Đôi Lời Chia sẻ :
Tuần cuối cùng của
Tháng Tư Đen, gia đình chúng tôi, có truyền thống là toàn gia đình ăn chay. Ăn chay là ăn toàn rau
xanh, không thịt cá thế thôi, không màu mè tương chao, đậu hủ, giả cầy, giả cá
gì cả ! Ăn để nhớ cái đau thương của đời tỵ nạn. Ăn chay - nói theo phong
tục Việt Nam - nghĩa là ăn qua loa, ăn để mà sống. Cơm khoai, bánh mì, rau xanh
xà-lách, trái cây,…tóm lại, végétarien.
Gia đình chúng tôi cố giữ phong tục một gia đình Việt Nam ly hương để không
quên quê hương nguồn gốc. Truyền thống, phong tục, trong nhà chúng tôi cố giữ
cái Đạo Việt, giữ cái Bàn thờ Tổ Tiên.
Đối với chúng tôi,
Tôn giáo, Đức Tin phần tâm linh, là Đạo
(con đường giữ người) cá nhơn. Truyền
thống gia đình, là văn hóa lễ nghĩa chung. Truyền thống đất nước là nguồn gốc
chung, là Đạo (Con đường xử thế) Việt.
Vì lẽ ấy Bàn Thờ Tổ Tiên phải có. Bàn thờ Tổ Tiên để nhớ nguồn gốc, thờ phượng
Cha mẹ, Tổ Tiên, Đất Nước.
Hằng năm hai lần, trong
gia đình chúng tôi, Bàn Thờ Tổ Tiên được thắp sáng. Lần đầu, từ ngày 15 tháng
12 dương lịch là ngày mất của Cha chúng tôi, từ nay là Ngày Hiệp Kỵ dòng họ Gia
đình, đến ngày mồng 10 tháng giêng âm lịch mới tắt.
Chúng tôi dạy con dạy
cháu truyền thống Việt Nam, giữ Tứ Ơn : Trước nhứt Đất Nước Việt Nam, thứ đến Tổ Tiên
Việt Nam, Đồng Bào Việt Nam, còn Ơn cuối cùng, Ơn thứ tư là Ơn Tâm Linh-Tôn
Giáo tùy cá nhơn con cháu, Phật Chúa đều
quý cả vì đó là Đạo, vì đó là Con đường
xử thế, con đường giữ mình hằng ngày. Như vậy, Con người Việt gồm có Ba Ơn của Đạo
Việt, và Đức Tin Tôn giáo cá nhơn để tu thân giữ mình.
Chúng ta, người Việt
tỵ nạn Cộng sản từ 40 năm nay, sống đất người, hội nhập ít nhiều đất người, ngày nay sanh sống rải rác khắp nơi
trên thế giới, tùy phong, tùy tục, nhập giang tùy khúc, nhập gia tùy tục, sống
sao cho hạp lòng người, sống sao cho phải đạo mình, đó thôi ! Có nơi có may mắn, tụ họp đông đủ được một cộng
đồng, tạo lập được những nơi sanh hoạt giữ nề giữ nếp Việt, phong Việt, tục Việt,
Việt văn, Việt hóa. Nhưng cũng có vài nơi
xa xôi, vắng vẻ, nhưng nhờ đất lành chim
đậu, vẫn dễ dàng để người Việt chúng ta sanh sống, sanh con đẻ cái.
Sanh hoạt hằng ngày
có vẻ như người bản xứ nhưng về nhà vẫn cố giữ tục,
giữ hồn người Việt. Hồn Người Việt là Tứ Ơn. Đức Thầy Huỳnh Phú
Sổ đã truyền dạy Giáo dân Phật Giáo Hòa Hảo. Chúng tôi tuy Tôn giáo Tin Lành, đọc
Thánh Kinh, giữ lời Chúa, nhưng rất ngưỡng mộ lời dạy Đức Thầy, lấy Tứ Ơn làm kim
chỉ nam giữ Đạo Việt, giữ hồn người Việt. Lời Chúa là Tâm Linh giữ Đạo, giữ Đức.
Tôn giáo là Đức Tin, là lòng dạ cá nhơn, là lương tâm cá thể chỉ là một trong Tứ
Ơn. Ba Ơn còn lại Ơn Tổ Tiên-Cha mẹ, Ơn Đất Nước- Quê hương, Ơn Đồng Bào ấy là
linh hồn Việt.
Chúng tôi thường (ngưởng)
ngưỡng mộ hai dân tộc và cách sống của họ : thứ nhứt là dân tộc Nhựt, ngày
ra đường họ mặc âu phục làm việc, tổ chức làm việc rất Âu Mỹ. Tối về nhà, trong
gia đình họ là người Nhựt, kimono, ngủ sàn. Dù Đạo Phật hay Đạo Chúa, nhưng vẫn
thờ vái, cúng bái, tin tưởng những Kami, tổ tiên truyền thống…Sanh hoạt văn
minh Âu Tây, nhưng linh hồn văn hóa thì
vẫn Nhựt Bổn.
Dân tộc thứ hai là
dân Do Thái. Đạo Do Thái, có từ ngàn xưa, Thờ Chúa, Đấng Yê-Hô-Vah, giữ Đạo theo lời
Chúa, nhưng có những tục lệ nề nếp để nhớ Ơn Xưa. Ngày nay dù 70 năm đã qua, người
Do Thái vẫn hằng năm tưởng niệm Shoah Holocaust về những người Do Thái Âu Châu từng
bị Nazi Đức sát hại.
Việt Nam ta, ngày
Quốc Hận 30 tháng 4, đồng nghĩa với Shoah Do thái, thế mà có
người – tuy là cựu nạn nhơn - vẫn đòi bỏ lên bỏ xuống ! Thay tên, đổi họ, mắc
cở, hổ thẹn.
Ngày mai, chế độ độc tài Công sản đương quyền thế nào
cũng phải bị thay thế phải nhường
quyền cho một chế độ Dân Chủ Pháp Trị. Mong rằng :
Ngày Quốc Hận cũng
phải được duy trì và trân trọng.
Ngày Tang, ngày Đau, ngày Buồn ấy, sẽ là ngày Tổng hợp cho những cái đau thương
của đất nước. Ngày Hiệp Kỵ cho những nạn
nhơn của những cái tang tóc đau buồn đã qua : Cải cách Ruộng đất, Mậu Thân Huế, Hoàng Sa,
Trường Sa, các nạn nhơn của những cuộc pháo kích bừa bãi, những nạn nhơn đã bỏ
mình, nạn nhơn của những cuộc chạy nạn, trong nước : đại lộ kinh hoàng năm
72, đường 19 năm 75, nạn nhơn của cuộc vượt biên khổng lồ trên biển hay ở biên giới, nạn nhơn của những
trại tập trung sau ngày mất nước, hay nạn nhơn của cả cuộc chiến Việt Cộng-Tàu
Cộng năm 1979… để Nhớ, để không Bao giờ Quên, không Bao giờ Lặp lại. Tưởng niệm Ngày
Quốc Hận 30 tháng Tư để hằng năm Xá Tội Vong Nhơn, Tha Tội Lẫn Nhau.
Những Gương Sáng Xứ
Người, sau 40 Năm Hòa Bình:
Thử nhìn lại, tổng kê tình hình Việt Nam, kết quả xây dựng
của 40 năm hậu chiến.
Để làm việc ấy, đầu tiên chúng ta thử nghiên cứu hai bài
học với ba gương sáng :
Bài học thứ nhứt, trường
hợp hai quốc gia bại trận sau Thế chiến 2. Cả hai, sau năm 1945 hoàn toàn
kiệt quệ. Nhựt Bổn lãnh hai quả bom nguyên tử tàn phá tan
tành hai thành phố Hiroshima và Nagasaki. Đức
thì cả nước đổ nát, Berlin thủ đô, Dresden, Hambourg, những thành phố hoàn toàn
bị thiêu rụi.
Bài học thứ hai, trường
hợp Nam Hàn, Đại Hàn Dân Quốc, một quốc gia có một quá trình lịch sử tương
tự Nam Việt Nam, Quốc gia Việt Nam Cộng
Hòa. Đất nước Triều Tiên hay Hàn Quốc, cũng là một bán đảo, cũng hình chữ S, cũng
bị chia hai, một bên chiếu theo vĩ tuyến 38, một bên thì vĩ tuyến 17. Cũng hai
miền Nam Bắc, cũng hai chế độ hoàn toàn tương phản nhau. Hai Miền Bắc, Bắc Việt
với Bắc Hàn, độc tài Cộng sản gia đình Con Ông Cháu Cha Đảng Trị và Kinh tế chỉ
huy. Đối lại, hai miền Nam, Nam Hàn và
Nam Việt, chế độ Cộng Hòa Tự Do Dân Chủ Pháp Trị Hiến Định với nền kinh tế Tư Bản
Chủ Nghĩa, thị trường Tự Do. Cả hai Nam Hàn và Nam Việt đều bị hai Miền Bắc Cộng
sản xua quân cưởng chiếm, cả hai đều toàn dân nổi dậy tự vệ chiến đấu.
Nam Hàn may mắn hơn được cả Liên Hiệp Quốc ký Nghị Quyết ủng
hộ. Nam Việt ta vô phước hơn, chỉ
Huê kỳ và vài đồng minh chịu giúp đở mà thôi.
Nam Hàn có phước, Trung Cộng còn yếu ớt, chưa phải địch thủ của
Huê Kỳ. Nam Việt ta vô phước, Trung
Cộng đã được Huê Kỳ đi đêm tạo thế để chống Liên Sô, cho vào Liên Hiệp Quốc bằng
cách hất cẳng Trung Hoa Tự Do Đài Loan ra. Nam
Việt ta càng vô phước hơn, khi Huê kỳ
đi đêm với Trung Cộng, trước để xé cặp bài trùng Liên Sô Trung Cộng, sau để
biệt lập Liên Sô hầu đem đến sự sụp đổ của Bức Tường Bá linh vào năm 1989,
nhưng phản phé đồng minh Nam Việt trong chiến thuật be bờ, báo hại cả tới 3 triệu
dân Nam Việt phải đành ly hương tỵ nạn. Nam Việt Nam làm con vật hy sanh trên
bàn phé quốc tế.
Nhựt bị chiếm đóng bởi Quân đội Mỹ, mặc dù Nhựt
Hoàng vẫn được duy trì. Nhục nhã thay !
Các samourai oai phong, hào hùng ngày nào,
nay làm công làm thợ cho ngoại nhơn, các thiếu phụ, nữ nhơn đài các Nhựt
phải làm Geisha để khách Mỹ mua
vui !
Đức tình trạng còn bi thảm hơn, bị xé làm bốn mảnh
do bốn cường quốc phe thắng trận chiếm đóng. Ngay cả thủ đô Berlin, cũng bị
chia làm bốn khu vực. Nhục nào cho bằng ! Hận nào cho bằng ! Dòng giống
Aryen, các hiệp sĩ Teutons, các anh hùng
Walkyries hào hùng từ nay phải chăm chỉ phục vụ các thứ dân loại hạng hai, dòng
giống lai căng kém văn hóa !
Việt Nam năm
1975, trái lại, phe miền Bắc, phe Công sản
quốc tế thắng phe Tự do Tư bản Chủ Nghĩa. Trên đất Việt, theo lý thuyết và
nguyên tắc chánh trị không còn bóng ngoại quốc, chỉ có người Việt cai quản người
Việt.
Tại Âu Châu, ngay sau Thế chiến vừa chấm dứt, lập tức một
bức màn sắt rủ xuống phủ kín phía Đông Âu, trùm kín các quốc gia do Liên Sô Cộng
sản và Hồng quân giải phóng với lý thuyết quản trị và cai trị kiểu (Công) Cộng sản độc tài, kinh tế chỉ huy tem phiếu Đảng
trị. Phía Tây Âu trái lại vẫn tiếp tục giữ nền sanh hoạt Tư bản Tự do, tư nhơn
tư hữu, kinh thương, công nghiệp tự do, tự do đi lại, tự do ngôn luận, hàng hóa
thông thương dư giả, giá cả theo nhịp cung cầu. Về mặt chánh trị, chế độ dân chủ
hiến định pháp trị, bầu cử tự do mỗi người một lá phiếu, luật pháp phân minh,
tam quyền phân lập…Nói tóm lại hoàn toàn dân chủ, công minh, rõ ràng, đa
nguyên, đa đảng, quyền công dân, quyền con người được tôn trọng.
Tại Á châu, Nhựt hoàn toàn bị quân đội Mỹ chiếm hẳn, Đại
Hàn, phần đất Nhựt thuộc, bị chia làm hai theo vĩ tuyến 38. Phần Bắc do quân đội
Liên Sô giải giới và chiếm đóng. Phần Nam thì nằm dưới chế độ do quân đội Mỹ
quân quản. Chiến tranh lạnh ở Á Đông nhanh chóng thành Chiến tranh nóng. Quân
Công sản Bắc Hàn cùng với quân Trung (Công) Cộng âm mưu xâm lược miền Nam Đại
Hàn. Ba năm (25/06/1950 – 27/07/1953) : Nam Hàn được Liên Hiệp Quốc ủng hộ,
Mỹ và đồng minh đưa trên 1 triệu quân tham chiến. Phía Nam Hàn và đồng minh thiệt
hại 400 ngàn người với riêng 57 ngàn người (chết) phe đồng mình chết. Phe Công
sản Liên Sô và Trung Cộng đưa vào cũng cả triệu quân nhưng thiệt hại nặng nề
hơn vì chiến thuật biển người thí quân của Trung Cộng, trên 800 ngàn quân Trung
Cộng chết và bị thương. Phần dân chúng thì đã có trên 2 triệu nạn nhơn của cả hai
miền. Thủ đô Séoul Hán Thành hoàn toàn bị thiêu rụi.
40 năm sau :
40 năm sau, 1993, tuy không Thống Nhứt được
nhưng Nam Hàn hay Đại Hàn Dân Quốc- DaeHan Minguh đã là một con Rồng lớn về
Công nghệ. Với diện
tích 99 ngàn cây số vuông, với 49 triệu dân, Nam Hàn là quốc gia phồn thịnh đứng
hàng thứ 12 trên thế giới. (Tồng) Tổng số thu hoạch đầu người là 26 ngàn Mỹ kim
(so sánh Việt Nam 2 ngàn Mỹ kim). Chúng ta ai ai cũng biết một vài thương hiệu
nổi tiếng như Samsung, như Huyndai, … hai đại công nghiệp Đại Hàn : Tin học
và Xe Hơi…Chưa kể ngành đóng tàu của Đại Hàn, năm 2014, đứng hàng đầu quốc tế, Hyundai
dẫn đầu về đóng tàu.
Gương sáng ấy đáng
để Việt Nam suy nghĩ và học theo không ?
Cũng tại Á Châu, Nhựt
Bổn ngày nay
là một cường quốc kinh tế, đứng hàng thứ ba trên thế giới, sau Huê Kỳ và Trung
Cộng. Nhựt Bổn, sau khi bị hai quả bom nguyên tử tàn phá hai thành phố lớn, phải
đầu hàng đồng minh do Huê kỳ lãnh đạo. Chỉ năm năm đầu khó khăn, quét dọn tổ chức,
chấp nhận sự tủi nhục của quân quản ngoại nhơn. Nhưng qua năm thứ sáu, từ năm 1950 đến 1960 trong vòng 10 năm, nền
kinh tế Nhựt vực dậy như một phép lạ. Chỉ 19 năm sau, năm 1964, Nhựt đã đủ sức
để tổ chức Thế Vận Hội Thể Thao quốc tế. Thành
công ấy vỏn vẹn tất cả chỉ chưa đầy 20 năm ! Chưa đầy 20 năm, các hãng
xưởng chẳng những đã phục hồi sản xuất, mà còn biến thành những thương hiệu số
một, số hai quốc tế, Fujitsu, Toyota, Mitsubishi, Honda, SeiKo, …sản xuất xe
hơi, sản xuất máy móc, sản xuất tin học, máy chụp hình, TV, radio, hoá học, Y tế,
…Tuy nước Nhựt đất hẹp người đông, nhưng nông nghiệp được chánh phủ tài trợ để
cố gắng độc lập lương thực (40% tự túc lương thực)… Nước Nhựt là Đảo, là Biển !
Vì vậy cần phải có tàu để đánh cá tìm lương thực ! Giàn tàu đánh cá Nhựt lớn
nhứt thế giới. Lo lương thực nhưng cũng phải lo làm ăn ! Giàn tàu thương
nghiệp cũng đứng hàng thứ hai trên thế giới, chỉ sau Hy lạp thôi ! Muốn có
tàu thuyền, muốn có ngành hành hải lớn, phải có xưởng đóng tàu ! Nhựt lúc ấy đã đứng
hàng đầu về ngành đóng tàu.
Tóm lại, 1945, nước
Nhựt là một đống tro tàn, đất Nhựt bị quân đội Huê Kỳ chiếm đóng ! 40 năm
sau, 1985, Nhựt là cường quốc kinh tế số một ở Á Châu, cường quốc kinh tế số
hai sau Huê Kỳ. Gương sáng cho Việt Nam !
Đức, trường hợp còn đặc biệt hơn nữa. Nếu Nam
Hàn ngày nay vẫn chỉ là phân nửa của bán đảo Triều Tiên. Người dân Triều Tiên thì
vẫn còn bị chia cắt. Đức sau 45 năm chia cắt đã thống nhứt lại được và sau một
thời gian hy sanh khó khăn gian khổ, đã chiếm lại vị thế số một cường quốc kinh
tế Âu châu.
Đức, sau khi thất trận đã bị xé làm bốn mảnh :
bốn quốc gia thắng trân chiếm đóng bốn vùng. Nhưng vừa sau khi thắng trận xong,
căn nhà Đức chưa yên ổn, thì nước Đức lại bị chia làm hai. Chiến tranh lạnh
Đông Tây. Chiến tranh lạnh giữa hai chế độ, hai ý thức hệ, hai phương pháp quản
trị nước, hai quan niệm kinh tế khác nhau, thậm chí tuy cùng ngôn ngữ, cùng gốc
văn hóa, nhưng hai vùng Đông Đức - Tây Đức lại đã biến thành hai nền văn minh, hai
văn hóa khác nhau với hai suy nghĩ khác nhau. Chúng tôi nói dông dài về Đức để
thông cảm và hiểu rõ cái khác biệt của những dân tộc bị lịch sử chia cắt và
không cùng sống chung một nền tảng chế độ quản trị và suy nghĩ.
Cũng như Việt Nam, cũng như Triều Tiên, Đức sau khi bị
chia cắt, hai miền sống riếng biệt nhau, tạo ra hai nhơn tố con người khác nhau. Không chỉ riêng về quan niệm quản
trị kinh tế : bên tự do tạo con người phóng khoáng, sáng tạo, đầy nhơn bản
tánh, biết đùm bọc, biết thương yêu nhau, biết tạo một xã hôi liên đới hổ tương
nhau. Trái với phía dân chúng sống dưới chế độ cộng sản xã hội chủ nghĩa. Mặc
dù chế độ Cộng sản được đặt tên là Cộng, mặc dù có tên gọi là Xã hội, như tất cả
đều rất vị kỷ. Sống sanh hoạt tập thể, nhà tập thể, ăn tập thể, nhưng con người
cứ phải co rúm trong cái vị kỷ sanh tồn của bản thân. Giành nhau sắp hàng, để
lo mua miếng ăn, miếng uống, tem phiếu, chia phần giành giựt. Càng cố gắng chia
phần đồng đều, lại càng canh chừng, dòm ngó, xem ai hơn ai. Ăn gian, mánh mung,
nói láo, tố cáo, rình rập… chế độ cộng sản tạo ra những con người hoàn toàn ích
kỷ vì phải sống còn. Đó chỉ là nói về con người ! Còn về phần cơ cấu tổ chức,
vì tất cả là của chung, con chung không ai khóc, nên nhà nước vẫn xìu xìu ển ển
… Cả nước sống cho qua ngày. Ngày nay, bốn nước Cộng sản còn lại trên thế giới,
Tàu Trung Cộng, tuy đệ nhứt thiên hạ thế giới về kinh tế, tuy đang xưng hùng,
xưng bá ở Vùng-Á Đông, Biển Đông, nhưng dân chúng vẫn còn nghèo. Bắc Hàn thì khỏi
nói, là một anh chàng nguy hiểm, có sức mạnh nguyên tử, sức mạnh quân đội, có
thể gây nguy hiểm cho toàn vùng và cả thế giới, nhưng dân chúng có những năm từng
thiếu nguồn lương thực phải đi ăn xin, cứu đói. Còn Cu Ba ! Cu Ba đang được
Mỹ bỏ cấm vận, vì kiệt quệ tài chánh. Dân Cu Ba, cũng như dân Việt Nam sống nhờ
kiều hối của dân tỵ nạn Cu Ba gởi về bơm máu. Và cuối cùng là Việt Nam !
Xin trở về trường hợp nước Đức để lấy tấm gương sáng. Nước Đức thoạt đầu bị chia thành bốn
vùng do bốn quân đội bốn quốc gia thắng trận chiếm đóng. Ba vùng, Pháp Anh Mỹ,
cùng chế độ quản trị chánh trị kinh tế, nên sau hai năm hoàn toàn phối hợp
thành một. Nhờ chương trình Marshall, tên của vị Tướng Huê kỳ tạo một sức mạnh
kinh tế để tái kiến trúc Âu châu, chẳng những để phục hồi nước Đức và dân Đức mà còn giúp đở cả các quốc gia Âu châu
từng bị tàn phá bởi chiến tranh. Sau Thế chiến 2, vai trò Huê kỳ ảnh hưởng mạnh
đến những thành tựu về mặt sức mạnh kinh tế, chánh trị và quân đội của Tây Âu.
Thế chiến vừa xong, Âu Châu lại bị chia thành hai khối Đông Tây. Một bức Màn Sắt trừu tượng phủ khắp
bầu trời các quốc gia Đông Âu, đại diện bởi Bức tường thực thể xây bằng gạch và
giây kẻm gai cùng mìn và vọng gát chạy dài trên cả ngàn cây số để chỉ chia rẻ
người dân Đức. Ngay từ năm 1948, ba năm sau hòa bình, dân chúng Đức đã phải sống
trong chia rẽ.
Phía Tây, Tây Đức,
thành lập một quốc gia Liên bang Đức,
Tự do, Hiến Định, Pháp trị, Đa nguyên Đa Đảng. 40 năm sau, 1985, Tây Đức là cường
quốc số một Âu Châu.
Thời điểm ấy, Huê Kỳ là số một về kinh tế, về quân sự. Và
hai quốc gia bại trận Nhựt và Đức lại là
số 2 và số 3 thế giới !
Quý vị chắc ai cũng biết tên các thương hiệu Đức và chắc ai
cũng mê chọn những món hàng của Đức về phẩm chất : từ xe hơi, Mercedes,
Audi, BMW, VW, đến hóa học BASF, dược phẩm Bayer, đến cơ khí…Siemens, Krupp…máy
bay với tập đoàn Airbus cùng với các quốc gia láng giềng là Pháp, Ý Tây Ba Nha…
Năm 1989, bức tường
Bá linh sập, nước Đức thống nhứt. Tây Đức ôm gánh nặng phục hồi Đông Đức. Tất cả bao khó khăn, dân Tây Đức
đều gánh chịu. Chỉ sau vài năm, ngày nay Đức phục hồi vị trí số một Âu Châu. Tổng
Sản lượng ngày nay là 3,500 Tỷ Mỹ kim, đứng hàng thứ tư thế giới ;
Thử làm Bảng sắp hạng.
Năm 2013 : Tổng sản lượng
1/ USA 13, 340 tỷ Mỹ Kim,
2/ Trung Cộng 9, 300 Tỷ MK, 3/ Nhựt Bổn 5,000 Tỷ MK, 4/ Đức 3,500 Tỷ MK,
5/ Pháp 2,700 Tỷ MK, 6/ Vương Quốc Anh 2,400 Tỷ…
So sánh Việt Nam 57/ 170 Tỷ MK
Và Tổng sản lượng đầu người - thứ hạng thế giới
9/ USA 53 ngàn MK, 16/ Đức 45 ngàn MK, 24/ Nhựt 38,500 MK,
20/ Pháp 44 ngàn MK… 81/ Trung Cộng 7 ngàn MK và Việt Nam 1,900 MK đứng hàng thứ
134.
Tất cả có 184 quốc gia được sắp hạng.
Như vậy, năm 2013, Tàu đứng hàng thứ hai thế giới về Tồng
Sản Lượng, đất nước giàu có nhưng dân Tàu vẫn nghèo với 7000 dollars bình quân
mỗi người.
Thử chia cho 12
tháng, lượng tháng sản xuất khoảng 503
dollars tháng. Các bạn nghĩ thế nào ? Với con số ấy ? Còn riêng về Việt
Nam miễn bàn nếu lấy 1900 MK chia làm 12 = 158 MK tháng. Mỗi đầu người Việt
Nam bình quân tạo chưa đầy 160 MK cho đất nước.
Do đâu có sự cách biệt giữa Việt Nam với Đức, Nhựt Bổn, Đại
Hàn như vậy ?
Con người ?
Tiềm năng, sức mạnh
của một quốc gia chính là con người.
Người Việt Nam, gốc văn hoá khác chi Nhựt (Và) và Đại Hàn.
Cùng Văn hóa gốc Hán, Tam giáo, Khổng, Lão và Phật.
Cũng bị hoạn nạn. Nhựt tiêu tùng sau hai quả Bom nguyên tử,
bị Mỹ quân quản. Nhục nào cho bằng !
Đại Hàn bị chia cắt, chiến tranh Quốc Cộng, gia đình phân
chia hai miền. Khổ đau nào cho bằng !
Họ là người Á đông như người Việt Nam ! Họ biết làm
lụng cam khổ, họ biết nương tựa gia đình, nương tựa xóm làng, láng giềng, bà
con ! Nước Nhựt ngày nay là con Rồng Kinh tế đệ nhứt Á Châu ! Nam Hàn
ngày nay là Con Hổ Kinh tế một trong những con Hổ Kinh tế Á châu với Hong Kong,
Đài Loan, Singapore ! Hãy nhìn xem và lấy đó làm gương, các con Hổ
Kinh tế ấy lẫn cả Con Rồng Kinh tế vẫn là những quốc rất ít tài nguyên thiên
nhiên. Toàn là đất hẹp người đông, chen chúc nhau mà sống. Tài nguyên của họ là CON NGƯỜI.
Cả nước Đức cũng vậy, Đức ở Âu Châu, Đức Thiên Chúa giáo,
gốc Tin lành Cơ Đốc Luther, đông hơn Thiên Chúa La mã. Dân tộc Đức sở dĩ phát
triển mạnh hơn các dân tộc láng giềng là nhờ vào những đức tánh cần cù, chịu
khó, và đặc biệt kỹ luật, biết vâng lời chấp hành kỹ luật lệnh trên.
Dân tộc Nhựt và dân
tộc Đại Hàn cũng vậy. Nhẫn nại, kỹ luật,
kỹ thuật, tổ chức, ngăn nắp, sạch sẽ.
Còn người Việt Nam
chúng ta thì sao ?
Người Việt Nam có đầy đủ đức tánh của một dân tộc nếu được đặt trong một môi trường tốt thì sẽ phát triển tốt. Bằng
chứng, chỉ trong vòng 40 năm có mặt ở Hải ngoại, các con em hậu duệ Việt Nam đã
hội nhập dễ dàng vào xã hôi của quê
hương thứ hai.
Chỉ cần hai thế hệ, con người Việt Nam đã biến thành những
công dân tốt cho xứ sở thứ hai.
Thế thì tại sao ở quê nhà, trong tình trạng đất nước hiện
nay, người Việt Nam quốc nội đã không phục hồi lại được xứ sở ? Hỏi là trả
lời. Phải chăng, người Việt Nam bị những « rào cản » chận đứng mọi
sáng kiến, mọi ý chí, mọi con đường để phát triển, xây dựng cá nhơn, xây dựng
xóm làng, xây dựng xứ sở đất nước. Rào cản
nào ?
Chế độ Chánh
trị :
Với một chế độ chánh trị chỉ biết kềm kẹp, đàn áp con người. Một chế độ chánh
trị chỉ biết dạy con người biến thành những con vật, chỉ biết tuân lệnh. Cầm
quyền bằng nói láo, cầm quyền bằng hăm dọa,
cầm quyền bằng bao tử, bằng tem phiếu, xin cho thử hỏi làm sao người dân Việt
có thể phát triển nổi ?
Một đất nước mà lòng tự
hào được đo lường bởi sự hy sanh. Một đất nước mà tự hào đỉnh cao trí tuệ
là do dám giết giặc. Một đất nước mà gương sáng là một câu chuyện (bịa) rằng một
thằng bé tự tẩm xăng đốt. Không biết tôn trọng mạng sống của mình là không biết
quý trọng cái ơn của cha mẹ đã dày công dạy dổ nuôi nấng mình thành người.
Không biết trọng mạng sống của mình, cả mạng sống của tha nhơn, sẳn sàng bắn
vào đầu, đập vào óc người, sẳn sàng chôn sống 5000 thường dân vô tội ở Huế. Ai
ra lệnh thảm sát 5000 thường dân Huế ? Không ai cả, chế độ dạy quân đội Việt
Cộng giết người. Lúc hoang mang, hỗn quân hỗn quan, sợ quá giết người thôi là
chuyện dỉ nhiên. Giết vì sợ, giết vì lo cho ngày mai, giết vì mất hy vọng, sợ rằng,
e rằng. Việt Cộng đâu có chánh sách chiêu hồi đãi ngộ, kêu cánh chim tìm về tổ ấm
như chế độ Miền Nam Việt Nam, đã đãi ngộ người trở về.
40 năm cầm quyền ! Năm nay, những người bạn Pháp du
lịch về Việt Nam vẫn còn thấy trẻ con ăn xin, bán vé số…Chúng tôi thường nói với
bạn bè người ngoại quốc đi du lịch Việt Nam : « Hãy đo lường nền văn
minh Việt Nam phát triển bằng cách đứng
vào lúc 11 giờ sáng ở chợ Sài gòn, hay chợ Bình Tây để xem trong một chu vi 10
thước vuông thì sẽ đếm xem có bao nhiêu trẻ con có mặt và ăn xin hay bán vé số !
Ở Pháp giờ ấy không có con nít ngoài đường. Trẻ con đều phải đi học cả».
40 năm vẫn còn người buôn gánh bán bưng, vẫn còn cu li -
cửu vạn vác vay, vác mướn, vẫn còn hàng
quán ngồi xệp bên vỉa hè, vệ đường.
Các cán bộ Nhà nước Cộng sản khi xuất ngoại du lịch hay
công tác có nhìn xem các đời sống các quốc gia như Đức như Nhựt không ? Có
so sánh với nước ta không ? Có thẹn
với lòng không ? Có mắc cở với gia đình, với con tim mình, với bà con cô
bác, rằng mình đã đi lầm đường không ? Có bao nhiêu cán bộ biết ngồi khóc
bên hè phố Sài gòn như Dương Thu Hương ? Bao nhiêu cán bộ bỏ Đảng bỏ xứ, bỏ
chức, bỏ phận, vứt lon, vứt lá, huy chương quân hàm để sống đời tỵ nạn trong một
căn nhà nhỏ tại một ngoại ô Paris như Bùi Tín ? Bao nhiêu ? Đếm chưa
đầy bàn tay, ít quá ! Bao nhiêu ? Ít quá ! Là thảm trạng của Việt
Nam. Không tiến được, không mở mắt được. Bịt miệng, bịt mắt, bịt tai, Cả nước
Việt Nam ! Ba con khỉ bịt mắt, bịt tai bịt miệng để sống qua ngày ! Mãi
mãi người Việt Nô Lệ.
Kết Luận :
40 năm, rồi sẽ 50 năm, rồi sao nữa ?
Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây,
40 năm nô lệ giặc Cộng. Gia tài của mẹ một lũ khù khờ, bịt mắt, bịt miệng, bịt
tai. Không Thấy, Khống Nghe, Không Nói !
Ngó gương người, 40 năm người Đức Nhựt dựng lại Nước.
Nhìn lại ta, 40 năm Đảng Việt Cộng chỉ biết trị dân và
Bán Nước.
Chừng nào còn Đảng Việt Cộng, thì người Việt vẫn còn nô lệ.
Muốn phát triển, muốn có Tự do, có Độc lập, có Dân chủ phải Thoát Cộng.
Tất cả những vấn nạn hiện tại hay tương lai, như Hán Hóa,
như mất hải đảo, mất Biển Đông đều do Đảng Công sản cầm quyền tạo thành.
Thoát Cộng sẽ giải quyết tất cả. Môt chế độ dựng lên bằng
kiểu cướp chánh quyền, bằng tuyên truyền láo khoét, bằng giáo dục dỏm, bằng bằng
cấp mua, bằng ngoại giao xin cho, thì phải dẹp bỏ. Dẹp bỏ xong cái chế độ ấy,
người Việt Nam mới tìm thấy lại những sự thật.
40 năm quá dài ! Đủ rồi ! Mong rằng tất cả người dân Việt thấy được sự thật
để mà vứt bỏ mầm nguy hại nầy !
Mong lắm !
Hồi nhơn Sơn, tháng
Tư đen thứ 40.
Viết cho ngày Quốc Hận.
Phan Văn Song.