Saturday, 2 May 2015

Hội chứng kiêu ngạo cộng sản © Trần Hồng Tâm

images554401_dung
Sáng qua tại Sài Gòn, thành phố mà đến cái tên của nó cũng bị mang ra hành quyết, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổ chức lễ kỷ niệm 40 năm ngày mà Đảng gọi là giải phóng miền Nam, vô cùng hoàng tráng. Khoảng 10 ngàn người đã được huy động tham dự duyệt binh và diễu hành. Đó là nghi thức thường thấy tại những quốc gia độc tài cộng sản như Bắc Triều Tiên, Trung Quốc, Việt Nam và Nga.
Để có vài chục phút duyện binh trên quảng trường hào nhoáng, người ta phải tuyển chọn những người có đủ chiều cao, cân nặng, gương mặt dễ nhìn, lý lịch bản thân và cả lý lịch gia đình “trong sạch” rất kỹ lưỡng. Sau đó, là một quá trình luyện tập công phu, thân mình thẳng, gối thẳng, cổ chân thẳng, bàn chân thẳng đá ngược cao ngang hông, gót nện mạnh xuống mặt đường, tay vung cao ngang ngực, hoặc mang vũ khí, mặt đằng đằng sát khí. Tư thế này khởi nguồn từ Hồng quân Liên Xô, nó trái ngược với cấu trúc giải phẫu và sinh lý con người. Hơn nữa, duyệt binh rất tốn kém về cả thời gian, tiền bạc, và công sức, nhưng không có một giá trị thực tế nào. Bởi vì, duyệt binh không thể làm quân đội mạnh lên. Chẳng ai lạ gì, đó chỉ là những màn khoa trương hù dọa những người yếu bóng vía, phù phiếm tuyên truyền cho những người cả tin. Sự thực, duyệt binh là triệu chứng “phô trương cộng sản” nằm trong hội chứng kiêu ngạo cộng sản.
11can
Tại buổi lễ này, thiên hạ khá chưng hửng, ngạc nhiên nếu không nói là thất vọng về bài diễn văn của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Trước đây, mỗi khi đăng đàn, ông thường có những phát biểu khá sòng phẳng với Trung Quốc như “không thể đánh đổi chủ quyền lấy tình hữu nghị viển vông” hay “không có chuyện nhà tôi cũng là nhà anh”. Nay, hình như gió đã đổi chiều. Ông khá nhũ nhặn “một lần nữa chúng ta chân thành cảm ơn các nước xã hội chủ nghĩa nhất là Liên Xô, Trung Quốc”. Liên Xô giờ đã lên đường theo Bác, chỉ còn lại Trung Quốc thụ hưởng vai trò ân nhân. Chúng ta không ngạc nhiên mối quan hệ Trung – Việt là mối quan hệ của kẻ ban ơn và người chịu ơn.
Ngược hẳn với ngôn từ hàm ơn trên, ông Dũng có dọng điệu của thời chiến tranh, công kích nặng lời, sặc mùi bảo thủ, giáo điều và thù hận nhằm vào Mỹ:“Đế quốc Mỹ đã ngang nhiên áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự của Mỹ, đàn áp tàn bạo Cách mạng miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại khốc liệt ở miền Bắc. Chúng đã gây ra biết bao tội ác dã man, biết bao đau thương, mất mát đối với đồng bào ta, đất nước ta.”
Dư luận đánh giá ông là một người ôn hòa gần Mỹ. Các con ông phần lớn học tại Mỹ, hoặc các nước phương Tây, đồng minh của Mỹ. Con rể ông người Mỹ gốc Việt, lớn lên trên đất Mỹ, tốt nghiệp Harvard. Thông gia của ông là công chức cao cấp của Việt Nam Cộng hoà. Thế nhưng ông chẳng nể nang. Ông không có thứ ngôn ngữ khôn khéo của nhà ngoại giao. Ông không mang một bóng dáng khôn ngoan của chính khách hiểu biết thời cuộc. Bài diễn văn đã bộc lộ ông đã thuợc về đám giáo điều bảo thủ. Ông Dũng vẫn rất nặng lời sỉ vả, trịch thượng, hống hách, ngạo mạn “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”. Không hiểu ông còn định đánh Đế quốc Mỹ, và ngụy đến khi nào. Đây nhất định không phải là ngôn ngữ của hòa giải, hòa hợp, hay hòa bình, mà là ngôn ngữ của hận thù, chia rẽ, và bạo lực.
Ông Dũng kêu gọi “kép lại quá khứ,” nhưng ông lại tỏ ra nhất bên trọng nhất bên khinh. Tại sao ông chỉ “kép lại” với Trung Quốc, mà không làm như vậy với Mỹ và người anh em miền Nam. Ông đả kích tội ác của Mỹ, nhưng ông lờ đi tội ác diệt chủng của Khmer Đỏ do Trung Quốc chỉ đạo, và viện trợ. Ông lờ đi tội ác của Trung Quốc gây ra ở biên giới phía Bắc. Đặc biệt và đau đớn nhất, diễn văn không có một lời nào nói đến sự kiện nóng bỏng là Trung Quốc đã chiếm xong toàn bộ biển Đông, đang củng cố sức mạnh bằng việc xây cất những căn cứ quân sự trên đảo. Phải nhấn mạnh ở đây rằng Trung Quốc đã chiếm xong biển Đông, vấn đề còn lại là họ giữ thế nào.
Thiết tưởng cũng nên có đôi lời về cụm từ “kép lại quá khứ” mà ông Dũng đã dùng. “Kép lại quá khứ” không có nghĩa là xóa bỏ lịch sử. Tội ác của Khmer Đỏ tại biên giới Tây Nam, do Trung Quốc chỉ đạo, tội ác của quân bành trướng đại Hán ở biên giớ phía Bắc 1979, và ở biên Đông hôm nay là sự thực, là bằng chứng lịch sử. Đảng Cộng sản đang tìm mọi cách để xóa bỏ lịch sử, bao che tội ác cho đế quốc đại Hán. Ông Dũng cùng với Đảng của ông đã nhầm. Đảng không thể xóa bỏ ký ức của mỗi người Việt. Qua đây người ta thấy rõ hơn Đảng ở phía nào: Quân xâm lược đại Hán hay nhân dân Việt Nam.
Bài diễn văn khoảng trên 3000 từ, nhưng ông Dũng nhắc tới Hồ Chí Minh mười lăm lần. Bác kính yêu của ông Dũng đã có mặt gần như hầu hết trong mọi đoạn văn, lộng ngôn, tâng bốc, bịa đặt một cách sượng sùng “Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại – Lãnh tụ thiên tài, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới – Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, non sông đất nước ta.”
Người nghe diễn văn này có cảm giác nó đã được xào xáo lại từ những bài viết ở thời Lê Duẩn cả về tâm thức và ngôn từ. Nó là sự pha trộn giữa sự ngạo nạn của những kẻ chiến thắng “muôn năm”, “vĩ đại”, “bất diệt”, “vinh quang”, “hào hùng”, và sự hãnh tiến của những người nắm quyền lực: “tự hào”, “vẻ vang”, “sáng suốt”, “thiên tài”, “thiêng liêng”. Nó là món lẩu tạp nham của sự hợm hĩnh, trịch thượng, và ngộ nhận coi đó là “chiến công vĩ đại của thế kỷ XX”, “của dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.”
Nói cho thật chính xác, đó là chiến công vĩ đại của Đảng, chỉ của riêng Đảng, nhất định không phải là chiến công của dân lao động Việt Nam, càng không phải là chiến công của loài người trên thế giới như lời ông nói.
Người ta không tìm thấy một bóng dáng nhân văn của lòng kiêm tốn, của tình thương yêu, và sự hòa giải. Người nghe không tìm thấy một chút sự thực Việt Nam đang ở đâu sau 40 năm trên bậc thang giữa đói nghèo và thịnh vượng, giữa lạc hậu và tiến bộ, giữa tham nhũng và trong sạch, giữa tự do và kìm kẹp, giữa nhân ái, nhân quyền và bạo lực.
Diễn văn của ông, mang đầy bóng dáng của nhà tuyên giáo hạng xoàng, mà giờ đây những người tư duy độc lập gọi đó là “Hội chứng kiêu ngạo cộng sản”.
May 1, 2015
© Trần Hồng Tâm