“Mỗi ngày trong 20 năm, Aung San Suu Kyi đứng trước lựa chọn: tiếp tục cảnh sống bị quản thúc tại chính quê hương mình, hay trở về với mái ấm tại Oxford (Anh quốc) nơi chồng con bà đang chờ. Và mỗi ngày trong suốt 20 năm đó, Aung San Suu Kyi đã chọn không bỏ rơi đất nước Miến Điện và những người đồng bào của bà”.
Đó là cách đài BBC miêu tả 20 năm dài bà Aung San Suu Kyi, thủ lãnh phe đối lập của Miến Điện, Chủ tịch đảng Liên minh quốc gia vì dân chủ (NLD), bị quản thúc tại gia. Nhiều người biết đến quãng thời gian bà đấu tranh cho Miến Điện, nhưng không nhiều trong số đó từng biết rằng có một người đàn ông đã bị “bỏ lại” trong những năm tháng đó. Ông là Michael Aris, sử gia người Anh.
Aung San Suu Kyi là con gái của tướng Aung San, người được xem có công lớn trong việc đưa Miến Điện từ thuộc địa của Anh trở thành một quốc gia độc lập. Cha của Aung San Suu Kyi bị ám sát khi bà 2 tuổi.
Năm 1964, Aung San Suu Kyi được mẹ gởi đến Oxford để học về chính trị học, triết học và kinh tế học. Tại đây, bà đã gặp Michael Aris. Người đàn ông đang học lịch sử hiện đại tại Đại học Durham này luôn mang một niềm say mê đối với phương Đông. Khi Michael gặp Aung San Suu Kyi, bà là một cô sinh viên bé nhỏ, trầm lặng, tóc đen, luôn vận trang phục truyền thống của Miến Điện với bông hoa cài trên tóc. Và người đàn ông cao lớn, mắt xanh, hướng ngoại này lập tức bị mê hoặc. Michael cầu hôn Aung San Suu Kyi trên một đỉnh núi tuyết phủ của Bhutan, trong lúc ông đang là gia sư của hoàng gia nước này. Aung San Suu Kyi đồng ý, nhưng ngay cả trong thời khắc đó, bà vẫn biết rằng nếu đất nước cần, bà sẽ ra đi. Michael chấp nhận cả điều này.
Tờ Newsweek thuật lại: Michael Aris và Aung San Suu Kyi kết hôn năm 1972 và 16 năm sau đó, Aung San Suu Kyi toàn tâm toàn ý làm vợ hiền. Khi hai cậu con trai, Alexander và Kim, được sinh ra, bà đã trở thành một người mẹ yêu con quá mức, hết sức chú ý đến các tiểu tiết khi tổ chức các bữa tiệc cho con và luôn nấu ăn ngon. Bà thậm chí làm thất vọng những người bạn theo chủ nghĩa nữ quyền của mình, khi nhất định ủi vớ cho chồng và tự dọn dẹp nhà cửa.
Cuộc sống bên chồng con của Aung San Suu Kyi diễn ra êm ả cho đến một đêm của năm 1988. Đó là một buổi tối như bao buổi tối khác tại Oxford, Aung San Suu Kyi và Michael đang ngồi đọc sách thì nhận được tin dữ: mẹ của Aung San Suu Kyi bị đột quỵ.
Lúc bay từ Oxford về Rangoon, Miến Điện, Aung San Suu Kyi nghĩ rằng mình sẽ ở đây vài tuần. Khi bà đến bệnh viện Rangoon để chăm sóc mẹ mình, nơi đây đầy những sinh viên bị thương hoặc đang hấp hối. Cả thành phố chìm trong hỗn loạn, những cuộc đụng độ với quân đội diễn ra ở khắp nơi. Từ bệnh viện, mặc cho việc Aung San Suu Kyi khăng khăng rằng bà có gia đình đang chờ đợi tại Oxford, tiếng đồn vẫn lan đi rằng con gái của tướng Aung San đã trở về.
Hai mươi năm chia cắt
Khi nhận lời trở thành người đứng đầu phong trào dân chủ tại Miến Điện, Aung San Suu Kyi vẫn nghĩ rằng bà sẽ sớm trở lại Oxford một khi cuộc bầu cử được diễn ra. Michael đến Miến Điện để ủng hộ vợ mình cho đến khi ông bị trục xuất. Ở Anh, Michael chỉ có thể dõi theo vợ mình qua tin tức khi sự nổi tiếng của bà ngày một tăng cao. Tại Miến Điện, đường đi nước bước của Aung San Suu Kyi bị quân đội theo sát. Năm 1989, bà bị quản thúc tại nhà. Newsweek đã viết rằng: “Ít ra thì lúc này Michael có thể an tâm rằng Aung San Suu Kyi được an toàn”.
Không những vậy, Michael mở một chiến dịch trong âm thầm nhằm biến Aung San Suu Kyi trở thành một biểu tượng quốc tế và qua đó bảo vệ bà. Chiến dịch này được thực hiện trong âm thầm để tránh cho việc một người chồng ngoại quốc có thể ảnh hưởng đến danh tiếng của Aung San Suu Kyi và cuộc vận động dân chủ tại quê hương bà.
Michael luôn khắc khoải lo âu cho người vợ yêu dấu và tiếp tục gây sức ép lên các nhà chính trị phía sau hậu trường. Ông giữ nguyên cuốn sách bà đã đọc khi bà nhận được cuộc gọi điện thoại gọi về Miến Điện. Ông trang trí các bức tường với nhiều giải thưởng bà đã giành được bấy giờ, trong đó có giải Nobel Hòa bình năm 1991. Và bên giường ngủ của mình, ông treo một bức ảnh lớn của bà.
Trong thời gian dài khi không có cách nào liên lạc được, ông đã sợ Suu có thể đã chết, và chỉ khi biết một cái tin tưởng chừng vu vơ: người qua đường vẫn nghe thấy tiếng đàn dương cầm ngân ra từ ngôi nhà của bà, ông mới cảm thấy yên tâm. Nhưng, khi sự ẩm ướt của Đông Nam Á cuối cùng đã phá hủy cây đàn, niềm tin mong manh đó cho ông cũng không còn nữa.
Sau đó, vào năm 1995, Michael khá bất ngờ nhận được một cuộc điện thoại Suu gọi từ Đại sứ quán Anh, nói bà lại được tự do! Michael và các con trai đã được cấp chiếu khán liền bay tới Miến Điện. Khi Suu thấy Kim, con trai út của mình, bà không ngờ anh đã trở thành một thanh niên mà vô tình gặp trên phố bà khó thể nhận ra.
Năm 1998, Michael biết mình bị ung thư giai đoạn cuối. Những ngày cuối cùng đó, Michael hơn 30 lần xin visa vào Miến Điện, nhưng mọi nỗ lực của ông đều bị từ chối. Đức Giáo hoàng John Paul II và Tổng thống Bill Clinton cùng viết thư giúp Michael, nhưng tất cả đều vô ích. Người đại diện quân đội đã đến gặp Aung San Suu Kyi. Bà biết rằng bà có thể trở về Oxford để nói lời tạm biệt chồng mình, nhưng điều đó cũng đồng nghĩa một cuộc lưu đày vĩnh viễn khỏi quê hương của mình. Qua những cuộc điện thoại gọi qua Đại sứ quán Anh, Michael luôn khăng khăng rằng bà không cần cân nhắc việc trở về.
Khi Aung San Suu Kyi quyết định sẽ ở lại Miến Điện, bà mặc chiếc váy màu chồng mình yêu thích nhất, cài một bông hồng lên tóc và đi đến Đại sứ quán Anh để quay đoạn phim từ biệt chồng mình, nói với ông rằng chính tình yêu của ông đã là điểm tựa cho bà. Đoạn phim được lén đưa ra khỏi Miến Điện, nhưng chỉ đến được Oxford hai ngày sau khi Michael qua đời.
Michael Aris mất năm 1999, đến năm 2010, Aung San Suu Kyi mới thôi bị quản thúc tại nhà và gặp lại các con mình.
Về sau này, bà Aung San Suu Kyi đã nói rằng: “Dĩ nhiên tôi hối hận đã không thể ở bên gia đình”.
“Tôi muốn được ở cạnh gia đình, được nhìn các con trai trưởng thành. Nhưng tôi cũng không bao giờ hối hận về quyết định này của mình, ở lại bên người dân”.
Aung San Suu Kyi hiếm khi nói về những nỗi đau của mình. Khi một nhà báo nói rằng câu chuyện của bà giống như một bi kịch Hy Lạp, Aung San Suu Kyi nói rằng tất cả là sự lựa chọn của bà.