Thursday, 26 March 2015

Thơ chủ đề: Tháng Ba và Tháng Tư Quốc Hận Như Thương


LGT: Nhà thơ Như Thương tên thật Phạm Kim Hương, con gái cựu Trung Tá Phạm Công Cẩn, nguyên Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng Chi Khu Buôn Hô, tỉnh Darlac. 
Niên trưởng Phạm Công Cẩn xuất thân Khoá 5 Trừ Bị Thủ Đức. Phu nhân ông đã qua đời năm 2001. Hiện ông sống tại Florida, Hoa Kỳ. 

Ảnh mới nhất: Niên trưởng Phạm Công Cẩn và Như Thương, đầu xuân Ất Mùi 2015.
Xin được nói thêm. Như Thương là người đã hạ cờ máu của Việt Cộng tại Florida Atlantic University và sau đó thay bằng cờ VNCH. (*)
Trước hết kính mời quý niên, huynh trưởng và quý độc giả đọc các bài thơ Tháng Ba (Ban Mê Thuột mất vào tay quân Cộng Sản Bắc Việt ngày 10 tháng 3 năm 1975), tiếp theo chúng tôi sẽ đăng tãi các bài thơ Tháng Tư.
Trân trọng,
Alfa Đặng Sơn Hà.
THÁNG BA QUỐC HẬN 
Như Thương
* * *
CÚI HÔN ĐẤT RỪNG
Em ơi rừng có còn xanh 
Núi còn đá thẳm lượn quanh với đời 
Đất ơi bụi đỏ đâu rồi 
Mà sao hoang phế một trời quạnh hiu 
Hoàng hôn suối nghẹn dòng chiều 
Thả trôi hoa dại, đá xiêu xiêu buồn 
Tìm đâu thác đổ thượng nguồn 
Ngàn năm tiếng vọng cúi hôn đất rừng 
Đường mòn độc đạo nửa chừng 
Thôi đành mất dấu em từng đi qua 
Quỳ vàng tìm mãi em à 
Đến phai vạt nắng, đến tà huy rơi 
Em đâu, em hỡi, em ơi... 
Rong rêu đã phủ chơi vơi tháng ngày 
Xưa em ngồi với trời mây  
Với chim, với gió - chốn này núi đôi 
Tháng Ba hoa trắng muộn rồi 
Tang em vội vã góc đồi cà phê 
Áo em trắng cõi Đi Về 
Hôn em, hôn cả Banmê mùi rừng
Như Thương. 
 
ĐOẠN TRƯỜNG MỘ KHÚC
Bốn mươi năm thịt xương giờ thành đất 
Tuổi tên anh đã hóa kiếp thiên đàng 
Bom chẳng còn vọng lại tiếng rền vang 
Thành quách cũ đã quên lời khóc ngất? 
Khuôn mặt anh, hỡi người em yêu dấu 
Em nhìn ra hộp sọ, mắt vô hồn 
Phút yêu em, tình chồng vợ tân hôn 
Vẫn thấp thoáng về trong em đau đáu 
Thẻ bài ơi, số quân người lính trận 
Đêm hỏa châu rực sáng bót đồn canh 
Phút vinh quang cờ bay lộng cửa thành 
Anh nằm xuống còn nghe lời vợ khấn 
Ngón tay anh ngày xưa bóp cò súng 
Sao giờ đây lại xương xẩu thế này 
Đôi giày Saut vinh hiển khắp trời mây 
Buồn mục rửa, chôn đất nâu ướt sũng 
Bi đông lính nằm gần anh rỉ sét 
Đâu chiến hào tưới giọt rượu xung phong 
Ê… Mầy ơi, viên đạn cuối lên nòng 
Là lần chót, Tao nghe mùi đạn khét 
Con dế nhỏ bên mộ anh rền rỉ 
Tiếng khuya về rừng rụng lá lao xao 
Chẳng tiếng em - tiếng gọi của ngọt ngào 
Con đã lớn, gọi tiếng ba chưa nhỉ? 
Bốn mươi năm em giữ niềm chung thủy 
Trong cô phòng tưởng mình trẻ như xưa 
Anh bây giờ tóc đã bạc hay chưa 
Trong mộ đất nhúm tóc xanh yên nghỉ 
Giờ em khóc tiễn hồn anh cát bụi 
Vấn khăn tang em cung mệnh một mình 
Em lạy anh, cúi lạy một chữ tình 
Trong hương khói tà dương chiều khuất núi
Như Thương 
(Viết cho những người vợ đi tìm mộ chồng là lính trận VNCH) 
 
MẢNH TANG LÒNG
Anh Linh, xương máu, núi sông 
Vẳng kèn Tử sĩ ngóng trông anh về  
Lắt lay sương phụ ngõ quê 
Lạy chồng xin giữ lời thề sắt son 
Anh ơi trống vắng đêm mòn 
Trăm năm biền biệt dẫu còn thương yêu 
Tìm anh giữa chốn xanh rêu 
Mới hay đứt đoạn gối thêu ân tình 
Con - Em giờ chỉ một mình 
Khăn tang hương khói phủ hình bóng anh 
Còn thân xác đổ bên thành 
Đất nâu vùi lấp vây quanh bạn bè 
Buông tay súng vẫn còn nghe 
"Mày ơi, sao vậy..." tao che đạn thù 
Hai người lính giữa thâm u 
Máu tràn thấm ngực nghìn thu tuôn dòng 
Quê hương một mảnh tang lòng 
Tháng Tư còn đấy một giòng đau thương 
Triệu khăn sô của đoạn trường 
Còn chăng oan khuất vấn vương chốn này
Như Thương. 
 
PHỐ NÚI BUỒN KHÔNG
Tháng Ba phố núi buồn không 
Hay đem giọt lệ thả dòng suối khô 
Lá rừng rụng xuống phủ mồ 
Giày Saut, áo trận điểm tô sơn hà 
Sao thầy cô bạn khóc òa 
Sân trường lặng lẽ tìm tà áo em 
Nghe trong đạn pháo nửa đêm 
Hoa Xuân vừa đến bên thềm tả tơi 
Hỗn mang một cõi đất trời 
Nước non biến loạn Ngày Mười Tháng Ba 
Khuya em lạc mẹ mất cha 
Sau lưng khói lửa nhạt nhòa tuổi thơ 
Bên đường bom đạn tình cờ 
Con ôm vú mẹ đâu ngờ tử sinh 
Ngày tàn một cuộc chiến chinh 
Sắc lan tím thẫm trăm nghìn thẳm sâu 
Địu con lên rẫy lệ sầu 
Suối rừng nghiêng ngả trong bầu hồ lô 
Núi ơi khóc vạn nấm mồ 
Sương mù trắng xóa khăn sô một đời 
Tháng Ba ai khóc cho người 
Khóc cho non nước một trời tang thương
Như Thương 
(Viết để nhớ ngày mất Ban Mê Thuột 10/3/75) 
 
PHỐ NÚI LÂM CHUNG
Con thấy Chúa đứng che tầm đạn pháo 
Thấy tay Người giang rộng cả màn đêm 
Thấy xác người phủ lên một màu máu 
Thấy thây ai nằm gục ngã bên thềm 
Thềm nhà Thánh đâu bình an ngự trị 
Đâu lời kinh ca tụng Chúa Chiên Lành 
Hồi chuông đổ loan tin mừng đâu nhỉ? 
Vợ tìm chồng,anh đâu hỡi...hỡi anh? 
Đêm tối quá làm sao tìm ba mẹ 
Lạc mất rồi trăm phương hướng bom rơi 
Cây ngả nghiêng, đổ bóng rừng đơn lẻ 
Em co mình khóc rưng rức mẹ ơi! 
Nghe đất rung mà lòng con kinh hãi 
Phút tối tăm hỏa ngục của Đêm-Ngày 
Xin chở che, con nép mình cỏ dại 
Tượng Chúa hiền sao bom đạn bủa vây 
Phố bụi đỏ khóc những ngày binh biến 
Muôn vì sao tắt lịm giữa trùng trùng 
Chuỗi Mân Côi con dâng lời cầu nguyện 
Xin đoái thương giờ phố núi lâm chung
Như Thương 
(Viết để nhớ Ban Mê Thuột, Tháng Ba) 
 
THÁNG BA,  
THÁNG TƯ BỤI ĐỎ
Giỗ em, tang trắng Tháng Ba 
Nắm xương tìm thấy… em à, Tháng Tư 
Điếng lòng ta một tiếng... ừ... 
Ngày em đi biệt chẳng từ giã nhau 
Chỉ như bụi đỏ thẫm màu 
Cuốn em đi mất, ngất sầu lòng ta 
Giấu trong gạch đổ phố xa 
Dấu chân em đã nhạt nhòa. Hoa rơi 
Tháng Ba bụi đỏ ngất trời 
Tìm em không thấy nửa đời nhớ em 
Nửa đời còn lại là đêm 
Không trăng sao chỉ chùng thêm cõi lòng 
Mơ em ở giữa mênh mông 
Giữa quỳ vàng rực bên sông dặm nghìn 
Khấn em hương khói tội tình 
Giấu trong góc nhớ riêng mình rưng rưng 
Ta van bụi đỏ xin đừng 
Đem em đi mất nửa lừng trời không
Như Thương. 
 
THÁNG BA,  
RỪNG THÔI TRỔ LÁ
Hỏi khuya phủ bóng trăng tà 
Rừng thôi trổ lá Tháng Ba bụi mờ 
Đạn bom cày nát tình cờ 
Vạt quỳ gục ngã khuất bờ tử sinh 
Lối mòn vẫn dạ chung tình 
Từ buôn làng cũ in hình dấu trăng 
Gùi khoai, gùi bắp, gùi măng 
Gùi bông bí nụ. Ngực căng suối mềm 
Gùi cành lan tím êm đềm 
Còn vương nhánh gãy… gùi đêm hoang tàn 
Em qua thác đổ trên ngàn 
Cạn khô nguồn nước trăng vàng bơ vơ 
Tiếng rừng thổn thức lặng chờ 
Đại ngàn réo gọi sương mờ âm vang 
Suối trong veo ở đâu Yàng 
Mạch tuôn nhuộm đỏ buôn làng Kosier 
....
Váy em trôi giạt xuân thì (*) 
Ta nghe rừng khóc, ôm ghì tiếc thương
Như Thương 
(*) Các cô gái Thượng mặc váy,  
chết xác trôi theo giòng suối.
(*)

Chỉ Còn Một Phút Trước Nửa Đêm - Trần Mộng Lâm

Cách đây ít lâu, theo dõi tin tức từ Việt Nam liên quan đến việc bảo vệ đất nước, người ta  nhận thấy có phong trào người dân muốn biết trong đó xuất hiện những nhân vật thuộc mọi thành phần, mọi lứa tuổi, đàn ông cũng như đàn bà, lần lượt xuất hiện với tấm bảng ghi những chữ viết : «Chúng tôi muốn biết» để hỏi nhà cầm quyền đương thời về việc có hay không có các điều ghi trong cái gọi là mật ước Hội Nghị Thành Đô.

Không hiểu đến ngày hôm nay, những người này có nhận được câu trả lời thoả đáng hay chưa, hình như chưa thì phải,nhưng không thấy xuất hiện những nhân vật khác kế tiếp. Tuy nhiên, câu chuyện này làm ta nhớ lại câu chuyện ngụ ngôn ngày xưa, khi cô bé quàng khăn đỏ hỏi con chó sói : Thế hàm răng của bà (vì cô vẫn tưởng con sói là bà của cô) dùng để làm gì ?? Thật tội nghiệp cho cô bé ngây thơ !!

Mật vụ CS bắt cóc blogger Đoan Trang

CTV Danlambao - Lúc 15:45’ chiều nay, 26/3/2015, lực lượng an ninh CSVN đã bất ngờ ập đến bắt cóc blogger Phạm Đoan Trang khi cô đang đi cùng gia đình tử tù Nguyễn Văn Chưởng đến gặp đại sứ quán Mỹ và Liên minh Châu Âu.

Blogger Trịnh Anh Tuấn (Gió Lang Thang) - người chứng kiến vụ việc cho biết, Đoan Trang bị 3 viên an ninh thường phục gồm 2 nam và 1 nữ xông đến vây bắt ngay trước Nhà hát Lớn, đầu đường Tràng Tiền (quận Hoàn Kiếm, Hà Nội). Ngay sau đó, bọn chúng ép nữ blogger này lên một chiếc xe biển số xanh của bộ côn an (biển kiểm soát 80B-2530) rồi đưa đi mất tích.

Đôi Mắt Của Trái Tim

Celine Dion có một bài hát “Because You Love Me”, lời ca viết rằng: "Nếu em không nhìn thấy, anh sẽ là mắt em, nếu em không thể nói, anh sẽ là tiếng em". Lời bài hát đã khiến tôi nhớ đến một đôi vợ chồng mù ở trong thôn của bà ngoại.

Đôi vợ chồng mù trong thôn bà ngoại tôi năm nay đã sắp sửa tám mươi tuổi, đã có một đàn con cháu.

Jukebox: 25 Best Songs From Classic Movies

In 2004, the American Film Institute held a survey to decide what the greatest cinema tunes of all time are. The top 100 songs that were selected included great artists such as Fred Astaire and Barbra Streisand. Here are our 25 favorite songs from the list, which will take you back to magical moments in cinematic history.

Phía sau một “Quốc Hội Tối Cao”

Nguyễn Phương Uyên - Sự tuyên truyền của cộng sản Việt Nam thật lợi hại, chính nhờ vậy mà nhiều khẩu hiệu đại loại như “Quốc hội đại diện cho dân” đã lan tỏa đến từng ngỏ ngách xã hội, nhưng điều đó có phải là thực sự? Rõ ràng nó chỉ là chiêu trò đánh lận câu từ quen thuộc trong vô số những trò “đánh lận con đen” khác của đảng cộng sản bày đặt ra mà thôi.

Hồ Tuấn Hùng - Tìm hiểu về cuộc đời Hồ Chí Minh

 photo Suthat-hcm_zps1b900a6a.png

Người dịch: Thái Văn

Lời người dịch
 
Hồ Chí Minh sinh bình khảo ” (Tim hiểu về cuộc đời Hồ Chi Minh) do
Giao sư Hồ Tuấn Hùng, một người đã tốt nghiệp khoa Lịch sử của Trường Đại Học
Quốc Lập Đài Loan dành nhiều cong sức nghiên cứu trong những năm qua, được Nhà
xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa ấn hành tại Đài Loan vào ngày 01/11/2008 (mã số
ISBN: 9789866820779).
Hồ Tuấn Hung sinh năm 1949 (có tài liệu noi la sinh năm 1948), tại Miêu Lật,
Đồng La, Đài Loan, là cháu ruột Hồ Tập Chương (ma ong khẳng định chinh là Chủ
tịch Hồ Chi Minh) từng dạy học hơn 30 năm, đồng thời ong còn là viên chức cao cấp
Giáo Dục Hanh Chinh. Theo Giao sư Hồ Tuấn Hùng, Hồ Chi Minh xuất than la người
thuộc sắc tộc Khach Gia (Hakka, người Việt gọi là Hẹ ) tại huyện Miêu Lật, địa khu
Đồng La, Đài Loan.

SUY NGHĨ VỀ MỘT BỨC HÍ HỌA

 
 
 
MẬT ƯỚC THÀNH ĐÔ
 
Tổ chức Wikileaks công bố một tài liệu “tuyệt mật” động trời liên quan đến Việt Nam. Đó là biên bản họp kín giữa ông Nguyễn Văn Linh Tổng BT Đảng CSVN, ông Đỗ Mười Chủ tịch HĐBT đại diện cho phía Việt nam và ông Giang Trạch Dân Tổng BT và ông Lý Bằng Thủ tướng Chính phủ đại diện cho phía Trung Quốc trong hai ngày 3-4/9/1990 tại Thành Đô.
Trong tài liệu tuyệt mật liên quan tới Việt Nam này của mình, Wikileaks khẳng định thông tin dưới đây nằm trong số 3.100 các bức điện đánh đi từ Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh của cơ quan ngoại giao Hoa Kỳ tại Việt nam gửi chính phủ Hoa Kỳ, tài liệu này có đoạn ghi rõ:

Trần Trung Đạo: Lý Quang Diệu và chính sách ngăn ngừa CS tại Singapore

Cựu Thủ tướng Cộng Hòa Singapore Lý Quang Diệu được đưa vào bệnh viện hôm 5 tháng 2 vì bịnh viêm phổi trầm trọng. Chỉ vài hôm sau, ông được chuyển qua hệ thống duy trì sự sống (life support). Theo nhiều nguồn tin, hai năm trước đây ông đã thêm vào di chúc một đoạn trong đó ông không muốn kéo dài sự sống vô nghĩa bằng cách này. Theo thông báo của chính phủ Singapore “ông qua đời trong thanh thản” tại Tổng Y Viện Singapore lúc 03:18 sáng, giờ địa phương thứ Hai 23/3/2015, thọ 91 tuổi. Lý Quang Diệu là Thủ tướng đầu tiên của Singapore và mất vào năm kỷ niệm 50 năm độc lập của quốc gia này. 

Các thành tựu kinh tế 

Về đối ngoại, hầu hết các chính trị gia thế giới từ Margaret Thatcher của Anh trước đây đến Barack Obama của Mỹ hiện nay đã từng ca ngợi Thủ tướng Lý Quang Diệu. Ông có một tầm nhìn rất xa không chỉ vào tương lai Singapore mà cả chính trị khu vực Á Châu và Thái Bình Dương. Từ đầu năm 1994, Lý Quang Diệu đã thấy trước sự căng thẳng trong vùng biển Đông. 

THOÁT KHỎI GỌNG KỀM - Trần Trung Chính

Cách nay khoảng 10 -15 năm,  ông Bùi Diễm – cựu Đại Sứ VNCH  tại Hoa Kỳ, có xuất bản quyển sách có tựa đề GỌNG KỀM LỊCH SỬ. Mặc dù chưa được đọc toàn thể quyển sách này, nhưng những gì mà tôi đã đọc thì không có mới lạ đối với tôi, một phần vì tôi  biết những biến cố mà ông Bùi Diễm kể trong quyển sách qua những tài liệu của tác giả khác, một phần vì tôi được nghe kể lại từ những vị đã hoạt động trong chính trường như Luật Sư Phạm Nam Sách – cựu Thượng Nghị Sĩ VNCH , như Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu – cựu dân biểu Chủ Tịch Ủy Ban Tư Pháp Định Chế Hạ Nghị Viện, như Luật Sư Nghiêm Xuân Hồng – thủ lĩnh Duy Dân Quốc Dân Đảng , nguyên Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng dưới thời Thủ Tướng Nguyễn Khánh… Theo sự nhận xét của tôi, ông Bùi Diễm được đào tạo và được huấn luyện thành chuyên gia chứ không được đào luyện để trở thành nhà lãnh đạo, cho nên tôi chọn tựa đề bài tiểu luận này là THOÁT KHỎI GỌNG KỀM, với ngụ ý là nếu biết các gọng kềm của các đại cường vây bủa quốc gia nhỏ bé là Việt Nam, thì nhà lãnh đạo đất nước phải tìm ra được phương cách thoát khỏi được các gọng kềm đó.

Ngày 25 tháng 3 năm 1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu của chúng ta viết một bức thư cầu viện đến Tổng Thống Gerald Ford và Quốc Hội Hoa Kỳ để có phương tiện chống trả cuộc xâm lăng của Cộng Quân Bắc Việt, nhưng không được đáp ứng. Trong bài viết này, tôi không nêu ra chi tiết bức thơ để cảm thương cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, cũng không trách móc Tổng Thống Ford hay Quốc Hội Hoa Kỳ (do Đảng Dân Chủ chiếm đa số), vì 40 năm qua rất nhiều người Việt Nam khác đã làm rồi.

THƯ GỬI BẠN TA của Bùi Bảo Trúc 27-3-2015

THƯ GỬI BẠN TA của Bùi Bảo Trúc

Các bài viết hàng tuần của Nhà Báo Bùi Bảo Trúc trong mục Thư Gửi Bạn Ta

NHỮNG CON RUỒI ĐỎ VÔ THỪA NHẬN

Khi Vương ông gặp nạn, buổi sáng trong căn nhà của ông bỗng đầy một bọn nách thước tay đao, đầu trâu mặt ngựa, những tên sai nha mà Nguyễn Du gọi là đám “ruồi xanh” vo ve kéo đến giở đủ mọi trò khốn nạn ra với cái gia đình tự nhiên mắc phải ách giữa đường khởi đầu cho những oan khiên kéo dài suốt mười lăm năm cho người con gái tài sắc họ Vương.

Những con ruồi xanh mà tác giả truyện Kiều dùng để tả bọn nặc nô chắc là những con ruồi trâu hay những con nhặng có lẽ chúng làm phiền người ta nhiều hơn là gây ra được những thảm họa kinh hoàng như những thứ ôn hoàng dịch lệ khác. Nhưng phiền nhiễu thì chúng có tạo ra rất nhiều thật.

Bọn ruồi bọ ấy hôm 14 tháng 3 vừa qua lại thấy xuất hiện ở khu tượng đài Lý Thái Tổ ở Hà Nội tại một buổi dâng hương đặt vòng hoa tưởng niệm 64 binh sĩ hải quân bị Tầu Cộng thảm sát ở Gạc Ma năm 1988. Khi những người tham dự lễ tưởng niệm tiến lên đặt những bó hoa trên những bậc thang dẫn lên tượng đài Lý Thái Tổ thì bọn ruồi nhặng ào tới đứng len vào giữa những người đặt vòng hoa và tượng đài vị vua khai sáng ra nhà Lý. Những con nhặng này trương ra những lá cờ búa liềm che lấp hẳn pho tượng vua Lý và những vòng tay cung kính niệm hương cho các chiến sĩ hải quân anh hùng bỗng nhiên trở thành hành động cung kính dành cho lá cờ búa liềm. Những con ruồi này mặc trên người những chiếc áo đỏ với ngôi sao vàng  rất mới. Những lá cờ búa liềm cũng rất mới được ủi phẳng phiu rõ ràng là được mang theo sẵn sàng cho trò phá thối của chúng.


Bọn ruồi toàn là những đứa còn rất trẻ, khoảng ngoài hai mươi, một vài đứa mặt mũi cũng sáng sủa. Những đứa khác thì có cái nét hung ác lạ lùng. Người ta gọi bọn chúng là những dư luận viên, những danh từ  có thể mang những ý nghĩa tốt đẹp thực ra chỉ được  dùng để  gọi cái thứ côn quang mà nhà cầm quyền dùng để đàn áp, khống chế những tiếng nói chống lại chính phủ. Thí dụ tên du côn bịt miệng cha Lý tại tòa án năm nào. Hay bọn mất dậy ném phân và rác rưởi vào nhà Trần Khải Thanh Thủy, văng tục vào mặt thân nhân blogger Điếu Cày trước pháp đình Sài Gòn…