mâm xôi, bắt chuồn chuồn, lộn chuồn chuồn, buôn bán bằng hoa lá, cái lung tung/ cái trống bỏi, chong chóng bằng lá dừa, cái tò he hay con gà đất có gắn ống cói ống sậy thổi te
te, con giống làm cối xay bằng bột tô màu, làm
bằng hạt xoài cưa hai, đánh căn với hai khúc tre hay gỗ, đánh bi, đánh cờ chân chó, cờ gánh bằng vỏ nghêu vỏ sò, đánh đu dựng bằng tre, đánh trận giả với cây cành hoa lá
như Cờ Lau Tập Trận của Đinh Bộ Lĩnh thuở còn chăn trâu, đánh thẻ, đánh vụ làm bằng gỗ, đá kiện làm bằng đồng xu buộc lông, đá cầu lông, đạp mạng, đạp lon, đi chợ về chợ, kéo co với giây dừa, làm hùm bắt lợn, lộn cầu vồng, liệng cống, năm tiền liền quan, ném còn làm bằng vải vụn, ném vòng làm bằng tre hoặc mây
vào cọc tre hay gỗ, nhảy giây làm bằng giây dừa, nhảy lò cò với mảnh ngói mảnh sành mảnh sứ , rải ô quan/ rải ô làng dùng sỏi, sạn hay hạt
đậu, xây khăn/ bỏ khăn/ chuyền khăn, thả diều làm bằng tre dán giấy…vô số kể.
Cờ Lau Tập Trận, tranh
Võ Đình
Những
trò chơi hầu hết cần vận dụng đầu óc bén nhạy tinh tế tính toán chính xác, điều
động tay chân nhanh nhẹn, thích nghi với môi trường thiên nhiên và luyện tập
quen dần với đời sống tập thể trong cộng đồng. Hát chơi mà học thật.
Bài
đồng dao trò chơi Xây khăn trong Nam, trẻ ngồi thành vòng tròn, một em cầm khăn chạy
ngoài, cùng đọc cho đến hết thì bỏ khăn sau lưng một bạn. Em này phải chú
ý theo dõi để nhặt khăn chạy vòng, nhường chỗ cho bạn, nếu không biết sẽ bị
loại khỏi cuộc chơi.
Đá cầu bằng đồng xu,
tranh dân gian Henry Oger
Xây
khăn, khăn nổi khăn chìm
Ba
bên bốn phía đi tìm cái khăn
Thằng
chăn bận áo rách vai
Không
ai may vá, thằng chăn bận hoài
Trò
chơi Chuồn Chuồn miền Trung và Lộn Cầu Vồng ngoài Bắc có cách chơi
giống nhau nhưng khác bài đọc:
- Chuồn
chuồn đạp nước kim cang/ bên tê mở cửa bên ni sang lòn
-
Lộn cầu vồng nước trong nước chảy
Có
anh mười bảy có chị mười ba
Hai
chị em ta cùng lộn cầu vồng
Bài
đồng dao trò Giung Giăng Giung Giẻ đọc khi đi quanh nhiều vòng tròn, những vòng
này luôn thiếu một để đến cuối khi ngồi xệp xuống sẽ có một em chậm chạp bị
loại:
Giung
giăng giung giẻ/ dắt trẻ đi chơi
Đi
tới cổng trời/ gặp cậu gặp mợ
Cho
cháu về quê/ cho dê đi học
Cho
cóc ở nhà/ cho gà bới bếp
Ngồi
xệp xuống đây!
Một
bài đồng dao về cuộc sống luẩn quẩn loanh quanh trong nhà ngoài vườn trong xóm
ngoài làng là Ông Ninh Ông Nang được Lê Thương phổ nhạc:
Ông
Nỉnh ông Ninh/ ông ra đầu đình/ ông gặp ông Nảng ông Nang
Ông
Nảng ông Nang/ ông ra đầu làng/ ông gặp ông Nỉnh ông Ninh
Nang
Ninh đầu đình/ và Ninh Nang đầu làng
Nang
Ninh làng đình/ rồi Ninh Nang đình làng
Nang
Ninh làng đình Nang Ninh/ Ninh Nang đình làngNang Ninh
Nang
Ninh làng đình Ninh …
Cô
Chiểu cô Chiêu/ cô qua cầu Kiều/ cô gặp cô Thỏa cô Thoa
Cô
Thỏa cô Thoa/ cô qua vườn cà/ cô gặp cô Chiểu cô Chiêu
Thoa
Chiêu cầu Kiều/ và Chiêu Thoa vườn cà
Rồi
Thoa Chiêu cầu Kiều/ rồi Chiêu Thoa vườn dừa
Cả
Chiêu Thoa cầu Kiều Chiêu Thoa/ Thoa Chiêu vườn cà Chiêu Thoa
Thoa
Chiêu vườn cà Thoa …
Em
Thở em Thơ/ em qua hàng dừa/ em gặp em hải em Hai
Em
Hải em Hai/ em qua vườn xoài/ em gặp em Thở em Thơ
Thơ
Hai vườn xoài/ và Hai Thơ vườn dừa
Rồi
Thơ Hai vườn xoài/ và Hai Thơ vườn dừa
Cả
Thơ Hai vườn xoài Thơ Hai/ Hai Thơ vườn dừa Thơ Hai
Thơ
Hai vườn xoài Thơ…
Một
bài đồng dao khác được phổ nhạc là Thằng Bờm, nói lên đầu óc thực tiễn của dân quê không cần xa hoa phù phiếm
cung ngũ long lầu ngũ phụng dinh thự cao ốc hay đặc sản miếng ngon vật lạ, mà
chỉ muốn no bụng:
Thằng
Bờm có cái quạt mo/ phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm
rằng Bờm chẳng lấy trâu/ phú ông xin đổi ao sâu cá mè
Bờm
rằng Bờm chẳng lấy mè/ phú ông xin đổi ba bè gỗ lim
Bờm
rằng Bờm chẳng lấy lim/ phú ông xin đổi một đôi chim mồi
Bờm
rằng Bờm chẳng lấy mồi
Phú
ông xin đổi nắm xôi… Bờm cười!!!
Thuở
nhỏ tôi nghịch ngợm hát bài đồng dao Thằng Bờm và có nhịp điệu khác: Thì
ra mo cau vàng mới tinh/ phú ông lập tâm mua liền! Thằng Bờm mà biết cóc
chi/ Thằng Bờm mà biết cái cóc chi! Chăng chẳng lấy trâu/ Bờm rằng thì là
Bờm chăng chẳng lấy trâu đâu!!!
Trò
chơi tôi thích nhất hồi còn tiểu học là Đánh Thẻ Chuyền/ Đánh Banh Đũa, nhưng đến nay không
nhớ được trọn bài đồng dao đọc đệm. Duyên may quen một gia đình nhà quê
mộc mạc, bà mệ chín mươi và bà mạ sáu mươi
lăm, không biết đọc biết viết nhưng còn nhớ kỹ. Bỏ một ngày thăm hỏi cùng ôn
trí nhớ, ghi trọn được trò chơi này.
Dùng
tay phải nắm nguyên bó đũa 6 chiếc hoặc nhiều hơn, cùng một trái banh, có khi
chỉ là quả chanh hay một bó vải vụn cuộn thành hình trái banh. Vừa thảy banh
lên là trải đũa ra nhanh cho kịp bắt chụp lại trái banh, rồi lần lượt ném banh
vừa bắt từng cây đũa một, rồi hai, ba, bốn…tức là phải tính chính xác làm sao
vừa ném banh lên là phải nhanh mắt nhanh tay tính toán nắm đúng số đũa cần lấy
đưa ngay sang tay kia và kịp thời bắt chụp lại trái banh. Trò chơi này
hình như chỉ có trẻ Việt Nam ta yêu thích và hợp với con gái. Bài đồng dao
đọc theo lúc ném banh, bắt đầu ném banh và bắt một đũa, đọc tối đa đến cuối câu
phải tóm lại được trái banh, nếu trật phải nhường người kia chơi:
Cái
mốt (bắt
một đũa)
Cái
mai/ con trai/ con hến
Con
nhện/ giăng tơ/ quả táo/ cái gáo
Lên
đôi (bắt
hai đũa)
Đôi
cái mõ/ đôi nồi chõ
Đôi
thổi xôi/ đôi nấu chè/ đôi cành tre
Lên
ba (bắt ba đũa)
……….
Khi
nhặt hết đũa thì bỏ tất cả xuống để ném banh bốc cả nắm đổi sang các giai đoạn
kế tiếp là con ba lại, con gang, sang tay cầm, kẹp nách, cầm quạt
rẽ xương, sang tay giã, giã đơn hoặc giã đôi tùy giao ước ban đầu, nhập
giã, rút ống, nhập ống, sang tay tao tức là chuyền. Mỗi
giai đoạn này đọc tên báo sự thay đổi chuyển tiếp. Giai đoạn chuyền, một vòng hoặc
hai vòng tùy giao ước trước khi chơi, vừa chuyền vừa ném banh rồi chụp banh lại
và đọc:
Chuyền
chuyền một/ chuyền chuyền hai/ chuyền chuyền ba
Chuyền
chuyền bốn/ chuyền chuyền năm/ chuyền chuyền sáu
Cuối
cùng là nẻ hay khẻ, tức là đập cả bó đũa vào
chân người thua cuộc, vừa đập vừa thảy banh vừa đọc đoạn cuối bài đồng dao:
Qua
cầu, lặn cỏ/ núi đỏ như ma/ hầm sa/ mây sắc
Bắt
con cá, chặt đuôi, chặt đầu
Têm
miềng trầu, hầu chén rượu
Ai
có tiền, ngồi liền lên ghế
Ai
không tiền, liệu thế liệu thần
Sang
tay nẻ, khẻ chân
Chơi thẻ chuyền, VõĐình vẽ Laihồng tuổi mười ba
Nẻ/
khẻ chân xong là
thắng. Đoạn đồng dao cuối này lại khác nếu do các nữ sinh Đồng Khánh mà nay là
những mệ có cháu nội ngoại đề huề:
Ai
muốn cao, ngồi ghế/ ai muốn thấp, ngồi đòn
Ai
muốn đỏ, bôi son/ ai muốn vàng, bôi nghệ
Qua
cầu Chợ Kệ/ về cầu Thanh Lương
Sang
tay bắt con một. – Ăn! (tức là thắng)
Đoạn
cuối lúc nẻ, mấy mệ ngoài Bắc lại đọc khác:
Đầu
quạ quá giang/ sang sông về đò
Cò
nhẩy gãy cây/ mây bay bèo trôi
Ổi
xanh, hành bóc/ róc vỏ, đỏ lòng
Tôm
cong đít vịt
Sang
cành nẻ/ bẻ cành xanh
Vét
bàn thiên hạ (tức
là thắng)
Trong
số 54 sắc dân sinh sống tại Việt Nam, người Mường là chị em của người Việt,
cùng thờ Vua Hùng, cùng chung truyền thuyết một mẹ trăm con, cùng mặc yếm váy
và áo tứ thân và đặc biệt cùng nói chung ngôn ngữ. Trẻ con Mường cũng có
đồng dao kèm trò chơi. Ghi lại sau đây một:
Lếu
lêu làng lôộc
Tộc
ngộc ngọn cơn bo (cây hoang nhỏ có trái trẻ hay hái ăn)
Bò
ăn no bò ngứa củ ráy
Ngứa
củ ráy ngứa cả cơn rư (cây nưa)
Đưa
bò về Mường Tráng
Tám
mươi người kiếm cỏ/ bò đỏ bò nhà lang
Bò
vàng, bò nhà đạo Ống
Tùng
tùng tùng tùng/ ai đánh trống mường trên
Lền
khên con ca trống
gáy (con gà)
Gáy
gáy trong rẫy ngoài mường/ vườn như vườn nhà ai
Ông
mo biểu mụ máy/ trấy bín biểu trấy bù (trái bí/bầu)
Măng
mu biểu măng nứa/ bố đạo biểu mệ nàng
Quan
sang biểu kẻ khó/ bó ló biểu bó nếp (bó lúa)
Cơm
nếp biểu cơm chim/ cào cào biểu châu chấu (một loại gạo ngon)
Cắt
nứa rào cho ta chào cấm/ lấy lưỡi lấm cho ta cầm tiền
Lấy
lưỡi liềm cho ta cắt bái (cỏ tranh)
Lấy
lưỡi hái cho ta hái ló (lúa)
Náng lấy chó cho ta ăn thịt/ náng con vịt cho ta ăn
đùi (nướng)
Nuôi
con ca cho ta lấy mỡ (gà)
Dệt
lấy mớ lụa điều/ dệt nhiều nhiều cho ta cưới vợ …
Trẻ
con miền Bắc ngày trước rất thích chơi Phụ Đồng Phụ Chổi, có tính cách huyền bí như lên đồng. Bài
đồng dao được đọc đi đọc lại cho đến khi đứa trẻ ngổi đồng được vía nhập:
Phụ
đồng phụ chổi/ thổi lổi mà lên
Ba
bề bốn bên/ sôi lên cho chóng
Nhược
bằng cửa đóng/ phá ra mà vào
Cách
chuôm cách ao/ cách ba ngọn rào
Cũng
vào cho lọt
Cái
roi von vót/ cái vọt cho đau
Hàng
trầu hàng cau/ hàng hương hàng hoa
Là
đồ cúng Phật
Hàng
chuối hàng mật/ hàng kẹo mạch nha
Nào
cô bán quế/ vừa đi vừa tế
Một
lũ học trò/ người cầm quạt mo
Là
vợ Ông Chổi
Thổi
lổi mà lên …
Một
trò chơi được đám trẻ gái yêu thích, cách chơi giống nhau nhưng ngoài Bắc gọi
là là Trồng Nụ Trồng Cà/
Trồng Nụ Trồng Hoa, và miền Trung gọi là Đi Chợ Về Chợ. Phải có bốn em, chia làm hai cặp. Một cặp ngồi, lần
lượt duỗi chồng từng bàn chân lên nhau rồi chồng bàn tay làm hoa, trong khi cặp
kia đi qua đi lai rồi nhảy qua nhảy lại, vừa đọc:
Đi
chợ/ về chợ
(chưa đưa chân)
Đi
canh một/ về canh một (đưa một bàn chân)
Đi
canh hai/ về canh hai (chồng thêm một chân, là hai bàn chân)
Đi
canh ba/ về canh ba (chồng thêm, ba bàn
chân)
Đi
canh tư/ về canh tư (chồng thêm, bốn
bàn chân)
Đi
sen búp/ về sen búp (chồng thêm một bàn
tay chụm lại)
Đi
sen nở/ về sen nở
(chồng thêm bàn tay hơi xòe nở)
Đi
sen tàn/ về sen tàn (bàn tay
hoa nở xòe rộng hết cỡ)
Đi Chợ Về Chợ, tranh
Võ Đình, XI-07
Trong
trò chơi này, hai em ngồi chồng chân và xòe tay phải giữ thăng bằng, nếu bị đổ
chân là thua. Hai em đi qua đi lại nhảy qua nhảy về nếu bị đụng chân hay
tay hai em kia là thua. Cặp thua bị loại để hai em khác vào thay.
Nhưng trong mấy trò chơi tập thể nhân Tết Trung Thu
và Ngày Nhi Đồng Việt Nam, trẻ con Bắc Trung Nam đểu thích trò Rồng Rắn, gồm
một đoàn ôm eo ếch nhau nối dài đi vòng vòng quanh sân, vừa đi vừa reo hò theo
một em dẫn dầu làm thầy thuốc đọc :
- Này, rồng
kia!
-
Dạ!
-
Rồng đen hay rồng trắng?
-
Rồng trắng!
-
Rồng trắng lấy nước gạo mùa
Rồng
đen lấy nước cho vua đi cày!
- Anh
em ta cùng kéo lúa về!
Dô
ô ô ô ô ô ô…
Tranh dân gian của
Henry Oger
Chú thích bằng chữ
Nôm: Trẻ Con Làm Rồng Rắn
Bài
đồng dao Rồng
Rắn cản thầy thuốc cầm cái
quạt mo không cho ông bắt em nào trong đoàn, vừa đi vừa hát:
Rồng
rồng rắn rắn/ kéo rắn lên mây
Thấy
cây lúc lắc/ hỏi ông thầy thuốc có nhà hay không?
- Có!
- Mở
cửa cho vào!
- Vào
làm gì?
- Mượn
cái liềm
- Liềm
làm gì?
- Hái
củi
- Củi
làm gì?
- Nấu
bánh chưng
- Cho
thầy ăn không?
- Không!
Trò
chơi Rồng Rắn không rõ có từ
giai đoạn lịch sử nào, có thể liên hệ đến thảm kịch thời Trịnh Nguyễn phân
tranh chiến tranh đẫm máu giữa Đàng Ngoài Đàng Trong, hay gần hơn, là cuộc nội
chiến Quốc Cộng xốc nổi đến tận cùng đời sống…với những nhân vật níu áo
số mệnh nhau, như truyện dài Rồng Rắn của Lê Thị Huệ dẫn
nhập. Trò Rồng Rắn được trẻ con tham dự đông đảo nhất, cũng ôm eo ếch nối dài
làm con rồng, vừa chạy vòng vòng vừa cùng đọc:
Rồng
rắn lên mây có cây xúc xắc
Xúc
xắc xúc xẻ…Có thầy thuốc ở
nhà không?
Một
trẻ lớn làm ông thầy thuốc cầm quạt nan phe phẩy đi ra, đủng đỉnh hỏi:
Thầy
thuốc: - Rồng rắn đi đâu?
Rồng
rắn: - Rồng rắn
đi lấy thuốc cho con.
Thầy
thuốc: - Con lên mấy?
Rồng
rắn: - Dạ, con lên một.
Thầy
thuốc: - Thuốc chẳng ngon!
Rồng
rắn: - Con lên hai.
Thầy
thuốc: - Thuốc chẳng ngon!
Rồng
rắn: - Con lên ba.
Thầy
thuốc: - Thuốc chẳng ngon!
Rồng
rắn: - Con lên bốn.
Thầy
thuốc: - Thuốc chẳng ngon!
Rồng
rắn: …..
Thầy
thuốc: …..
Rồng
rắn: - Con lên chín.
Thầy
thuốc: - Thuốc chẳng ngon!
Rồng
rắn: - Con lên mười.
Thầy
thuốc: - Thuốc ngon vậy! Xin khúc
đầu!
Rồng
rắn: - Những xương cùng xẩu!
Thầy
thuốc: - Xin khúc giữa!
Rồng
rắn: - Những máu cùng
me!
Thầy
thuốc: - Xin khúc đuôi!
Rồng
rắn: - Tha hồ mà đuổi!
Đến
đây thì đoàn rồng rắn vẫn ôm eo ếch nối nhau chạy đuổi bắt ông thầy thuốc cho
kỳ được mới tan cuộc, giữa những tiếng vỗ tay reo hò cổ võ của những người đứng
xem, trong số có những bà mẹ chứng kiến con mình lớn khôn trong tập thể, trong
cộng đồng.
Bài
đồng dao này có giá trị như một bài sấm, một bài học lịch sử, và cũng là một
bài luân lý giáo khoa thư nói lên tình đoàn kết nhất trí của Rồng Rắn, toàn dân
quyết giữ gìn trọn khối chung, đánh đuổi quân xâm lược Trung Cộng chiếm đất
đai, hớt khúc đầu Ải Nam Quan, xâm chiếm hai đảo Trường Sa Hoàng Sa, lập xưởng
Bauxite trên Cao nguyên, xây Đập Sông Tranh làm hầm địa đạo Quảng Nam Đà Nẵng,
xây đập chặn thượng nguồn sông Cửu Long, gây tai hại đồng bằng Cửu Long miền
Nam.
Những bài đồng dao và
trò chơi trẻ con góp nhặt ở đây chưa đầy đủ và cần bổ túc, nhưng có chủ đích
góp phần gìn giữ kho tàng văn học dân gian trước khi bị thất truyền hay quên
lãng, chôn vùi dưới hàng hàng lớp lớp đồ nhựa lắp ráp máy móc Toys ‘R’ Us, CDs,
DVDs, video games, PC Games, puzzles, dominos, bingo, i-pods, i-pad, cell
phones… và vô số trò khác ào ạt trên mạng lưới điện tử của thời đại @
còng. Ngay tại các nước Âu Mỹ, nhiều tài liệu cũng sưu tầm ghi lại trò
chơi trẻ con kèm những ballads, là thơ xưa từ thế kỷ XV/ XVI
được phổ nhạc có điệp khúc lập đi lập lại, và Shakespeare từng trích dẫn vào
tác phẩm.
Chúng ta đang ở đầu thế
kỷ XXI. Mai sau, dù có bao giờ, phần sưu tầm biên khảo nhỏ
nhoi này mong còn được đôi khi lần giở trước đèn, để may ra có
người mở trang sách cũ tìm hiểu về đất lề quê thói, thấy rõ ràng kho
tàng văn học dân gian đặt nặng giáo dục gia đình trên vai người mẹ. Những
lời ru ca dao ạ ơi ời hà hơi văn hóa mẹ vào tâm hồn trẻ từ lúc
mở mắt chào đời cho đến khi chập chững lững thững những trò chơi đi kèm đồng
dao, để từ đó vững bước vào xã hội.
Hát mà chơi. Hát mà học. Hát chơi mà học thật.
Học
làm NGƯỜI.
Trần thị LaiHồng
Từ
tiểu bang xanh 1987 qua Hoa bang 2007
Tài liệu tham khảo:
-
Ban Văn Học Hội Khai Trí Tiến Đức, Việt nam Tự Điển, Mặc Lâm
xuất bản, Hà Nội 1931
-
Henry Oger, La Technique du Peuple Annamite, NXB Jouve &
Cie, Paris 1908
-
Hùinh Tịnh Paulus Của, Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Imprimerie Rey,
Curiol &Cie, Saigon 1895
-
Hướng Đạo Ca, Kỷ niệm 70 năm Hướng Đạo Việt Nam 1930-2000
-
Jack Maguire, Hopscotch, Hangman, Hot Potato & Ha,Ha, Ha, Rockefeller
Center, 1990
-
Lê thị Huệ, Rồng Rắn, Lũy Tre Xanh xuất bản, San José 1989
-
Lư Nhất Vũ/ Lê Giang, Tìm Hiểu Dân ca Nam bộ, NXB TPHCM, 1983
-
Mệ Bê, tài liệu sống, San Diego, CA
-
Mệ Nguyễn Đề, tài liệu sống, West Palm Beach, FL
-
Minh Hiệu, Tục ngữ Dân ca Mường Thanh Hóa, NXB Văn Hóa Dân
Tộc, Hà Nội 1999
-
Nguyễn Mạnh Hùng, Ký họa Việt nam, NXB trẻ, Saigon 1989
-
Nguyễn Như Ý, Đại Tự diển Tiếng Việt, Bộ Giáo dục và Dân Tộc,
Trung tâm Ngôn ngữ và Văn Hóa CHXHCN, Hà Nội 1998
-
Nguyễn Tấn Long/Phan Canh, Đất Lề Quê Thói, NXB Sống Mới,
Saigon 1970
-
Nguyễn Thuyết Phong and Patricia Shehan, From Rice Paddies and
Temple Yards: Traditional Music of VietNam, World Music
Press 1989
-
Nguyễn Trúc Phượng, Văn học Bình dân, Nhà Sách Khai Trí,
Saigon 1964
-
Nguyễn Văn Vĩnh, Trẻ Con hát Trẻ Con Chơi, NXB Alexandre de
Rhodes, Hà Nội 1943
-
Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, Thi Ca Bình Dân Việt Nam, NXB Sống
Mới, Saigon 1978
-
Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, Tục Ngữ Phong Dao, NXB Vĩnh Hưng Long,
Hà Nội 1928
-
Trần Quang Đức, 175 Trò Chơi Tập thể, NXB Thanh Niên, Hà Nội
2006
-
Trương Anh Thụy, Trường ca Lời Mẹ Ru, NXB Cành Nam 1989
-
Trương Tửu, Kinh Thi Việt Nam, Tủ Sách Văn Hóa Hàn Thuyên,
Saigon 1940, Xuân Thu tái bản Houston, TX
-
Vũ Ngọc Phan, Tục Ngữ và Dân ca Việt Nam, NXB Văn Sử Địa, Hà
Nội 1956
-
William Wells Newell, Games and Songs of American Children, Dover
Publications, Inc. New York 1903