Saturday, 18 April 2015

VÀI SUY NGHĨ VỀ NIỀM TỰ HÀO DÂN TỘC NHÂN ĐỌC CUỐN TÔI TỰ HÀO LÀ NGƯỜI VIỆT NAM - Phạm Hoài Nam


Tác phẩm Tôi tự hào là người Việt Nam (TTHLNVN) được ra mắt tại Việt Nam vào tháng 8 năm 2014. Có lẽ tại Việt Nam từ sau tháng 4/1975 đến nay, hiếm có một cuốn sách nào được tổ chức ra mắt rầm rộ như cuốn sách này.

Các cơ quan truyền thông lớn trong nước đều quảng bá quyển sách này và tường thuật 2 buổi “tọa đàm” về tác phẩm tại Sài Gòn ngày 30/8 và Hà Nội ngày 27/9/2014, với sự tham dự của nhiều nhân vật nổi tiếng và các đại diện của chính quyền.

Đọc tin trong nước và nghe qua YouTube bàn tán nhiều về cuốn sách này quá, cho nên vì tò mò, tôi nhờ một người ở VN mua dùm gởi qua.

Theo chủ biên Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng cho biết tác phẩm này là điểm khởi đầu cho dự án lâu dài, nhiều cuốn “tự hào” khác sẽ được ra đời: “Doanh nhân tự hào là người Việt Nam” (2015), “Trí thức tự hào là người Việt Nam” (2016),“Người Việt Nam ở nước ngoài tự hào là người Việt Nam” (2017), “Văn nghệ sĩ tự hào là người Việt Nam” (2018), “Thanh niên tự hào là người Việt Nam” (2019), “Lãnh đạo mọi cấp, mọi nơi tự hào là người Việt Nam” (2020) và còn nữa.

Tác phẩm bao gồm 35 bài viết của 33 tác giả. Mỗi tác giả đại diện cho một lãnh vực: giáo dục, văn hóa, văn nghệ, trí thức, sử học, y tế, công nghệ, báo chí, tâm lý học, tư duy chiến lược, quốc phòng… phản ảnh mọi khía cạnh của xã hội ngày nay. Trong số 33 người này có 16 tiến sĩ, 2 thạc sĩ, 1 thượng tướng, còn lại đều có bằng cử nhân. Phần lớn các tác giả là những người nổi tiếng tại Việt Nam như chủ biên cuốn sách là tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng, đang là Tổng Giám Đốc công ty sách Thái Hà; Đặng Lê Trung Vũ là chủ Cà Phê Trung Nguyên; Dương Trung Quốc là sử gia, cũng từng là Đại Biểu Quốc Hội; Nguyễn Hữu Thái Hòa là Giám Đốc Chiến Lược của Tập Đoàn FPT; Hùng Cửu Long và Phạm Phú Ngọc Trai là hai đại gia nổi tiếng hiện nay v.v…

Theo tiểu sử đăng trong phần đầu của cuốn sách (tr. 3-18), phần lớn các tác giả làm việc cho các cơ quan nhà nước và một số là doanh nhân. Nói chung tất cả đều thuộc thành phần ưu tú nhất của đất nước VN hiện nay. Riêng ông chủ biên Nguyễn Mạnh Hùng đang là thần tượng của giới trẻ VN hiện nay, được ngưỡng mộ đến mức có cả “Hội những người là học trò của Thầy Nguyễn Mạnh Hùng” (1).
Trong số 35 bài viết, theo tôi, chỉ có 2 bài hay là “Niềm tin vào con người Việt” của Alan Phan, và “Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?” của Lương Hoài Nam.
Bài “Niềm tin vào con người Việt” ông Alan Phan đã viết từ năm 2011, cho nên không phải là bài ông viết riêng cho cuốn TTHLNVN. Tương tự bài “Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?” của ông Lương Hoài Nam đã viết từ năm 2013 cho diễn đàn “Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ”, cho nên những chi tiết trong bài viết này không nói về niềm tự hào dân tộc mà ở một phía cạnh khác, trong đó ông trình bày rất thẳng thắn về hiện tình của đất nước hôm nay, ngay cả đề nghị“cần phải có cơ chế thật sự dân chủ và tự do” (tr.62). Tôi đã từng đọc qua một số bài viết khác của ông và luôn dành cho ông một sự kính trọng.

Riêng ông Alan Phan (đại diện cho cộng đồng người Việt ở nước ngoài), tôi thật ngạc nhiên về sự có mặt của ông trong cuốn sách này. Bài của ông “Niềm tin vào con người Việt”, viết về sự thành công của một người Việt ở Mỹ. Đây không phải là bài hay trong số các bài viết của ông.

Ngoại trừ bài này, những bài viết khác của ông Alan Phan đều “móc” chính quyền CS, đôi khi có những lời lẽ rất thâm, rất nặng. Càng về sau ông càng nói mạnh hơn. Trong bài “Những So Sánh Bất Tiện…” vào tháng 11/2014, ông kết luận bài viết bằng câu: “Cả 90 triệu người đang bị lưu đày trên quê hương của họ.”, điều đó cho thấy ông khó có thể “tự hào là người Việt Nam” trong hoàn cảnh đất nước hiện nay.

Những nhận xét tổng quát của tôi dưới đây không bao gồm bài của ông Alan Phan và Lương Hoài Nam.
Nhận xét tổng quát về tác phẩm:

Về hình thức - nhìn chung, sách trình bày không được đẹp lắm, giấy xấu, không hợp lý khi để tên tác giả cuối bài viết.

Về nội dung nói chung:

- Kiến thức kém so với bằng cấp của các tác giả
- Quá coi thường độc giả
- Nhiều “niềm tự hào dân tộc” nêu ra mơ hồ, viễn vông
- Đặt nặng tính chất chính trị
- Hoàn toàn né đụng chạm đến chính quyền
- Nhiều nghịch lý trong cách lý luận
- Nhiều chi tiết mâu thuẫn nhau, có khi chỉ câu trước câu sau
- Nhiều dữ kiện trình bày không có bằng chứng
- Vẫn còn phân biệt giữa “bên thắng cuộc” và “bên thua cuộc”
- Không cho biết nguồn của các các chi tiết quan trọng để độc giả có thể kiểm chứng

Điểm đáng nói đầu tiên là nhiều tác giả coi thường độc giả quá. Có những kiến thức rất căn bản lại sai, chẳng hạn như: A.Pazzi là tác giả của “Người Việt cao quý” (tr.260), ông Đỗ Đức Cương là người đã phát minh ra máy ATM (tr.44), Trần Hưng Đạo, Võ Nguyên Giáp nằm trong danh sách 10 tướng lãnh xuất sắc nhất trong lịch sử nhân loại (tr.40), “Mục sư King đã bị bắn chết trong lúc diễn thuyết kiêu gọi hòa bình và chấm dứt chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam” (tr.70). v.v…
Đây là những kiến thức mà một người bình thường đều biết, nếu không thì chỉ cần bỏ ra vài phút là có ngay câu trả lời trên Google.
Cách chọn lựa bài của chủ biên làm cho cuốn sách mất giá trị, nhiều bài phẩm chất quá kém, có những bài lý luận không hợp lý chút nào, có những bài người đọc có cảm tưởng như tác giả đang trong cơn lên đồng, chẳng hạn như bài “Đặt vấn đề cho sống còn phát triển Việt Nam” của tác giả Hùng Hữu Long (tr.387-393), có những bài viết cho người đọc có cảm tưởng như tác giả đang sống ở một hành tinh nào khác chớ không phải ở Việt Nam, có những bài quá lỗi thời trong thế giới văn minh ngày nay như bài phỏng vấn Đại tướng Võ Nguyên Giáp, bài ca ngợi tinh thần hỗ trợ doanh nhân của Hồ Chí Minh. Bài “Thành Hoàng làng Hạ” của tiến sĩ Nguyễn Kim Hồng, đại diện cho giáo dục nhưng nội dung lại phản tinh thần giáo dục v.v...

Mặc dầu trong “Lời nói đầu” (tr.29-35) của chủ biên nói rằng cuốn sách này là niềm tự hào chung của tất cả người VN bao gồm mọi giới, cả người trong nước lẫn người ngoài nước nhưng nội dung cuốn sách vẫn còn nặng chính trị như bài “Một bài phỏng vấn Đại Tướng Võ Nguyên Giáp” (tr.127-133) về việc xây dựng đường mòn Hồ Chí Minh, và bàng bạc trong cuốn sách vẫn nhắc đến niềm tự hào “đánh Mỹ cứu nước”. Thậm chí ông chủ biên Nguyễn Mạnh Hùng dự định sẽ ra mắt cuốn “Doanh nhân tự hào là người Việt Nam” vào “nhân dịp ngày 30/4/2015 – 40 năm ngày thống nhất đất nước” (tr.33), như nhắc lại vết thương của hằng triệu người Miền Nam và đại đa số người Việt ở hải ngoại. Vậy làm sao có thể kêu gọi họ tự hào về đất nước mình.
Một đặc điểm khác của cuốn sách này là né tránh những “vấn đề nhạy cảm”. Mặc dầu có những bài nêu ra những yếu kém của VN so với thế giới, những xuống cấp của xã hội ngày nay, những cảnh người Việt bị kỳ thị ở Nga, bị coi thường ở Nhật… nhưng tuyệt đối không ai nêu ra trách nhiệm của chính quyền.

Nói chung nếu xét theo tiêu chuẩn quốc tế của một cuốn sách xuất bản rộng rãi cho quần chúng, thì cuốn sách này không đáp ứng được những đòi hỏi căn bản.
Đòi hỏi tối thiểu của một sách là tất cả các nguồn (source, reference) phải ghi xuống, và những chi tiết quan trọng phải cho người đọc biết trích dẫn từ đâu để nếu cần họ có thể kiểm chứng. Cuốn sách này hoàn toàn thiếu điều đó. Đây là trách nhiệm của chủ biên.
Điều làm tôi ngạc nhiên nhất sau khi đọc qua cuốn sách này là khả năng và tư cách đạo đức nghề nghiệp của ông Tiến sĩ Chủ biên Nguyễn Mạnh Hùng thể hiện qua cách chọn bài và 3 bài viết của ông. Ông coi thường người đọc quá. Ông ca ngợi người Việt giống như ông đang sống tại nơi tại nào đó trên thế giới này, chớ không phải trên mảnh đất Việt Nam, chẳng hạn như bài “Người Việt và lý thuyết cây tre” (tr.343-349) nêu ra 20 đức tính tốt của người Việt Nam. Bài “Tôi tự hào là người Việt Nam” (tr.37-45), nêu ra khoảng 40 điều mà người VN nên tự hào về đất nước mình. Trên thế giới này khó có dân tộc nào có đến 20 đặc tính tốt như ông nêu ra và hiếm có quốc gia nào có nhiều thứ để tự hào như ông nói. Thật sự, trong những tự hào ông nêu ra đó có nhiều tự hào không đúng sự thật, có những tự hào chỉ gây thêm chia rẽ giữa người Việt, có những tự hào đúng ra phải lấy làm xấu hổ.

Cả 3 bài viết của ông Nguyễn Mạnh Hùng không thể hiện tính chất chuyên nghiệp, có những chi tiết sai rất căn bản, nhiều nghịch lý trong cách lý luận, nhiều chi tiết không đáng tín và không ghi nguồn trích từ đâu để người đọc có thể kiểm chứng. Điều mỉa mai nhất là nếu người VN tốt đến mức như ông nói, thì cả thế giới đã biết rồi, họ đã kính nể và ngưỡng mộ người VN có thể hơn cả người Nhật, thì cần gì phải phát động thành một phong trào như ông đang làm và sẽ làm, để hy vọng “Tôi muốn sẽ đến một ngày, Hai tiếng Việt Nam được thế giới nghiêng mình ngưỡng mộ” (tr.384).

Nếu quan niệm đây là cách tự hào riêng của người VN, cuốn sách này được viết ra để người Việt “tự sướng” với nhau, thì không có gì để nói. Nhưng nếu quan niệm như một số tác giả trong cuốn sách hay như ông Lê Doãn Hợp, Nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền Thông, phát biểu trong buổi tọa đàm “Tôi tự hào là người Việt Nam” ngày 27.8.2014 tại Hà Nội: “Chủ đề này cần trở thành một cú hích, tác động vào mỗi cá nhân, để thế giới ngưỡng mộ chúng ta hơn”, (2) thì đối với một người Việt còn tự trọng phải xét lại - đây là cuốn sách để tự hào hay để xấu hổ!

Ông tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng đang là chủ tịch của Công Ty Cổ Phần Sách Thái Hà, dĩ nhiên với địa vị này, ông bắt buộc phải có liên hệ với chính quyền, không ai có thể đòi hỏi ông không làm theo những đòi hỏi của họ, nhưng ít ra ông cũng phải thể hiện một chút sĩ khí của người trí thức trước hiện tình đất nước.
I.  Khái niệm về niềm tự hào dân tộc.

Cái khó nhất đối với một người phê bình cuốn sách này là có quá nhiều bài viết và khó hơn nữa là hầu hết những bài viết đều có nhiều chi tiết sai và nhiều điều dễ gây tranh cãi. Cho nên trong phạm vi bài viết này tôi chỉ tập trung vào vài bài chánh.

Bất cứ dân tộc nào cũng có những cái để tự hào. Không nhất thiết phải tự hào về những thành tựu vĩ đại mà tự hào vì đó là nơi mình đã sinh và lớn lên với những nét đặc thù được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Cũng giống mọi sắc dân khác, người Việt nào cũng muốn tự hào về quê cha đất tổ. Ai cũng mong muốn đất nước mình giàu đẹp, văn minh có thể sánh vai cùng thế giới và không cảm thấy tủi hổ nhắc đến hai chữ “Việt Nam”.

Tự hào về quê hương là tình cảm tự nhiên. Tự hào giúp cho chúng ta có thêm niềm tin khi đất nước phải đương đầu với những thử thách, khi đứng trước những khúc quanh của lịch sử và những giai đoạn chuyển mình của đất nước. Tự hào cũng là chất keo nối kết dân tộc lại trước hiểm họa xâm lăng của ngoại bang, và càng cần thiết hơn nữa khi đất nước phải xây dựng lại từ đống tro tàn.
Thế nhưng phải tự hào trong sự tự trọng. Tự hào đúng với những với những gì mà mình xứng đáng. Những gì tự hào phải là những điều có thật, chớ không là những điều hoang tưởng viễn vông. Phải tự hào trong ý thức và sự tỉnh táo để không bị lợi dụng.

Trong thế giới toàn cầu hóa hiện nay, tự hào về dân tộc mình để có thêm tự tin hòa nhập vào cộng đồng thế giới chớ không phải để chứng tỏ dân tộc mình hơn dân tộc khác, trong thế giới ngày nay sẽ không có chỗ cho tinh thần dân tộc mù quáng, tự cao về dân tộc mình và đòi hỏi những dân tộc khác phải “nghiêng mình ngưỡng mộ”. Trước khi tự hào về dân tộc mình phải hành xử như những con người văn minh, có tư cách của công dân toàn cầu, góp phần giúp thế giới này được nhân bản và tử tế hơn.

Đáng tiếc là trong 60 năm qua, người VN là nạn nhân nhiều lần của chiêu bài “tự hào dân tộc” bởi những kẻ đầu cơ chính trị núp dưới danh nghĩa “làm cách mạng”, khiến cho dân tộc VN ngày nay không còn là một dân tộc đáng tự hào mà như một thân xác mang trên người đầy thương tích, lại thêm chứng bệnh hoang tưởng trầm trọng.
Khi nói về niềm tự hào dân tộc, người viết xin nêu 2 quan điểm dưới đây:
1/ Nhiều người cho rằng đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ cai trị đất nước có 60 năm, là một giai đoạn rất ngắn trong quá trình lịch sử kéo dài 4000 năm. Chính vì vậy niềm hào dân tộc phải được nhìn với chiều dài của lịch sử chớ không nên nhìn ở một giai đoạn nhất thời.

Chỉ có hiện tại mới quan trọng, mới là những gì chúng ta hãnh diện hay xấu hổ. Quá khứ dù có vẻ vang đến đâu thì cũng vẫn là dấu tích của một thời. Người ta sống với hiện tại chớ không ai sống với khá khứ. Quá khứ chỉ để nhận dạng mình làm hành trang cho cuộc hành trình về tương lai.

Mấy ngàn năm văn hiến có ý nghĩa gì nếu như hiện tại không bằng những quốc gia mới hình thành có mấy mươi năm. Người Singapore không tự hào về khá khứ nhưng họ có hàng trăm lý do để tự hào về những thành tựu hôm nay. Một người ngoại quốc đánh giá một quốc gia không phải bằng những trang sử vẻ vang, một nền văn minh rực rỡ trong quá khứ của xứ sở đó mà bằng những gì họ nhìn được thấy trong hiện tại.
Quá khứ là những bài học quý giá, nhưng có khi cũng những là chướng ngại.
Nền văn minh lực rỡ của Ai Cập, Hy Lạp, Peru, Mông Cổ… chỉ giúp cho những quốc gia này có thêm một số du khách đến xem những di tích còn sót lại, nhưng cũng chính những di sản quá khứ rực rỡ đã tạo cho họ đặc tính tâm lý tự mãn và làm cho đất nước của họ khó phát triển.

Nếu như chúng ta tự hào về 4000 năm văn hiến thì có lẽ chúng ta cần phải suy nghĩ về câu hỏi dưới đây:

60 năm là một khoảng thời gian rất ngắn so với chiều dài lịch sử 4000 năm. Nếu thật sự chúng ta có 4000 văn hiến, thì đáng lý ra phải có một nền văn hóa vững chắc, thế thì tại sao chỉ trong vòng có 60 năm văn hóa lại có thể xuống cấp một cách thảm hại như hiện nay. Có thể nói trong lịch sử thế giới chưa bao giờ chứng kiến có một dân tộc nào bị phá sản về đạo đức và văn hóa nhanh như dân tộc VN hiện nay.
2/ Nhiều người vẫn cho rằng chúng ta phải có niềm tự hào dân tộc cho dù chế độ CS đang cai trị đất nước. Chế độ chỉ là nhất thời còn dân tộc thì trường tồn mãi mãi, hơn nữa chế độ CSVN hiện nay không thể coi là những người đại diện cho đất nước.

Dù viện dẫn với bất cứ lý do gì thì chúng ta không thể phủ nhận trước cộng đồng thế giới - chính quyền hiện tại là những người đại diện chính thức của đất nước VN. Mặc dù biết rằng thành phần lãnh đạo hiện nay không phải được đa số toàn dân chấp nhận qua các cuộc bầu cử chính thức, nhưng khi VN không có những nhân vật đối lập được sự ủng hộ rộng rãi của toàn dân, được thế giới biết đến giống như Nelson Mandala hay bà Aung San Suu Kyi trước đây thì họ chỉ biết người đại diện của đất nước VN qua chính quyền hiện hữu.

Tội ác của CS đối với dân tộc trong 60 năm như thế nào, mọi người đều biết không cần phải nêu ra đây. Trong những tội ác đó, chúng ta là nạn nhân nhưng đồng thời cũng là thủ phạm. Đừng quên rằng tập đoàn đảng Cộng Sản hiện nay không thể nắm được chính quyền ở miền Bắc và chiếm được Miền Nam nếu không có sự tiếp tay, ủng hộ của người VN. Đừng đổ thừa ngoại bang càng thêm xấu hổ, chính chúng ta định đoạt số phận của chúng ta chớ không ai khác. Và nếu chúng ta không hèn thì đảng CS không thể duy trì được quyền lực cho đến ngày hôm nay. Cho nên trước khi kết án đảng CSVN “hèn với giặc ác với dân” thiết nghĩ cũng nên nhớ câu nói của nhà văn người Pháp Joseph de Maistre “Dân tộc nào thì chế độ đó” (Every country has the government it deserves). Chúng ta là thủ phạm đã góp phần làm hủy hoại đất nước và tự đưa chúng ta vào vòng nô lệ. Bây giờ phải biết sám hối thì mai ra đất nước mới có cơ hội hồi sinh.
Trong những thủ phạm đó dĩ nhiên có cả người viết - một người tị nạn CS. Bỏ nước ra đi từ căn bản đã là một sự đầu hàng. Ra đi để tìm một lối thoát cho cá nhân vì không có đủ cam đảm ở lại tranh đấu đòi quyền sống cho mình, chớ đừng nói tới dân tộc lớn lao.

Chính vì thế mà những gì người Cộng Sản làm nhục quốc thể trong 60 năm qua, cả trong nước lẫn ngoài nước, thì đó cũng là cái nhục chung dân tộc VN vì mỗi cá nhân chúng ta, dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp, đã góp phần dựng lên họ thì nay phải có cam đảm nhận trách nhiệm đó.

***
Đọc qua cuốn “Tôi tự hào là người Việt Nam” người viết cố gắng tìm một từ ngữ chính xác nhất để diễn tả cuốn sách này nhưng nghĩ hoài không ra, đành mượn câu thơ của cụ Tản Đà để nói hộ:“Dân 25 triệu, ai người lớn, nước 4000 năm vẫn trẻ con”.

Câu thơ này được làm vào đầu thập niên 30 mà như viết cho thời đại hôm nay.
Không biết tâm lý thích được khen và thích sử dụng những trò khôn vặt của người Việt phát xuất từ lúc nào, có lẽ từ thời xa xưa.

Dưới thời phong kiến, vì mang mặc cảm nhược tiểu, bị Tàu áp bức, mọi thứ đều bắt chước theo Tàu nhưng cũng không học và làm được đến nơi đến chốn, cho nên ta mới tưởng tượng ra nhân vật “lỗi lạc” Trạng Quỳnh để thỏa mãn lòng tự ái. Tài ứng khẩu và những tiểu xảo của Trạng ta đã làm cho quan sứ Tàu bái phục. Người Việt Nam lấy đó làm thích thú và xem như một niềm tự hào dân tộc.
Tâm lý vừa tự ti vừa tự tôn trở thành đặc thù văn hóa của người VN.
Điều bất hạnh cho dân tộc chúng ta là có những người đã hiểu rõ được tâm lý này và tận tình khai thác nó trong 60 năm qua. Bất hạnh hơn nữa là thay vì người VN phải học hỏi từ những kinh nghiệm đau thương để thay đổi số phận, họ vẫn tiếp tục tự nguyện làm nạn nhân cho những kẻ có mưu đồ chính trị.

Căn bệnh trầm kha của dân tộc VN hôm nay là căn bệnh tinh thần, căn bệnh ảo tưởng, căn bệnh của đứa trẻ mãi mãi không chịu trưởng thành làm người lớn.
Thân phận của người Việt Nam trong 60 năm qua là thân phận “Con ngựa già của Chúa Trịnh” của Phùng Cung. Sau bao năm chạy theo ảo tưởng cuối cùng trở thành một con ngựa già kiệt sức. Dù cả đời bị lường gạt, nhưng trước khi chết vẫn không thoát ra được ảo tưởng: “Trước hơi thở cuối cùng, nó lấy hết sức tàn, ngốc đầu lên cao, co co hai chân trước, thẳng thẳng hai chân sau, chừng như để cố giữ lấy cái thế “cao đầu phong vĩ”. (3).

***
Nếu như Lỗ Tấn được xem là người hiểu dân tộc Trung Hoa hơn ai hết, thì có thể nói người hiểu tâm lý người VN rõ nhất là Hồ Chí Minh. Sự khác biệt giữa Lỗ Tấn và Hồ Chí Minh là Lỗ Tấn mang hoài bão dùng kiến thức và ngòi bút của mình để mong chữa được căn bệnh tinh thần của người Trung Hoa, còn Hồ Chí Minh thì khai thác “căn bệnh tự hào” của người Việt để đạt mục đích chính trị và đưa dân tộc VN vào vòng nô lệ.

Mặc dầu cuốn “Tôi tự hào là người Việt Nam” là sản phẩm của một số trí thức, nhưng nó phản ảnh khá chính xác tâm lý của người Việt hôm nay. Lòng tự hào của người Việt Nam là căn bệnh thành tích quá phổ biến trong xã hội hiện nay, nó được dùng như một vật trang sức để che giấu những sự thật phũ phàng, là liều thuốc an thần đối với đại đa số giới nghèo khổ để quên những cơ cực, tủi nhục trong đời sống và chờ đợi một phép lạ xảy ra để thay đổi số phận.

***
Trái với mục đích của cuốn “Tôi tự hào là người Việt Nam”, cuốn phim “Chuyện Tử Tế”, nhà đạo diễn Trần Văn Thủy đã làm cách đây đúng 30 năm, trong đó ông cảnh báo mọi người về cái nguy hiểm của “căn bệnh tự hào”: “Trong suốt nhiều năm các học sinh Miền Bắc được dạy rằng: “Các em là những đứa trẻ hạnh phúc vì các em là con Hồng cháu Lạc, giang sơn gấm vóc, thiên nhiên ưu đãi, tài nguyên giàu có, tiền rừng bạc biển.” Cũng ở một lớp học như vậy ở nước Nhật thì người ta dạy con em của người ta rằng “Các bạn là những đứa trẻ bất hạnh. Bất hạnh vì bởi các sinh ra ở một đất nước hoàn toàn không có tài nguyên, không hề được thiên nhiên ưu đãi. Một đất nước đã từng thua cuộc trong chiến tranh. 
Gương mặt của đất nước này, tương lai của các bạn là trong tay các bạn”. Giá như một lần chúng ta dạy con em rằng: “Các em ạ, cái nhục của sự nghèo khổ cũng chẳng kém gì cái nhục của sự mất nước”. Đừng nghe những lời tâng bốc hão huyền vì bi kịch và hài kịch thường xảy ra ở bất cứ đâu khi giữa cuộc đời và thuyết giáo là một khoảng cách quá xa.” (4)

Ông Trần Văn Thủy nói 30 năm trước mà cứ tưởng như đang nói cho thời nay. Ông nói đúng quá, nhưng mấy ai lắng nghe. 30 năm trước VN nghèo. 30 sau năm VN vẫn nghèo. Vì không xem nghèo là nhục, cho nên mấy ai cố gắng để đổi đời. Ông khuyên “Đừng nghe những lời tâng bốc hão huyền” cũng chẳng thấy có tác dụng, bằng chứng là sẽ nhiều cuốn sách “tâng bốc hão huyền” sẽ ra đời để đáp ứng nhu cầu của quần chúng.

Cái đau đớn nhất của dân tộc chúng ta là dù có quyết tâm, yêu thương đất nước đến đâu thì những con người như Phan Chu Trinh vẫn thất bại, trong lúc đó những con người như Hồ Chí Minh lại thành công – tất cả chỉ vì một lý do giản dị: đối với người Việt Nam những lời tâng bốc dù giả dối đến đâu vẫn có sức hấp dẫn hơn những lời chân thật. Chính quyền CS duy trì được quyền lực cho đến hôm nay là vì học được từ Hồ Chí Minh bí quyết giản dị này.

***
Nếu như lòng tự hào dân tộc được sử dụng một cách bừa bãi tại VN, thì thế giới Tây Phương rất thận trọng khi nói về điều này.

Thế giới hiện nay đang phải đương đầu với 3 hiểm họa: Nga, Tàu và các tổ chức Hồi Giáo cực đoan. Hai nước Nga Tàu đang có tham vọng phục hưng thời oanh liệt trong quá khứ bằng cách khơi dậy lòng tự hào dân tộc.

Rút kinh nghiệm từ những nguyên nhân đưa đến cuộc Đệ Nhị Thế Chiến, các nước văn minh Tây Phương rất dè dặt khi nói đến niềm tự hào dân tộc, hơn ai hết họ hiểu rằng từ niềm tự hào dân tộc đến tinh thần quốc gia cực đoan chỉ là một khoảng cách rất ngắn. Chế độ Phát xít Đức, Ý, Nhật lên nắm quyền vào đầu thập niên 30 của thế kỷ trước và sau đó người dân sẵn sàng xông pha vào lửa đạn vì bị kích thích bởi lòng tự hào dân tộc. Phát xít Ý tự hào là con cháu của những người đã dựng lên nền văn minh rực rỡ đã thống trị thế giới trong 500 năm, Hitler cho rằng người Đức thuộc chủng tộc thượng đẳng Aryan và người Nhật tự hào là con cháu của Thần Dương Thái Nữ. Cả hai dân tộc Đức và Nhật đều tự cho mình được sinh ra để mang sứ mạng khai hóa nhân loại. Chủ nghĩa Cộng Sản lúc đầu chủ trương đạt đến thế giới đại đồng qua các phong trào Quốc Tế Cộng Sản, nhưng sau những kết quả không mấy khả quan, Stalin đã nhận ra rằng đối với các nước nhược tiểu lạc hậu, chủ nghĩa Cộng Sản phải được che đậy bằng chủ nghĩa dân tộc. Kết quả chứng minh là quyết định của ông đúng.
Không phải tình cờ mà ba nước Nga, Trung Hoa và Việt Nam theo Cộng Sản. Ba dân tộc này có nhiều đặc tính giống nhau: vừa tự ti vừa tự tôn và mang não trạng của một dân tộc lạc hậu.

Sau khi đánh bại Đế Quốc Thụy Điển vào năm 1721, nước Nga đã trở thành cường quốc lớn nhất Âu Châu, biên giới trải dài từ Âu sang Á và tiết tục được mở rộng sau đó, thế nhưng trong suốt nhiều thế kỷ người Nga luôn luôn bị các dân tộc khác ở Âu Châu xem là một dân tộc lạc hậu. Khi trở thành Đế Quốc lớn nhất thế giới lại bị bại trận trước một nước Nhật nhỏ bé – lần đầu tiên một nước Âu Châu bị đánh bại bởi một nước Á Châu. Đối với người Nga đây là cái nhục không thể quên.

Thời huy hoàng được lập lại khi Liên Bang Sô Viết đạt đến tột đỉnh về sức mạnh vào thập 60, 70 tưởng chừng như không lâu nữa sẽ thống trị cả thế giới, thế nhưng đế quốc này một lần nữa bị tan rã trong một thời gian rất ngắn.
Ngày nay nước Nga tuy lớn về diện tích nhưng là một một nước nghèo về kinh tế.

Chính những yếu tố thăng trầm của lịch sử đã góp phần tạo nên một tâm lý người Nga vừa tự tôn vừa tự ti và luôn luôn mang một mối thù hận đối với thế giới bên ngoài.

Nhà văn người Nga Natalja Kljutcharjova, có nhận xét khá chính xác về tâm lý người Nga ngày nay trong bài viết “Bệnh tự hào dân tộc của người Nga” (5), đọc qua sẽ thấy nó khá giống với người VN. Trong đó có một đoạn bà viết:
“Họ giống các nhân vật của Dostoevsky, ông gọi họ là “những kẻ ở xó hầm”. Đó là những con người sống rất lâu, thường là suốt đời, trong trạng thái bị hạ nhục, khiến tâm lí họ hoàn toàn bị méo mó. Cả cuộc đời họ, toàn bộ những ước mơ và nguyện vọng của họ chỉ rút gọn vào một mục tiêu: trả thù, rửa nhục. Nỗi khao khát trả thù bệnh hoạn ấy phần lớn không nhằm cụ thể vào những kẻ nào đó đã làm nhục họ, mà chĩa vào toàn thế giới. Dostoevsky đã miêu tả nhiều giai đoạn phát triển của căn bệnh mà giới tâm lí học hiện đại chắc sẽ gọi là một “chấn thương bỏ ngỏ” này. Nó đặc biệt ăn sâu ở những người không bao giờ ra khỏi trạng thái bị hạ nhục.

Ở Nga ngày nay cũng hệt như ở thời Dostoevsky, cả cuộc đời người ta thường là sự hạ nhục: từ khi sinh ra trong một bệnh viện bình dân (một chi nhánh thực thụ của địa ngục) đến lúc say xỉn ở góc đường mà chết. Những con người sống một cuộc đời như thế thường hình thành một lòng tự hào bệnh hoạn. Để phục hồi sự cân bằng nội tâm vốn liên tục bị những hoàn cảnh ê chề bên ngoài tàn phá, muốn sống còn thì họ buộc phải có một điều gì đó để tự hào.

Cơ sở để tự hào có thể hoàn toàn ngớ ngẩn và viễn vông, nhiều khi đơn giản là bịa đặt và hầu như bao giờ cũng phi lí, khiến người có tư duy bình thường, lành mạnh phải bật cười hoặc nhún vai cho qua. Nhưng những kẻ bị hạ nhục kinh niên thì bám chặt lấy những ảo ảnh ấy, đầy đức tin, cuồng tín, nhiệt thành và trong thâm tâm càng bất mãn thì càng hăng say phụng sự chúng”.
Tổng thống Putin là người hiểu rõ tâm lý người Nga, cho nên nếu theo dõi thông tin chúng ta sẽ thấy ông không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để khai khác yếu tố tự hào dân tộc những lúc cần thiết.

Trong bài diễn văn đọc tại Quốc Hội Nga ngày 18/3/2014, ông Putin biện minh cho hành động xâm chiếm Crimea bằng cách đã khơi dậy lòng tự hào của dân tộc Nga: “Tất cả những gì tại Crimea đều là niềm tự hào và là lịch sử chung của chúng ta. Ở nơi này có dấu tích của Khersones cổ đại, ở đây Quận Vương Vladimir đã được làm lễ rửa tội. Tinh thần Chính Thống Giáo của Người đã xây dựng ra các nền tảng cho văn hóa cũng như những giá trị nhân bản, văn minh để liên kết nhân dân Nga, Ukraine và Belarus. Cũng tại Crimea này còn có bia mộ của những người lính Nga mà vào năm 1783 lòng dũng cảm của họ đã đưa Crimea vào với Đế quốc Nga. Crimea cũng có Sevastopol – một thành phố huyền thoại, thành phố của lịch sử chói lọi, cũng là một pháo đài, và chính là quê hương để sinh ra Hạm đội Hắc Hải của nước Nga. Crimea là Balaklava và Kerch, Malakhov Kurgan và Sapun Ridge. Mỗi cái tên đó đều rất thiêng liêng trong lòng dân tộc, là biểu tượng của lòng dũng cảm và vinh quang của quân đội Nga”. (6)

Chính vì biết khai thác yếu tố “tự hào dân tộc” cho nên mặc dầu kinh tế nước Nga đang xuống dốc thê thảm, quyền tự do con người bị giới hạn, thành phần đối lập bị bỏ tù hay bị thủ tiêu, nhưng tổng thống Putin vẫn được đa số người dân ủng hộ.
Trong lúc đó ở phương Đông, con sư tử Châu Á đang gầm thét: “Sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa là giấc mơ lớn nhất của Trung Quốc”(7).

“Giấc mơ Trung Quốc” dù theo quan điểm của Đại Tá Lưu Minh Phúc hay của Chủ Tịch Tập Cập Bình đều bắt đầu bằng cách khơi dậy niềm tự hào của dân tộc Trung Quốc qua tinh thần Đại Hán, một đất nước từng có nền văn minh rực rỡ và nền kinh tế mạnh nhất thế giới vào đầu thế kỷ 14.

“Giấc mơ Trung Quốc” theo quan điểm của Tập Cẩn Bình và Lưu Minh Phúc, không phải chỉ giới hạn trong phạm vi kinh tế mà bao gồm cả sức mạnh quân sự.
Đại tá-giáo sư Đại học Quốc phòng Lưu Minh Phúc, tác giả cuốn sách “Giấc mơ Trung Quốc” đã nói rõ: Trung Quốc có 3 chiến lược để thực hiện trong thế kỷ 21, chiến lược đầu tiên là “Trung Quốc phải thay Mỹ lãnh đạo thế giới” (8).

Tập Cập Bình thì khéo léo hơn trong cương vị của ông khi nói đến “Giấc mơ Trung Quốc”:

“Cội nguồn lịch sử của chúng ta vô cùng sâu sắc, những cơ sở thực tiễn vô cùng rộng lớn. Nhân dân Trung Quốc có được truyền thống thông minh sáng tạo phi thường, chính vì vậy, nhân dân đã xây dựng lên một nền văn hóa Trung Hoa vĩ đại. Chúng ta cần tự tin vào bản thân và tràn đầy lòng dũng cảm tiến về phía trước theo con đường đã chọn. Giấc mơ Trung Hoa - giấc mơ của nhân dân. Cần phát triển rộng rãi tinh thần Trung hoa, cơ sở căn bản của tinh thần Trung Hoa là lòng yêu nước, một khi đã đoàn kết lại thành một khối vững chắc, chúng ta sẽ thực hiện được giấc mơ Trung Hoa”. (9)
So với lịch sử của nước Nga thì lịch sử của Trung Quốc khắc nghiệt hơn nhiều. Nếu như có lúc họ đạt đến tột đỉnh của vinh quang thì cũng có lúc họ bị đạp xuống tận cùng của sự nhục nhã. Sau khi bị đánh bại trong cuộc Chiến Tranh Nha Phiến, Nhà Thanh phải ký hiệp ước Nam Kinh (1842) với những điều kiện cay đắng, và sau đó bị các liệt cường Tây Phương đua nhau xâu xé. Tiếp theo đó là bị nước Nhật nhỏ bé hơn đánh bại dễ dàng, rồi phải chứng kiến cảnh cảnh thảm sát kinh hoàng tại Nam Kinh vào năm 1937.

Tất cả những nhục nhã đó và những tấm bảng treo ở bãi biển Thượng Hải sau cuộc chiến tranh Nha Phiến “Nơi đây cấm chó và người Tàu”, đã làm cho tâm lý người Trung Quốc phức tạp hơn nhiều dân tộc khác – họ vừa tự tôn về nền văn minh trong quá khứ, vừa tự ti vì bị nước khác làm nhục. Họ vừa cần đến Tây Phương, Nhật Bản để làm giàu nhưng đồng thời cũng mang một mối căm thù chờ ngày phục hận.

Muốn làm được làm đó, trước hết họ phải khơi dậy “niềm tự hào dân tộc” giống như Hitler đã làm gần một thế kỷ trước. Và nếu như Trung Quốc thực hiện được giấc mơ “thay Mỹ lãnh đạo thế giới” thì thế giới này, đặc biệt là Việt Nam sẽ khốn khổ vì con sư tử Phương Đông.

II. Những điều tự hào không đúng sự thật

Người viết chỉ nêu một số điều tự hào không đúng trong cuốn “Tôi tự hào người Việt Nam” (TTHLNVN) có thể kiểm chứng được. Ngoài ra có những tự hào - khó có thể nói đúng sai như “Người Việt rất thông minh, yêu nước, anh hùng, cần cù, chịu khó, sáng tạo, nhân ái, lạc quan…” đó là cái nhận xét riêng của từng người và đúng hay sai tùy quan điểm của người đọc.

Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng là chủ biên, đồng thời cũng là tác giả chánh trong cuốn sách. Ông là người duy nhất có ba bài viết trong cuốn sách.

Ba bài này có điểm chung là Việt Nam được mô tả như một thiên đàng trên hành tinh này: đất nước được “thiên nhiên ưu đãi”, lịch sử oai hùng, con người thì “rất linh hoạt, thông minh”, có rất nhiều đức tính tốt, “mỗi người Việt là một bông hoa quý hiếm. Hoa người Việt hiếm nên rất quý”, và luôn lạc quan “vững tin vào ngày mai”.

Việt Nam đối với ông chỉ có tốt, không thấy ông nêu ra bất cứ một điểm nào không hay về đất nước và con người VN.

Trong phần tiểu sử tác giả cho biết ngoài bằng tiến sĩ, ông Nguyễn Mạnh Hùng còn là giáo sư đại học và giữ nhiều chức vụ quan trọng, đã từng có 15 năm du học ở nước ngoài và đã đặt chân đến 41 quốc gia. 

Đặc điểm khác trong các bài viết của ông chủ biên và một số tác giả, là đưa ra kết luận mà không đưa ra bằng chứng cụ thể để cho thấy mức độ đáng tin. 
Điều quan trọng đối với một cuốn sách là tác giả phải chứng tỏ cho người đọc thấy tính thuyết phục. Muốn như thế tác giả phải chứng tỏ khả năng lý luận. Nếu không có bằng chứng cụ thể thì phải lý luận như thế nào cho hợp lý. Đáng tiếc là cuốn sách này không thể hiện được tiêu chí đó.  
Và điểm cuối cùng là sự lương thiện của người viết. Dám trình bày quan điểm của mình cho dù điều đó đi ngược lại quan điểm của nhiều người là nhân cách của người trí thức, nhưng viết chỉ để phục vụ cho những mục đích mờ ám riêng tư hay mục đích của nhà cầm quyền thì chỉ xứng đáng là tư cách của một người viết mướn. 

Bài “Tôi tự hào là người Việt Nam” (tr.37-45) của ông Nguyễn Mạnh Hùng, là bài đầu tiên và cũng có thể xem là bài chánh yếu nhất của cuốn sách.

Bài viết liệt kê ra hơn 40 thứ để người VN tự hào, từ trống đồng, đến Bà Trưng, Bà Triệu, Nguyễn Huệ, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trải, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, nhà Lý, Nhà Trần, từ được thiên nhiên ưu đãi cho đến cho đến làn điệu dân ca, 8 di sản phi vật thể, áo dài, múa rối nước, Sử thi Tây Nguyên, văn hóa mừng thọ, một đất nước với 8000 lễ hội lớn nhỏ, từ người Việt Nam rất thông minh, cho đến những thiên tài góp mặt trên nhiều lãnh vực, từ người đã phát minh ra máy AMT là Tiến sĩ Đỗ Đức Cường cho đến Thiền Sư Nhất Hạnh,  thầy Huyền Diệu, và khoảng vài chục thứ tự hào khác. 

Bài thứ hai “Tự hào về Việt Nam theo những cách riêng” (tr.153-163) viết về câu chuyện ba người Việt “Chuyện anh Tân”, “Chuyện thầy Liễn”  “Chuyện trò Phi”.
Bài thứ ba “Người Việt Nam và lý thuyết cây tre” (tr.343-349) nêu ra khoảng 20 đức tính tốt của người Việt: “Người Việt giản dị, mềm mỏng, tiết kiệm, thông minh, linh hoạt, khéo léo, luôn biết hiên ngang ngẩng cao đầu, vững tin vào ngày mai...v.v..” Và đặc biệt là “Mỗi người Việt là một bông hoa quý hiếm. Hoa người Việt hiếm nên rất quý”.

Dưới đây là những điều tự hào mà người viết nghĩ là không đúng sự thật:  
1/ “Tôi tự hào rằng, người phát minh ra máy ATM là một công dân Việt Nam.” (tr.44)

Điều “tự hào” này có thể ông Nguyễn Mạnh Hùng dựa vào một số website trong nước – chẳng hạn như trang web của tờ Lao Động, có bài “Những điều ít biết về người gốc Việt phát minh ra máy ATM” (10) cho rằng tiến sĩ Đỗ Đức Cường là người đã phát minh ra máy ATM trong lúc làm việc cho City Bank (Mỹ). Tuy nhiên không có trang web nào trong nước đưa ra bằng chứng cụ thể, tất cả điều viết na ná giống nhau, một cách mông lung mơ hồ.

Muốn biết ai là người đã phát minh ra máy rút tiền ATM, chỉ cần vào “Wikipedia” phần “History of ATM” (11) sẽ có đầy đủ chi tiết. Xin tóm tắt phần viết về người phát minh: “Máy ATM đầu tiên được sử dụng bởi ngân hàng Barclays Banks tại phố Enfield, phía bắc London, Anh Quốc vào ngày 27/6/1967, đây là máy rút tiền đầu tiên trên thế giới và người đầu tiên sử dụng là diễn viên hề Reg Varney. Người phát minh ra máy này là John Shepherd-Baron của công ty in ấn De La Rue, ông được trao giải thưởng OBE [Order of the British Empire] - Danh Dự của năm 2005. Nguyên văn: The first of these [ATM] that was put into use was by Barclays Bank in Enfield Town in north London, United Kingdom,[9] on 27 June 1967. This machine was the first in the world and was used by English comedy actor Reg Varney. This instance of the invention is credited to John Shepherd-Barron of printing firm De La Rue,[10] who was awarded an OBE in the 2005 New Year Honours.[11]  )

Trong trang web này hoàn toàn không có nhắc đến tiến sĩ Đỗ Đức Cường.

Trên “Wikipedia” tiếng Việt (12), chỉ giới thiệu về Tiến sĩ Đỗ Đức Cường như sau: “Tiến sĩ Đỗ Đức Cường là một chuyên viên cao cấp ngành Ngân hàng ở Hoa Kỳ, ông còn được biết đến như một chuyên viên thông thạo trong nhiều lĩnh vực[1][2][3][4][5]. Ông cũng là Đại sứ thiện chí của Liên Hiệp Quốc[cần dẫn nguồn][6] (tổ chức nào?) và là cố vấn cao cấp ngành Ngân hàng tại Việt Nam[7].”

Sau đó cho biết ông sinh tại Đức Phổ, Quảng Ngãi năm 1945, du học tại Nhật năm 1963. Trong phần “Đánh giá” có câu: “Tiến sĩ Đỗ Đức Cường đã đóng góp 38 phát minh của riêng ông. Trong đó có sáng kiến sửa đổi kiểu dáng bên ngoài hệ thống ATM được cấp phép năm 1997 mang số hiệu D386883.[9]”_Báo Pháp Luật và Xã Hội[5].

Bên cạnh đó, nếu để ý yếu tố thời gian chúng ta sẽ thấy ông Đỗ Đức Cường không thể là người phát minh ra máy ATM được: theo báo chí trong nước đưa tin - ông Đỗ Đức Cường bắt đầu làm việc cho City Bank năm 1977, như vậy thời điểm sớm nhất để ông phát minh ra máy ATM là năm 1977. Vào thời điểm này các nước tân tiến Tây Phương đã sử dụng máy ATM lâu rồi. 

Có lẽ đúng như báo Pháp Luận và Xã Hội, ông chỉ “có sáng kiến sửa đổi kiểu dáng bên ngoài hệ thống ATM”.

Sửa đổi kiểu dáng bên ngoài và phát minh là hai điều hoàn toàn khác nhau, ông tiến sĩ ạ!

2/ “Tôi tự hào khi trong danh sách 10 vị tướng xuất sắc nhất lịch sử nhân loại thì có đến hai người con đất Việt ta là Trần Hưng Đạo và Võ Nguyên Giáp. Liệu có một dân tộc thứ hai nào trên thế giới này có thể sản sinh ra 20% những vị tướng kiệt xuất nhất.” (tr.40)

Đây là niềm tự hào lớn của người Việt trong nhiều năm qua và nay chủ biên Nguyễn Mạnh Hùng nêu lại.

Cá nhân người viết đã từng đã bỏ ra nhiều thời gian để kiểm chứng nguồn tin trên các trang web tiếng Anh nhưng không tìm ra được bằng chứng. 

Trong bài “Khen quá lố, không nên!”(13) của tác giả Bùi Tín đăng trên VOA ngày 13/3/2010 đã xác nhận nguồn tin này như sau:

“…Ban biên tập báo Quân đội Nhân dân đưa tin: “Năm 1992, Hội đồng Khoa học Hoàng gia Anh vinh danh 10 nhân vật quân sự lỗi lạc nhất mọi thời đại, trong đó có 2 vị tướng kiệt xuất của Việt Nam: Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Đại tướng Võ Nguyên Giáp”. 

Năm 1994 và 1996 tôi sang London theo lời mời của nhà xuất bản HURST. Bà Judie Stowe trưởng ban Việt ngữ hãng BBC đưa tôi đến thăm Viện nghiên cứu Viễn Đông và Thư viện Hoàng gia. Tôi cố tìm xem có một tin nào về Hội đồng khoa học Hoàng gia Anh “bàn và bầu ra 10 nhân vật quân sự lỗi lạc nhất mọi thời đại” hay không, thì đều được trả lời là không! Vậy thì đó chỉ là chuyện tưởng tượng, phao tin, bịa đặt, kẻ tung người hứng trên đất ta. 
Tôi đã hỏi nhà báo Đỗ Văn, nguyên quyền trưởng ban Việt ngữ của hãng BBC, London, anh trả lời: “Tôi xác định không hề có việc vinh danh như vậy; đó là một tin hoàn toàn vô căn cứ”

Thế là mọi sự đều rõ. Tôi để công tra cứu trên mạng Google và mạng Wikipedia – bách khoa toàn thư mở cho toàn thế giới – cũng không có chuyện bình chọn quốc tế này.”. 

Một tài liệu khác mà người viết tìm được trên net có thể giúp làm sáng tỏ thêm vấn đề này: “Bàn về 10 vị tướng vỹ đại nhất của mọi thời đại” trích từ Lichsuvn.info/.(14)

Sau sau tìm hiểu tất cả thông tin, từ phía VN lẫn Anh Quốc (các cơ quan thẩm quyền ở Anh xác nhận với tác giả), bài viết kết luận như sau:

“Các thông tin trên từ các cơ quan có liên quan và có thẩm quyền từ nước Anh có thể góp phần giải đáp khá rõ ràng có hay không có việc tuyển chọn và trưng bày tượng Mười danh tướng thế giới.

Tuy nhiên các sách báo Việt Nam về việc này đều có nhắc đến từ điển bách khoa Anh (Encyclopedia Britannica) 1985 (EB). Chúng ta hãy đến với bộ sách này: ở đây dựa vào sự tra cứu khá công phu của Minh Hiền. Minh Hiền tham gia soạn thảo từ điển Bách khoa Việt Nam, xuất bản lần thứ 14 năm 1973 rất đồ sộ, gồm tới 30 volumes, nhưng đến năm 1983, hội đồng biên soạn EB điều chỉnh bổ sung để tái bản lần thứ 15 và lấy tên là The New Encyclopedia Britanica (TNEB). TNEB ra đời năm 1983 có bổ sung thêm những vị tướng soái kiệt xuất thế giới mà các lần xuất bản trước chưa có, trong đó có Trần Hưng Đạo và Võ Nguyên Giáp. Mục từ Trần Hưng Đạo có 38 giòng, 270 từ, đánh giá: “Hưng Đạo Vương một gương mặt hình như huyền thoại của lịch sử Việt Nam, nhà chiến lược quân sự xuất sắc đã đánh thắng quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn, và là người anh hùng dân tộc trong nền văn hoá của Việt Nam ngày nay...”. Mục tướng Võ Nguyên Giáp có 70 giòng, 490 từ, đánh giá: “Tướng Giáp nhà lãnh đạo chính trị, quân sự đã hoàn thiện chiến lược, chiến thuật của chiến tranh du kích và chiến tranh quy ước, lãnh đạo Việt Minh đánh thắng Pháp, chấm dứt nền thống trị thực dân ở Đông Nam Á, và sau đó đã đưa đến thắng lợi của Miền Bắc Việt Nam đánh thắng Mỹ”... Phải chăng việc Hội đồng biên soạn EB thẩm định lại bổ sung các từ mục về các danh tướng (Inilita** generals) trong đó có Trần Hưng Đạo và Võ Nguyên Giáp để xuất bản thành TNEB năm 1983 có ít nhiều liên quan đến “tin đồn” về “Mười danh tướng thế giới” và huyền thoại về hai danh tướng Việt Nam được thế giới tôn vinh. Người ta chú ý mấy chỗ trùng hợp: Tin nào cũng nêu Bách Khoa từ điển Anh, thời gian xuất hiện 1983 - 1984, tên tuổi hai danh nhân Việt Nam và sự nhìn nhận của thế giới.”.

Người viết đã kiểm chứng lại trên Encyclopedia Britanica sau 1983, và đúng như tác giả trên đã viết.

Như vậy mọi chuyện đã sáng tỏ, Encyclopedia Britannica chỉ bổ túc thêm một số vị tướng, nhưng một số người trong nước đã tô vẽ thêm. 

 3/ “Người Việt Nam rất thông minh. Tôi đã học ở Nga, Úc, Mỹ, Pháp… hầu như ở đâu nhóm người Việt chúng ta cũng được điểm cao nhất, được đánh giá rất cao. Tôi chỉ nể phục các bạn cùng lớp người Do Thái, người Bắc Âu và người Đức. Hình như họ thông minh hơn mình.” (tr.38).

Chủ biên Nguyễn Mạnh Hùng có thể nói “Người Việt Nam rất thông minh”, đó là cái nhìn của tác giả, nhưng một khi có sự so sánh dân tộc này thông minh hơn dân tộc khác thì vấn đề trở nên khác, trong đó hàm chứa một một sự kỳ thị trí tuệ (intellectual racism). Đó là quan điểm không thể chấp nhận trong thế giới văn minh ngày nay. 

Sau khi đọc qua câu này tôi càng thêm nghi ngờ về sự tự hào thông minh của người Việt. Những gì mà tác giả phán quyết chỉ là những nhận xét hời hợt, không có kiểm chứng. Sự thông minh của một người đâu phải chỉ phản ảnh ở điểm ở trường, mà còn là sự suy nghĩ chính chắn về một vấn đề trước khi kết luận. 
Trong thế giới hội nhập ngày nay, đòi hỏi con người đối xử với nhau trong tinh thần hài hòa và bình đẳng.  Dựa vào đâu để cho rằng dân tộc Việt Nam thông minh hơn những dân tộc khác? Điều đó có thể tin được nếu VN là một quốc gia giàu, người Việt có nhiều phát minh đóng góp cho nhân loại. Nhưng ngay cả một dân tộc giàu và có nhiều đóng góp cho nền văn minh như người Mỹ cũng không cho mình thông minh hơn những dân tộc khác.  

Mặc dầu lợi tức bình quân của người Mỹ da trắng hiện tại cao gần gấp đôi người Mỹ đa đen (15), nhưng trong hằng trăm tài liệu nghiên cứu về sự thông minh của người da đen và người da trắng (đăng trên web), không có một tài liệu chính thức nào của chính phủ Hoa Kỳ hay của những học giả uyên bác, có tinh thần nhân bản dám kết luận rằng người Mỹ da trắng thông minh hơn người Mỹ da đen, mục đích của những nghiên cứu này chỉ để người Mỹ tìm cách rút ngắn lại khoảng cách về lợi tức và cơ hội giữa hai sắc dân.

Sự thông minh giữa dân tộc này với dân tộc khác hay sắc dân này với sắc dân khác tùy thuộc vào những yếu tố như văn hóa, truyền thống, giáo dục, lịch sử, thói quen, cách thức ăn uống, điều kiện/thành kiến xã hội v.v. Nếu người Mỹ da đen có cùng những điều kiện như người Mỹ da trắng thì chưa chắc họ đã không thành đạt bằng. Sự thành công của tổng thống Obama là một thí dụ cụ thể.

Trong bài “Tự hào về lịch sử văn hóa Việt Nam” (tr.332-341), tác giả Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, sau khi phân tích triết lý “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” đã viết như sau: “Đây là tư tưởng Việt Nam rất vĩ đại. Hòa đồng bằng tình thương! Ý nghĩa chung một giàn rất sâu sắc. Đó là triết lý sống thực tiễn sâu xa không gì bằng, không đâu bằng. Trái đất này là một giàn chung, ngôi nhà chung… Chính vì vậy con người cần phải thương nhau cùng”.
Nếu người VN thật sự có “tư tưởng rất vĩ đại”: thương yêu đồng loại như anh em một nhà, vậy thì phải tôn trọng lẫn nhau, phải đặt tình nhân loại trên tình dân tộc, cớ sao lại tự cho mình thông minh hơn những dân tộc khác. 

Một sự mâu thuẫn khó hiểu!!!

4/ Tự hào về “Ngôi nhà Việt Nam” trong Hội Chợ Expo Thượng Hải 2010

Trong bài “Tự hào về Việt Nam theo những cách riêng” cũng của Chủ biên Nguyễn Mạnh Hùng. Mục “Chuyện anh Tân”, tác giả viết: “… Ấy vậy mà Việt Nam yêu quý của chúng ta lại trở thành một trong những “ngôi nhà” đứng đầu. Anh bạn Tân của tôi kể những câu chuyện đầy tự hào và xúc động. Tôi ngồi nghe như nuốt lấy từng lời. Anh khẳng định rằng người Việt Nam rất thông minh và có những lợi thế mà không có nước nào có thể sánh bằng.

Những con số biết nói: 8 triệu người tham quan “ngôi nhà” Việt Nam, trong khi “ngôi nhà” Mỹ chỉ thu hút được 7 triệu lượt khách tham quan. Về tài chánh, Việt Nam chúng ta chỉ có vỏn vẹn 3 triệu đô la, còn nước Mỹ đổ vào hơn 70 triệu”.
Người Việt rất tự hào khi hơn Mỹ, nhưng thật sự có đúng như vậy không?

Tôi bỏ nhiều thời gian tra khảo nhưng không tìm được bất cứ một thông tin nào nói về số lượng người viếng thăm gian hàng Việt Nam cao hơn Mỹ. Ban tổ chức Expo cho biết số lượng du khách ghé qua từng gian hàng nhưng chỉ ghi lại những gian hàng có số lượng khách thăm viếng cao. Trong trang web đáng tin nhất là Wikipedia, “Expo 2010 Pavillions” (17), trong phần viết về số lượng du khách đến thăm gian hàng Mỹ, ghi như sau: “As of August 31, 2010, the pavilion reported that attendance had surpassed 4.7 million and was averaging more than 41,000 people per day.[102] On September 30, 2010, the pavilion welcomed its 6 millionth visitor”. (Cho biết ngày 30/9/2010, số người đến thăm gian hàng Mỹ là 6 triệu).

Trong lúc đó về Gian hàng Việt Nam, tất cả chỉ vỏn vẹn có mấy hàng (không cho biết số lượng khách đến thăm gian hàng): 

• Within Zone A of the Expo Site.
• Theme: 1000-Year History of Hanoi.
• The facade of the 1,000-square-meter pavilion appears like a river and the bamboo surrounding it reduced the heat from the sun. The design highlighted Vietnamese culture. Visitors could learn about the country's profound history and culture as well as its wisdom in eco-protection and urban development.
Muốn biết Gian Hàng Việt Nam trong Hội Chợ Thượng Hải 2010 gây ấn tượng với du khách ngoại quốc như thế nào, xin đọc bài phóng sự ngắn dưới đây của BBC tiếng Việt “Ấn tượng người Việt, người Hoa ở Thượng Hải” (18) của ký giả Nguyễn Hùng tường thuật từ Hội Chợ Expo Thượng Hải năm 2010.
Hai du khách sau khi viếng nhiều gian hàng, đã đến thăm gian hàng Việt Nam và nhận xét như sau:

Gian hàng Việt Nam

“Cả một ngày hơn 12 giờ ở triển lãm, chúng tôi chứng kiến cảnh người Trung Quốc xếp hàng chờ xe buýt, chờ tới lượt vào các gian triển lãm, chờ tới lượt đứng vào vị trí đẹp để chụp ảnh.

Tất cả đều tỏ ra kiên nhẫn. Tôi nói đùa với Trương Vi ‘đây là bài học xếp hàng cho người Trung Quốc’. 

Thật đáng tiếc ấn tượng tồi nhất của tôi về EXPO lại diễn ra ở gian hàng của Việt Nam, một gian triển lãm khá sơ sài.

Khi nghĩ tới khẩu hiệu của triển lãm ‘Better City, Better Life’, tức ‘Thành phố Tốt hơn, Cuộc sống Tốt hơn’, gian của Việt Nam như được thiết kế cho một triển lãm khác. 

Nếu 1000 năm Thăng Long mà Việt Nam chỉ có vậy để đem khoe với bạn bè quốc tế thì thật là khó hiểu.

Khi tôi tiến lại hỏi chuyện một nhân viên tiếp tân người Việt, anh hỏi tôi: “Anh cần gì?”.

Tôi giới thiệu bản thân và nói muốn hỏi chuyện anh về ý đồ của triển lãm
Anh nói có một ‘chú’ phụ trách nhưng ‘chú’ đã về mất rồi và anh ‘không biết gì’ để trả lời.

Tôi không nói với anh nhưng nghĩ bụng ‘anh không biết gì thì sang đây làm gì’. 
Việt Nam cũng tranh thủ bán hàng thủ công mỹ nghệ và quầy bán hàng nằm ngay ở cửa ra vào. Tôi đi mấy gian triển lãm, kể cả của nước chủ nhà Trung Quốc, chẳng thấy nước nào bán hàng cả. 

Đúng là ‘năng nhặt chặt bị’, nhưng bán vài bức tranh, mấy cái lọ để tăm ở triển lãm quốc tế có vẻ hơi quê. 

Và trong khi tôi bị đối xử như công dân hạng hai trong gian của Việt Nam, người Trung Quốc chào đón tôi như VIP.

Một cô hướng dẫn viên ăn mặc lịch sự đứng chờ ở cổng vào, ấn nút mở cửa thang máy và sau khi chúng tôi vào hết lại ấn nút lên tầng trên.

Tôi đi tới đâu cũng có nhân viên giơ tay chỉ hướng đi tiếp và sẵn sàng giải đáp các câu hỏi.

Gian hàng của Trung Quốc có lẽ phải có tới vài chục nhân viên chỉ để hướng dẫn khách tham quan. 

Trung Quốc là nước lớn và nước chủ nhà nên họ hành xử như người lớn.
Nhưng chẳng lẽ Việt Nam có thể chấp nhận cách hành xử trẻ con chỉ vì mình là nước nhỏ?”. 

5/ Người Việt cao quý của A. Pazzi (tr.258-263)

Trong bài viết “Người Việt cao quý” của tác giả Hà Minh Hồng, là tiến sĩ Sử Học và được phong là Phó Giáo Sư, đại diện cho giới Sử học.

Mở đầu tác giả viết: “Nhớ có lần gặp trong tiệm sách cũ một cuốn sách mỏng của tác giả A.Pazzi, do Hồng Củc dịch, nhan đề Người Việt cao quý…”

Sau đó tác giả diễn tả những điều đáng tự hào của người Việt qua nhận xét của tác giả người Ý A.Pazzi.

Ngay sau 30/4/1975 mọi người đều biết A. Pazzi không phải là tác giả của cuốn “Người Việt cao quý”. 40 năm qua rồi, ông tiến sĩ sử, đại diện cho giới sử học, sao lại không biết chi tiết này!!!.

Trong bài viết đăng trên báo Nhân Dân Nhà văn Vũ Hạnh: Người ẩn danh sôi nổi” (19) đã viết:

“Không phải bây giờ, mà thời đó, hầu như không ai biết, ông chính là tác giả ẩn sau những bút danh Cô Phương Thảo, Nguyên Phủ, ký dưới các bài báo bút chiến, tiểu luận phê bình; tung hoành trên các cuốn nhật báo, với truyện ngắn Bút máu, truyện dài Lửa rừng, tiểu thuyết Cô gái xà niêng, công trình lý luận “Đọc lại Truyện Kiều”... đặc biệt là tác phẩm “Người Việt cao quý” với bút danh A. Pazzi... 
27 năm sau, NXB Mũi Cà Mau mới tái bản tác phẩm “Người Việt cao quí” với đúng tên thật là nhà văn Vũ Hạnh”.

III. Có nên tự hào về “hồn thiêng sông núi, anh linh dân tộc”?

Ông Nguyễn Mạnh Hùng viết: “Người Việt rất may mắn, rất tuyệt vời. May mắn và tuyệt vời đến mức khó tin. Cá nhân tôi và rất nhiều bạn bè của mình cũng thấy vậy. Dù đi học hay đi du lịch, dù đi công tác hay đi làm ăn, ở đâu cũng thấy có hồn thiêng sông núi, có các anh linh dân tộc phù hộ. Mỗi lần khó khăn, tôi chỉ cần nghĩ đến và cầu nguyện tổ tiên đất Việt là y như rằng mọi khó khăn đều qua và mọi chuyện trở nên tốt đẹp. Nhiều bạn bè và học trò cũng nghe tôi hướng dẫn và rất thành công. Có vài bạn chưa đạt được như ý. Tôi nghĩ, đó là do chưa thật sự thành tâm.” (tr.38)

Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng đi từ những tự hào mơ hồ lãng mạn sang niềm tự hào không thể chứng minh. “Hồn thiêng sông núi, anh linh dân tộc” thuộc lãnh vực “tâm linh, huyền bí” – đó là niềm tin của mỗi người, không thể nói là đúng hay sai, càng không thể xem là niềm tự hào dân tộc.

Mặc dầu vậy, tôi cũng xin có ý kiến: 

Từ câu “Dù đi học hay đi du lịch, dù đi công tác hay đi làm ăn” cho thấy ông và bạn bè của ông đều thuộc thành phần thượng lưu, nếu không là cán bộ thì cũng là đại gia, trí thức.

Nếu đúng như lời ông Hùng nói thì không có hàng triệu mảnh đời khốn khổ trên đất nước VN như hôm nay.

Mỗi ngày trên đất nước đang có hằng trăm ngàn người đang cầu nguyện “hồn thiêng sông núi, anh linh dân tộc” phù trợ cho họ thoát khỏi những cảnh đời bi đát. Đó là những “dân oan khiếu kiện” từ khắp miền đất nước, những tù nhân lương tâm đang bị tra tấn, những bà mẹ lam lũ vẫn không kiếm đủ cho con ăn học, những cô dâu VN bị hành hạ ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, những cô gái nghèo phải “bán thân nuôi miệng” từ Singapore sang tận Ghana (16), những thanh niên thiếu nữ Việt phải sống lậu làm chui từ Á sang Âu, những em bé tuổi còn ngây thơ bị bán qua Campuchia, và hàng ngàn cảnh đời thương tâm khác… 
Tiếng cầu nguyện của những người đang tuyệt vọng bao giờ cũng thành khẩn hơn những thành phần giàu sang phú quý. 

Nếu đúng như lời tiến sĩ Hùng nói thì “hồn thiêng sông núi, anh linh dân tộc” của đất nước VN thời nay chỉ phù trợ cho những thành phần có thế lực!!! 
IV. Nên tự hào hay nên xấu hổ trong những trường hợp này:

1/ “Tôi tự hào về những gì mà Việt Nam chúng ta đã và đang xuất khẩu: gạo, cà phê, chè, cao su, hạt tiêu, hải sản, rau quả...” (tr.45)

Nếu dân tộc VN thông minh như Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng nói thì đáng lý ra VN phải xuất cảng những sản phẩm trí tuệ như máy móc, đồ điện tử, robot, sắt, thép, hardware, software…v.v

Xuất khẩu gạo, cà phê, chè, cao su, hạt tiêu, hải sản, rau quả... không thể coi là niềm tự hào. Đúng hơn là phải xấu hổ. Sản phẩm nông nghiệp thì bất cứ dân tộc nào cũng có thể làm được và chẳng thâu về được nhiều ngoại tệ. Không có một quốc gia nào giàu nhờ xuất cảng nông nghiệp. Nông phẩm bán ra với giá rẻ, trong lúc đó phải nhập vào máy móc, đồ tiêu dùng, vật dụng kỹ thuật… với giá cao. 

Và không lẽ ông Nguyễn Mạnh Hùng không hiểu rõ hoàn cảnh của người nông dân VN hiện nay sao, báo chí trong nước đã nói rất nhiều. Chưa có thời đại nào người nông dân VN khổ như thời nay, khổ đủ mọi thứ: từ thiên tai, chính quyền cướp đất, chịu đủ thứ thuế cho đến bị các thương gia Việt Nam, Trung Quốc ép giá…

2/ Nuôi dưỡng hận thù cũng là niềm tự hào dân tộc?­

Trong bài “Việt Nam sẽ thắng mọi kẻ thù” (tr.109-117) do Văn Việt – Hải Hà phỏng vấn Thượng tướng CS Nguyễn Huy Hiệu, khi nhắc lại cuộc chiến vừa qua, ông Nguyễn Huy Hiệu nói: “Sinh thời, Người [Hồ Chí Minh] khẳng định: ‘Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ’… Khi đó, chúng tôi tiếp tục tích lũy lực lượng, chuẩn bị tổng tấn công, nổi dậy mùa xuân năm 1975 với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Trận Ban Mê Thuột, chúng tôi điểm vào đúng yếu huyệt của địch, để rồi giành thắng lợi lịch sử ngày 30/4/1975…”

Trong lúc đó, đối với những kẻ đang xâm chiếm lãnh thổ của VN thì cũng chính ông tướng này tuyên bố rất nhỏ nhẹ: “Mối quan hệ Việt Nam, Trung Quốc đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông gây dựng nên. Tôi cho rằng các thế hệ về sau phải biết tôn trọng, gìn giữ đúng tinh thần của hai nhà lãnh tụ.”
Tinh thần của hai lãnh tụ có lẽ là tinh thần mà nhà thơ Tố Hữu đã nêu ra: “Bên ni biên giới là mình, bên kia bên giới cũng tình quê hương.” “Bên ni” hay “bên kia” đều là quê hương, cho nên có tặng cho chút đất, chút biển, không phải là chuyện lớn để làm ầm ĩ!!!

Tiếp theo đó là bài “Yêu nước, yêu hòa bình, cần có hành động đúng đắn và phù hợp” (tr.119-125), để trả lời những câu hỏi liên quan đến việc giàn khoang Hải Dương 981 kéo đến hải phận Việt Nam, ông Lê Quốc Vinh (đại diện lãnh vực truyền thông) trả lời: “Cho nên có thể nói, với Việt Nam chiến tranh không được phép xảy ra và hòa bình là nỗi khát khao của tất cả mọi người.”

Với ngoại bang, dù đang xâm lấn lãnh thổ, vẫn hết sức nhỏ nhẹ: “phải biết tôn trọng, gìn giữ tinh thần của hai nhà lãnh tụ”, “chiến tranh không được phép xảy ra”, trong lúc đó với đồng bào của mình thì sẵn sàng hy sinh tất cả, chiến đấu tới người lính cuối cùng. 

Mặc dầu cuộc chiến đã chấm dứt từ 40 năm trước mà trong cuốn sách này vẫn bàng bạc nhắc đến “cuộc chiến chống Mỹ cứu nước” coi đó như một niềm tự hào dân tộc. 

Cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước” đó thực chất là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn do Miền Bắc chủ xướng và Miền Nam ở vào vị thế bắt buộc phải tự vệ. Nếu còn mang trong người dòng máu Việt Nam, làm sao có đủ cam đảm để tự hào khi có nhiều hàng triệu sinh mạng của hai miền đất nước đã nằm xuống và lòng người vẫn còn chia cách đến tận hôm nay. Phải xem đó như một nỗi nhục, một vết thương cần phải chữa lành, chớ sao lại là niềm hãnh diện. 

Tinh thần nhân ái mà tác giả Phạm Phú Ngọc Trai đề cao trong bài “Ấm Lòng Việt Nam” (tr.277-283) áp dụng ở đâu? với kẻ thù phương bắc nhưng không với đồng bào của mình chăng! 

Chưa đủ sao mà còn thêm “Một bài phỏng vấn Đại tướng Võ Nguyên Giáp với đường mòn Hồ Chí Minh” (tr.109-117), như khơi dậy thêm một vết thương khác của người Miền Nam. Thật sự “Đường mòn Hồ Chí Minh” là con đường đưa cả dân tộc về cõi chết.

Trong bài phỏng vấn này của ký giả Virginia Morris, tướng Giáp cho biết: “Tháng 5/1959 tôi ra lệnh mở đường mòn Hồ Chí Minh”, đoạn khác tướng Giáp nói: “Các kỹ sư của đường Trường Sơn rất khéo léo và chịu nhiều hy sinh. Trong đó có rất nhiều cô gái đang tuổi lớn. Họ đã hy sinh cả tuổi thanh xuân cho con đường. Và khi trở về họ đã không còn trẻ như cô nữa” (tr.132). 

Tướng Giáp kết luận bài phỏng vấn bằng cách cho ký giả Virginia biết tinh thần yêu nước của người Việt lúc đó: “Tôi tin rằng nếu lúc đó cô là một cô gái Việt Nam, cô sẽ lên đường đi Trường Sơn.”

Rất đúng, nhiều thế hệ ở Miền Bắc đã bị ru ngủ bởi những lời tuyên truyền quá hay của giới lãnh đạo như tướng Giáp - núp dưới chiêu bài “yêu nước”, “niềm tự hào dân tộc”, cho nên nhiều người trẻ sẵn sàng hy sinh theo tiếng gọi của Đảng.
Người Việt trong nước ngày nay quá tự hào về tướng Giáp “là một trong 10 vị tướng xuất sắc nhất trong lịch sử nhân loại” và đang tôn vinh ông như một vị thánh,  nhưng hình như không ai đặt câu hỏi này: Trong lúc có những cô gái “đã hy sinh cả tuổi thanh xuân cho con đường”, con số có thể lên đến hàng chục ngàn người và có hàng triệu thanh niên thanh nữ đã “sinh Bắc tử Nam”, thì con cái của tướng Giáp đã làm gì trong thời gian đó. 

Cả 5 người con của Giáp mặc dầu đã trưởng thành trong cuộc chiến vừa qua nhưng không người nào phải đi bộ đội: Võ Hồng Anh sinh năm 1939, du học ở Nga năm 1954. Võ Hòa Bình (SN1951) học đại học tổng hợp Hà Nội. Võ Hạnh Phúc (1952) du học ở Nga. Võ Điện Biên (1954) du học ở Nga, Võ Hồng Nam (1956) học Đại Học Bách Khoa, sau đó du học ở Hungary. (20) 

Tướng Giáp không xem điều đó là bất công! Và tệ hơn nữa là đại đa số người Việt coi đó là bình thường. Nó bình thường nếu như chúng ta thẳng thắn nhìn nhận rằng chúng ta là một dân tộc có nhiều điều dở cần phải học hỏi thế giới, nhưng nó không bình thường khi người Việt tự cho mình cao hơn những dân tộc khác trong khi không tuân thủ một giá trị căn bản nhất.

Đối thủ một thời của tướng Giáp trong cuộc chiến Đông Dương lần Thứ Nhất là Đại tướng Jean Lattre de Tassigny. Nhiều người Việt không coi tướng Tassigny xứng đáng là đối thủ của tướng Giáp, nhưng nhân cách của tướng Tassigny thì hơn xa tướng Giáp. 

Trong lúc tướng Tassigny đang là Tổng Tư Lệnh Quân Đội Pháp tại Đông Dương (6/12/1950 – 19/11/1951) thì người con duy nhất của ông là Trung Úy Bernard de Lattre de Tassigny tử trận tại Ninh Bình ngày 30/5/1951. Mặc dầu là một mất mát quá lớn nhưng tướng Tassigny vẫn coi đó là niềm hãnh diện. 

Đối với người Pháp, họ thương mến và nể phục ông nhưng họ chỉ xem ông như một vị tướng giương mẫu. Chuyện cha là tướng, con ra chiến trường là chuyện bình thường ở xứ Tây Phương, không có gì phải đề cao. Một xứ gọi là văn minh không giờ chấp nhận sự bất công dù dưới bất cứ hình thức nào.

Riêng với người VN, mặc dầu sự bất công quá rõ ràng như thế nhưng người ta không xem đó là quan trọng và vẫn tôn vinh tướng Giáp như một vị thánh, bởi vì dân tộc chúng ta là một dân tộc không coi trọng danh dự và sự công bằng.