Tưởng nhớ Giáo Sư Đỗ Khắc Thị Nhuận Trưởng Khoa Ký Sinh Trùng Đại Học Y Khoa Sàigòn Việt Nam Cộng Hòa
Trong đại gia đình “trực hệ Y Nha74” sự ra đi của hai người đã thực sự để lại trong lòng tôi một nỗi buồn sâu đậm. Đó là sự ra đi của cha Chung, và hôm qua đây là của cô Nhuận.
1.Khi còn học dưới mái trường Y Khoa, tôi không gần gũi cô Nhuận nhiều. Giờ cours của Cô trong giảng đường đã không mấy gì hấp dẫn với mấy loại ký sinh trùng, thì giờ TP còn đau khổ hơn! Bước vào phòng TP thì phải tề chỉnh, phải xoè bàn tay 10 ngón xem có “hấp tẩy” ngắn gọn sạch sẽ không? Thật tình mà nói thì trong đầu tôi luôn nghĩ Nha tím chúng tôi học các môn khoa Y như là thân chùm gởi. Cho nên cái tình thầy trò với các giáo sư, giảng nghiệm viên bên Y Khoa của tôi không mấy đậm đà chi lắm.
Một nhóm 8 người, trong đó có 2 người gốc Việt vừa bị cảnh sát Úc bắt giữ với cáo buộc vận chuyển lượng ma túy hơn 14 kg gồm heroin, cocaine và methamphetamine có tổng trị giá 21 triệu đô la Úc (khoảng 15 triệu USD). Mời quý vị cùng theo dõi.
Tại đại hội 19 của đảng CSTQ, Tập Cận Bình tuyên bố: “Đã đến lúc Trung Quốc phải giành vị trí trung tâm trên trường quốc tế”.
Để thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa” (The Chinese Dream), Tập Cận Bình đưa ra chiến lược “Một Vành Đai. Một Con Đường” (Nhất Đới, Nhất Lộ), thành lập ngân hàng với số vốn 124 tỷ USD, cho vay và đầu tư vào các quốc gia nằm trên tuyến đường từ Châu Á, Châu Phi và đến Châu Âu.
Trung Quốc đã lập một vành đai căn cứ quân sự gọi là “Chuỗi Ngọc Trai” (String of Pearls) để bảo vệ vành đai kinh tế.
Kỷ niệm đẹp và buồn của tuổi thơ tôi có lẽ là kỷ niệm về con chim cu gáy. Đó là con chim cu gáy nở trong chiếc ổ lót bằng mấy cọng cỏ sơ sài trên cây ô ma, còn gọi là lê ki ma. Sau một trận gió lốc, chiếc tổ bị rơi và hai con chim con rơi xuống đất, chết một con, bà mang con còn lại vào nuôi. Không ngờ nó lớn rất nhanh và nó là cu cườm (tức là chim cu gáy có một chuỗi hạt cườm vòng quanh cổ lốm đốm nhìn rất đẹp. Đây cũng là loài chim cu đá rất giỏi, người ta nuôi để đá thi, gáy thi). Và con chim cu gáy đó đã để lại ấn tượng rất mạnh với tôi bởi tiếng hát và cái chết của nó.
Câu chuyện của nữ danh ca Khánh Ly trong mấy ngày gần đây khiến tôi nhớ đến con chim cu gáy tưởng như đã đi vào hộp ký ức tuổi thơ của tôi.
Xin kể về con chim cu gáy trước.
Bà nhặt được nó khi nó đang ướt sũng, bộ lông mọc chưa đủ không giúp nó tự bay được. Bà cho nó ăn đậu xanh bằng cách nhai thật kỹ và mớm cho nó. Không bao lâu, nó lớn mạnh, mọc đủ lông đủ cánh và bắt đầu tập bay. Biết bay, nó được tự do, bay từ tấm phảng lên cây trính, rồi bay lên mái nhà, bay ra ngọn tre và cuối cùng là bay vào bầu trời rộng.
Lúc đó tôi nghĩ là nó đã bay đi luôn, nhưng không, tối nó lại quay về nhà, bởi nó xem nhà tôi như tổ của nó.
Và nó cứ bay đi bay về như vậy từ lúc đó cho đến lúc nó chết, ước chừng hơn mười năm thì phải.
Nhân đọc bài viết "Ngày Xuân, Đọc Thơ Bích Khê" của nhà văn Thinh Quang cho chúng tôi có dịp đào sâu vào vườn thơ của Bích Khê nhiều hơn. Thinh Quang duyệt qua tiểu sử của Bích Khê như sau:
"Bích Khê, tên thật là Lê Quang Lương, sinh ngày 21 tháng 2 năm Bính Thìn tức ngày 24-3-1916. Thân sinh ông là Lê Mai Khê – một bậc túc nho nổi tiếng thanh bạch và cang cường. Thân mẫu là bà Phạm Thị Đoan thuộc dòng danh gia vọng tộc. Bích Khê là người con nhỏ nhất trong số chín anh chị em, vì là con út nên được thân mẫu chiều chuộng. Thuở ấu thơ Bích Khê học trường sơ học Thu Xà, sau đó ra Đồng Hới theo học hết bậc tiểu học, thi đậu thủ khoa lấy mảnh bằng tiểu học Pháp Việt. Chàng được thân mẫu gửi vào học tại trường trung học Pellerin tại Huế. Cầm mảnh bằng Brevet Elémentaire Bích Khê ra Hà Nội theo học ban triết tại một trường đại học."
Chúng tôi được biết Thinh Quang là bạn láng giềng của Bích Khê tại phố Thu Xà, khi xưa thuộc vùng đất nhượng địa cho người Pháp cai quản, nên thời tuổi trẻ của hai ông dược theo học trường Pháp, văn hóa Pháp, sách vở Pháp, văn chương, thi phú của người Pháp ảnh hưởng vào tuổi thiếu thời của hai ông va bạn bè cùng trường không ít. Thi nhân Quách Tấn như luyến tiếc trong nhận xét nếu Bích Khê đừng theo thơ mới thì vườn hoa thơ cổ điển, nhất là thơ Đường sẽ phong phú thêm. Thinh Quang viết tiếp:
Tôi về Việt Nam ăn Tết, khi trở ra, gặp một chuyện trên máy bay, tới bây giờ vẫn còn lấy làm lạ. Tôi cũng hơi áy náy nữa, nên mong bà ngồi bên tôi chuyến đó, ghế số 27E, tình cờ đọc được bài này sẽ cho tôi biết tin bà có bình an không, mặc dầu khi chia tay, bà ra dấu hiệu ‘Cứ yên tâm’.
Đầu tiên khi lên máy bay tôi đã thấy bà chiếm chỗ của tôi, 27D, mà ngủ li bì. Lạ thật, mới lên máy bay đã ngủ. Tôi không dám đánh thức vì thấy mặt bà co giật một cách khổ não, chỉ sợ đụng phải lỡ bà lăn đùng ra thì mang vạ. Đấy, cái gì tôi cũng cứ nói thật, xin bà bỏ qua. Cuối cùng, vì bị hành khách đi sau thúc quá, tôi đành bước qua người bà mà vào chỗ ngồi tạm. Trước khi máy bay chuyển bánh ra phi đạo để cất cánh, cô tiếp viên tới kiểm soát, thấy bà chưa cài dây an toàn, lại bảo tôi cài cho bà. Một sự lầm tưởng tai hại. Nhưng tôi không đủ lanh trí để cải chính một cách tế nhị, chẳng lẽ tự dưng tôi nói ‘bả không phải vợ tôi’? Vả lại, cài giùm cái dây có cần gì phải là vợ chồng ? Tôi nghiêng qua người bà tìm mối dây bên kia, nghe nồng nực mùi dầu cù là. Tôi nín thở cài khóa, tiếng kim loại ăn khớp kêu rắc xác nhận là tôi đã làm chu đáo một nhiệm vụ nhỏ, nhưng có thể trở thành lớn, nếu nói dại có trục trặc gì xảy ra. Nhưng máy bay cất cánh an toàn. Khi đèn báo hiệu cho phép cởi dây an toàn, tôi cởi cho mình, rồi tần ngần nghĩ đã cài cho bà, thì tôi cũng nên cởi cho bà.
- Ê! Làm gì kỳ vậy, cha già mắc dịch !
‘Chát !’ Bàn tay tôi bị bắt quả tang đang thò sang lòng bà. Tôi vừa giận vừa xấu hổ, ức quá mà không dám gây sự lại. Thôi thì phải tự an ủi là bà chưa ngoác mồm tuôn ra một tràng xỉ vả nặng hơn nữa, và còn may là hành khách chung quanh coi bộ không ai chú ý tới lời ‘vu cáo’ trắng trợn kia. Tôi đành im lặng chịu trận cho tới khi nghe bà nói trổng :
- Mắc đái thấy mụ nội. Bao giờ máy bay mới ghé đổ nước, cho hành khách đi đái không biết ?
-Tâu, còn hai đứa. Nhưng lại đều là con gái.
-Chắc các em đều còn nhỏ?
-Tâu vâng. Một lên mười, một mười hai.
-Như vậy đâu còn nhỏ lắm? Thầy nên cho hai em đi chơi luôn để hai em vui chứ!Mọi thứ cần thiết tôi sẽ cho người lo giúp, thầy khỏi bận tâm.
-Tạ ơn hoàng thượng!
Khi nghe ông Trung thuật lại ý muốn của vua, mấy người con của ông đều vui mừng hớn hở. Chỉ có bà Trung lộ vẻ lo lắng nói với chồng:
-Đám con mình chưa bao giờ đi tắm biển. Ra đó lỡ gặp sóng gió bất thường hoặc rủi ro sa chân hụt cẳng ai lo cho?
Hồ Đắc Điềm trấn an mẹ:
-Mẹ khỏi lo chuyện đó. Con biết biển tắm Cửa Tùng không sâu và không bao giờ bị ảnh hưởng bởi các giòng hải lưu nguy hiểm. Nó như nằm trong một cái vịnh nhỏ được hai rặng đá ngầm thọc sâu ra biển là Mũi Si và Mũi Lai che chắn nên rất an toàn. Những khi biển có gió bão các tàu thuyền đánh cá còn có thể ghé vào neo ở đây để núp nữa mà! Bãi biển này cũng mát mẻ hơn các bãi biển khác ngay cả thời gian những cơn gió Lào gay gắt quạt lửa vào Quảng Trị hằng năm. Chính cánh rừng Rú Lịnh ở cách đó không xa đã giúp nguồn khí mát ở đây luôn được điều hòa. Mẹ cho anh em con đi một chuyến khi trở về mẹ sẽ thấy đứa nào đứa nấy hồng hào khỏe mạnh lên hết cho coi!
Cả Hồ Đắc Di lẫn hai cô em đồng loạt nói:
-Anh Điềm nói phải đó mẹ. Khí hậu ở Cửa Tùng rất tốt. Đi chuyến này trở về chúng con khỏe mạnh lên hết cho coi.
Thấy các con đều tha thiết muốn đi chơi, ông Trung quyết định:
-Thôi, được rồi, thầy mẹ bằng lòng cho cả bốn đứa đi. Nhưng đi với ngài ngự thì phải luôn giữ lễ, phải nói năng từ tốn, không được ham vui mà ồn ào. Dù cho ngài ngự có vui vẻ, dễ dãi các con cũng không được thừa dịp mà lơ đi khoảng cách giữa vua tôi. Nếu không nghe lời thầy dặn, không phải chỉ các con mang lỗi phạm thượng mà thầy mẹ cũng mang tội không biết dạy con. Phải nhớ kỹ lời thầy dặn đấy nhé.
-Chúng con xin tuân lời thầy dặn!
*
Lúc bấy giờ vua Duy Tân đã có sẵn một hành cung ở Cửa Tùng, nơi người ta vẫn quen gọi là “tòa Thừa Lương”, nôm na là tòa nhà để hóng mát. Tòa nhà này do viên Khâm sứ Trung Kỳ Brière cho xây dựng từ năm 1896 để làm nhà nghỉ mát cho nhân viên tòa Khâm. Năm 1907, người Pháp nghi ngờ vua Thành Thái không trung thành với chính phủ Bảo hộ nên tìm cách để truất phế ngài. Kế đó họ lập người con của ngài là Vĩnh San mới 7 tuổi lên ngôi tức là vua Duy Tân. Về sau, nhận thấy vua Duy Tân càng lớn càng lộ vẻ ưu thời mẫn thế như vua cha, người Pháp lại đâm ra lo lắng. Họ tìm cách để dẫn dụ vị vua trẻ này đi dần vào con đường vui chơi, hưởng thụ. Nhắm mục đích ấy, người Pháp nhường lại tòa nhà nghỉ mát trên cho vua Duy Tân làm một hành cung. Từ đó nhà nghỉ mát ấy được vua cho sắp xếp lại, trở thành tòa Thừa Lương. Cứ mỗi mùa hè vua lại ra đó nghỉ mát một thời gian.
Lần đó vua Duy Tân cùng quan thượng thư Hồ Đắc Trung đi Cửa Tùng bằng “xe điện”. Các thành phần khác thì đi bằng ngựa hoặc xe ngựa. Khi bốn anh em Hồ Đắc Điềm đến hành cung thì ông Trung đã có mặt sẵn để dẫn họ vào lạy chào vua.
-Ai bắt bỏ tù chúng ta, chắc chúng ta cũng sẽ khổ sở vì khi mất tự do là mất tất cả!
Nói xong vua thở dài, nét mặt ngài bỗng trở nên ủ dột. Anh em Điềm, Di phải nói chuyện khỏa lấp một hồi vua mới vui vẻ trở lại với cuộc chơi.
Tối hôm đó anh em Điềm kể lại chuyện ấy cho cha nghe. Ông Trung nói:
-Tinh thần yêu nước của ngài ngự rất cao. Ngài muốn thoát khỏi sự kềm kẹp của chính phủ Bảo hộ. Đã nhiều lần ngài hỏi thầy “Thầy nghĩ sao về việc người Pháp đô hộ ta?”. Thầy chỉ biết nói với ngài “Mình đang bị trị biết làm sao được! Xin hoàng thượng thận trọng, cố gắng học hành, đường còn dài, còn nhiều vận hội mới”. Ngài không phản đối nhưng có vẻ không hài lòng. Một viên thị vệ kể với thầy, có một lần vua tự ra vườn cuốc đất trồng hoa, tay chân vua lấm đất cả. Khi ngài trồng xong, y bưng chậu đến cho ngài rửa tay. Bất ngờ ngài hỏi y “Tay nhớp lấy nước để rửa, thế nước nhớp lấygì để rửa đây?” . Viên thị vệ ngẩn ngơ chưa biết trả lời sao thì ngài tiếp “Nước nhớp phải lấymáu mà rửa! Biết chưa?”. Lại một lần ngài đi câu, có quan thượng thư Nguyễn Hữu Bài theo hầu, ngài bỗng cảm thán đọc “Ngồi trên nước khôn ngăn được nước, Trót buông câu đã lỡ phải lần”, rồi ngài bảo ông Bài đối lại. Qua một lát suy nghĩ, ông Bài đối: “Ngẫm việc đời mà ngán cho đời,Đành nhắm mắt tới đâu hay đó!”. Ngài lắc đầu tỏ vẻ không bằng lòng. Ngài luôn bị ray rứt về số phận của đất nước. Thỉnh thoảng ngài đem tâm sự dò ý các quan nhưng chẳng có ai dám biểu lộ đồng tình với ngài. Ai cũng biết, trong số quan lại của Nam triều không thiếu gì tay chân của chính phủ Bảo hộ Pháp, họ lúc nào cũng sẵn sàng lập công để được thăng tiến! Vì cảm thấy mình quá cô đơn, ngài hay nổi nóng bất thường. Có lần ngài hét lớn “Các quan không có ai chịu nghe lời tôi cả. Tôi chỉ là một ông vua làm vì!”.
Hồ Đắc Di nghe đến đó bất giác thốt lên:
-Thật tội nghiệp cho ngài quá. Không ngờ nỗi khổ tâm của ngài to lớn đến thế! Có khi nào bức chí quá ngài lại nổi điên như vua cha Thành Thái không thầy?
-Điểm đặc biệt ư? Nếu nói về điểm đặc biệt của một ông vua thì con thấy ngài có mấy điểm rất khác thường, hoàn toàn không giống ở bất cứ một ông vua nào khác mà con đã được đọc qua trong sách sử ký.
Bà Trung trố mắt ngạc nhiên:
-Ủa, con đã đọc về nhiều vị vua trong sách sử ký? Con thấy ngài khác biệt với những vị vua ấy ở những điểm nào?
-Điểm con thấy rõ nhất ở ngài là đức tính rất giản dị, khiêm tốn. Mẹ biết không? Ngài luôn gọi anh Điềm, anh Di bằng anh, gọi con và Hạnh bằng em như dân thường gọi nhau. Trong một lần khi đi chơi ngài đã thành thật tâm sự: “Thời gian này đi chơi có mấy anh em tôi thấy vui vẻ thoải mái quá! Gần gũi mãi với mấy cụ đại thần tuy học được nhiều điều hay nhưng cũng có lúc ngột quá chừng, nhiều thắc mắc của mình khó bày tỏ với các cụ quá! Các anh thấy thế nào?”. Anh Điềm anh Di đều nói: “Chúng tôi còn dại, chỉ biết lo học, chưa dám bàn đến chuyện người lớn”. “Vậy các anh cho tôi là người lớn rồi sao?”. “Muôn tâu, Ngài Ngự tuy tuổi nhỏ nhưng địa vị và tâm tư đều lớn quá có ai dám sánh? Chúng tôi đâu dám luận bàn!”. Vua cười: “Các anh đừng lầm, người có thực tài không cần có địa vị, người có địa vị chưa chắc có tài. Như tôi vì con vua nên lại làm vua chứ tài gì?”. Mẹ thấy đó, các ông vua khác nghe lời tâng bốc thì vui mừng, họ còn tìm cách khiến người khác thần thánh hóa mình lên nữa. Còn ngài thì không, lại tự nhận mình chưa chắc có tài, chỉ nhờ gốc là con vua nên được làm vua! Chưa tin mình có thực tài tất nhiên ngài phải luôn cố gắng học hỏi. Không nghe lời tán tụng, tâng bốc tất nhiên không ai có thể dùng lối mê hoặc, dua mị để lung lạc được. Một ông vua như thế chắc hẳn không phải là một ông vua tầm thường! Đó là những điểm khác thường của ngài vậy!
Nghe Thị Chỉ nhận xét về vua Duy Tân như vậy bà Trung rất mừng. Bà không ngờ lối suy nghĩ của đứa con gái mình lại có vẻ trưởng thành đến thế. Vậy đối với nàng bà đâu có gì đáng lo nữa! Chắc hẳn là nàng có phần si tình đấy, nhưng không sao. Nghĩ đến đó bà chợt thốt lên:
-Đáng tiếc!
-Mẹ nói cái gì đáng tiếc?
-Ngài ngự hẳn là một minh quân đấy. Đáng tiếc là ngài đã không gặp được thời. Cái gương của vua cha còn sờ sờ ra đó. E rằng chính phủ Bảo hộ khó để cho ngài toại chí. Mẹ nghĩ rồi đây ngài sẽ phải gặp nhiều gian truân…
Ngay hôm ấy bà thăm dò ý chồng:
-Này ông, từ sau cuộc đi chơi ở Cửa Tùng về, hình như con Chỉ nó thay đổi khá nhiều đó. Nó hay thở dài và cũng hay ngâm truyện Kiều nữa. Tôi cảm thấy lo lo về những dấu hiệu ấy.
Thấm thoắt kỳ nghỉ hè 1915 đã gần tới. Theo thư thăm gia đình mới nhất, anh em Điềm, Di đang học ở Hà Nội cho biết chỉ trong vòng một tháng nữa họ sẽ về sum họp với gia đình. Điềm, Di cũng cho biết họ cũng sẽ có một món quà rất đặc biệt dành cho hai em gái. Vì vậy, Thị Chỉ và Thị Hạnh luôn ngóng chờ hai anh. Đối với Thị Chỉ, thật ra nàng không hẳn nôn nóng vì thương nhớ hay muốn biết “món quà rất đặc biệt” hai ông anh đã hứa tặng mà là nôn nóng đợi một kỳ đi nghỉ mát như năm ngoái. Thị Chỉ đã cẩn thận ngầm chuẩn bị những đồ trang sức cá nhân dành cho thời gian đi chơi sắp đến. Đã nhiều lần nàng rụt rè hỏi nhỏ Thị Hạnh:
-Ngài ngự có dặn em năm sau chúng ta sẽ gặp lại phải không?
Thị Hạnh hiểu ý, cười nguýt yêu cô chị:
-Đúng rồi, không lẽ em phịa ra thế sao. Ngài ngự còn bảo em dỗ chị đừng khóc nữa mà. Sao chị cứ hỏi hoài chuyện đó vậy?
-Có khi nào ngài ngự quên đi không? Hoặc ngài ngự bận công việc gì mà không đi nghỉ mát nữa? Cũng có thể ngài ngự gọi vị thượng thư khác theo chầu hầu thay thế thân phụ mình.
Thị Hạnh nhí nhảnh:
– Chị sao hay lo hảo quá! Quân bất hí ngôn mà! Ngài ngự đã hứa lẽ nào lại quên!
Thị Chỉ cười bẽn lẽn:
-Chị cũng nói chừng chừng vậy thôi.
Mấy ngày sau thì anh em Hồ Đắc Điềm từ Hà Nội về. Thị Hạnh mừng quá, hỏi ngay đến món quà đặc biệt. Khi Điềm và Di mở quà ra, Thị Hạnh mừng rỡ reo ầm lên, Thị Chỉ cũng sung sướng đến lặng người. Món quà đặc biệt của hai cô chính là hai bộ đồ tắm tân thời! Trước vẻ sung sướng của hai cô em gái, anh em Điềm, Di cũng hỉ hả nói cười.
Bà Trung lúc ấy đang bận tay nhưng thấy các con vui vẻ quá cũng tạm bỏ việc đến xem:
-Quà gì mà các con vui sướng đến thế?
Cả bốn anh em đều hướng về mẹ, Điềm khoe:
-Mẹ thấy hai bộ đồ tắm này có nhất không? Tây cũng phải hạng sang chứ hạng xoàng cũng không dám sắm đâu!
Bà Trung cầm từng bộ lên xem rồi nói:
-Đồ này thấy sang trọng, tân thời thật, hai con thương em sắm cho em như vậy quả thật có lòng! Nhưng có điều mẹ quên dặn các con, mình là người Việt phải gắng mà giữ lấy nề nếp văn hóa Việt, không nên đua đòi với Tây làm chi để người ta coi thường. Mẹ nghĩ năm nay con Chỉ cũng đã lớn rồi, không nên theo mấy anh đi nghỉ ở Cửa Tùng nữa.
Nói xong, bà lại tiếp tục đi lo công việc. Thị Chỉ nghe mẹ nói vậy đâm hoảng. Vẻ hớn hở trên gương mặt nàng phút chốc tan biến hết. Đôi mắt nàng bỗng rưng rưng lệ. Anh em Điềm, Di thấy vậy vội an ủi em:
-Mẹ nói rứa thôi chứ không chi đâu. Bọn anh sẽ xin mẹ cho em.
-Em cũng sẽ xin mẹ cho chị đi – Thị Hạnh tiểp lời.
Lời hứa sẽ xin với mẹ của hai anh và đứa em gái không làm cho Thị Chỉ yên lòng mấy. Nàng vốn biết mẹ mình tuy rất thương con nhưng cũng rất nghiêm khắc trong vấn đề giáo dục. Hình như đã mất hết cả hứng thú, nàng cám ơn hai anh rồi tiu nghỉu mang gói “món quà đặc biệt” đem cất.
*
Hôm ấy, trong bữa cơm tối, ông Trung nói:
-Hoàng thượng vừa cho biết tuần sau sẽ đi nghỉ mát ở Cửa Tùng. Thầy cũng được cử theo hầu ngài. Các con cũng được ngài cho phép cùng đi nghỉ như năm ngoái. Khác một điều là con Chỉ năm nay đã lớn, đi chơi không tiện. Ý mẹ muốn con Chỉ phải ở nhà với mẹ.
Thị Chỉ nghe thế liền gục mặt xuống bàn khóc ấm ức. Mấy anh em đều quay lại nhỏ to năn nỉ với bà Trung. Ông Trung cũng nhìn con gái thông cảm nhưng bà Trung lắc đầu nói:
-Ông cũng muốn cho nó đi hả? Không chịu nghe tôi sau này có chuyện gì ông đừng bảo tại tôi không biết dạy con đó nghe!
Ông Trung nói với Thị Chỉ:
-Được rồi Chỉ! Con không nên trái ý khiến mẹ buồn!
Sau kỳ nghỉ mát không bao lâu vua cho thị vệ đến tư dinh Hồ thượng thư xin hai tấm hình của tiểu thư Thị Chỉ đem vào Nội để “Lưỡng tôn cung” xem mặt. Cả nhà ông Trung rộn lên kẻ vui mừng người lo âu. Ông Trung cười mà trấn an vợ:
-Đó là cái diễm phúc to lớn cả vạn nhà mơ ước không được, bà còn suy nghĩ gì nữa?
-Biết vậy, nhưng tôi thương con Chỉ quá. Hình như linh tính báo cho tôi biết có điều gì không hay trong cuộc tình duyên của nó…
Ông Trung cau mặt:
-Sao nói gở vậy? Bà không nên nghĩ như thế nữa.
Một tuần sau “Lưỡng tôn cung” cho đòi vợ chồng ông Trung vào chầu để bàn định sắp xếp về lễ hỏi và lễ nạp phi. Sau đó sứ vua đệ ra nhà Hồ thượng thư một đôi bông tai và một đôi vòng vàng để làm lễ hỏi. Vợ chồng Hồ thượng thư ra quì làm lễ bái nhận. Thị Chỉ cũng ra quì lạy tạ ơn vua đã chiếu cố.
Gần cuối năm 1915, khi chỉ còn hai tháng nữa là đến ngày làm lễ nạp phi, vua Duy Tân đột ngột triệu ông Trung vào gặp riêng để cho biết ngài đã quyết định từ hôn. Quá kinh ngạc, ông Trung xin ngài cho biết lý do nhưng ngài chỉ nói “Thầy cứ về đi, rồi thầy sẽ rõ”. Không biết làm sao hơn, ông Trung đành trở về báo tin không hay cho gia đình.
Tiểu thư Thị Chỉ đã bỏ ăn bỏ ngủ, khóc ngày khóc đêm cả một thời gian khá dài. Cả nhà ông Trung phải thay nhau an ủi, khuyên nhủ để giúp nàng giảm bớt nỗi đau buồn. Họ phải luôn canh chừng nàng vì sợ dại khi thất vọng quá nàng có thể nghĩ quấy làm liều…
Hai tháng sau triều đình vẫn tổ chức lễ nạp phi cho vua Duy Tân như đã dự định, nhưng bà phi này là tiểu thư Mai Thị Vàng, con gái trưởng của quan Phụ đạo Mai Khắc Đôn, thầy học của vua. Sự việc này đã khiến một số người biết chuyện ngầm cười nhà vua cũng kén cá chọn canh, không trọng chữ “quân bất hí ngôn”. Một số khác suy đoán có thể gia đình ông Trung có vấn đề gì khiến vua không bằng lòng. Riêng tiểu thư Thị Chỉ cũng bắt đầu nẩy sinh ý định gởi thân vào cửa thiền.
*
Đêm mồng 3 rạng mồng 4 năm 1916 ở Huế đã xảy ra một biến cố quan trọng: vua Duy Tân bí mật rời hoàng cung để tham gia một cuộc khởi nghĩa chống Pháp. Nhưng việc lớn không thành, ngày mồng 6 tháng 5 vua Duy Tân bị bắt đưa về giữ ở Tam Tòa một thời gian rồi sau đó đưa qua đồn Mang Cá. Những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa như Thái Phiên, Trần Cao Vân cũng bị bắt đem nhốt vào lao Thừa Thiên. Hai ông này biết chắc cuộc đời mình coi như đã yên, không một chút băn khoăn hối tiếc. Hai ông chỉ còn ưu tư về số phận của vị vua thiếu niên anh hùng! Họ muốn tìm cách để cứu sinh mạng vị vua yêu nước ấy. Với tinh thần đó, hai ông đã viết tờ tự thú nhận hết mọi trách nhiệm về âm mưu tổ chức cuộc khởi nghĩa về mình. Ông Trần Cao Vân còn nghĩ thêm cách cầu cứu với một viên quan có thế lực trong triều. Đó là ông Hồ Đắc Trung, đương chức thượng thư Bộ Học kiêm Cơ Mật Viện đại thần. Ông Vân đã dùng cuốn giấy quyến viết một lá thư bày tỏ nguyện vọng tha thiết muốn cứu vua lén gởi cho ông Trung. Trong thư có hai câu đối:
Trời còn đó! Đất còn đó! Xã tắc sơn hà còn đó! Mong cho Thánh thượng sinh toàn”.
Nhưng không hiểu người chuyển thư giúp lớ ngớ làm sao đó đã khiến lá thư lọt vào tay người Pháp. Thế là ông Hồ Đắc Trung bị người Pháp bắt giữ ở tòa Khâm để điều tra. May người Pháp không tìm được bằng chứng nào về sự liên hệ giữa đám khởi loạn với ông Trung nên mấy hôm sau họ thả ông ra. Khi ông Trung trở về, cả nhà xiết bao vui mừng, xúm lại hỏi han ríu rít. Bà Trung nói:
-Thật phước đức ông bà, mấy ngày cả nhà ăn ngủ không yên!
-Làm sao con có thể vô tình với ngài được? Chính vì thương, vì nghĩ đến gia đình mình ngài mới từ hôn chứ đâu phải ngài ruồng rẫy con! Chuyện xảy ra vừa qua đã làm sáng tỏ tấm lòng cao cả của ngài, gia đình mình phải biết ơn ngài mới phải chứ!
Ông Trung an ủi Thị Chỉ:
-Con có lòng với ngài như thế là đúng. Rõ ràng ngài đã ăn ở rất có hậu với gia đình ta. Thầy cũng không thể làm ngơ trước cơn hoạn nạn của ngài đâu. Ở Trung Kỳ, những vụ án liên hệ đến người Việt chính phủ Bảo hộ thường giao cho Nam triều xử trước. Sau đó chính phủ Bảo hộ sẽ quyết định y án hay xử lại. Bình thường, với chức vụ của thầy, thầy sẽ được giữ một chân trong hội đồng xét xử. Vì nghĩ vậy nên ông Trần Cao Vân đã lén gởi một lá thư nhờ thầy tìm cách cứu mạng vua. Ông ấy từng quen biết và tin tưởng thầy nên mới dám làm liều như thế. Không ngờ lá thư đó đã gây nên chuyện rắc rối cho thầy. Bây giờ chưa chắc thầy đã được dự vào hội đồng nghị án. Nếu không bị cho ra rìa, thầy nguyện sẽ hết lòng che chở cho ngài.
-Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát, kính xin ngài phù hộ cho thầy con không gặp trở ngại để cứu giúp nhà vua.
Hôm sau ông Trung trở lại Cơ Mật Viện. Ông vui mừng biết mình không bị tước quyền nhưng khi biết tin viên tân Khâm sứ Pháp Le Marchant de Trigon buộc Nam triều phải lên án vua Duy Tân thật nặng ông không khỏi giật mình. Viên Khâm sứ này muốn xử tử vua Duy Tân để làm gương cho các vị vua kế tiếp. Thế là toàn bộ Cơ Mật Viện phải họp ba ngày liên tiếp để thảo luận vấn đề. Nhờ đa số thành viên Cơ Mật Viện đều là trung thần nên họ cố viện mọi lý lẽ thuận lợi bào chữa để cứu vua. Cuối cùng Cơ Mật Viện đã ủy nhiệm ông Trung soạn thảo một bản án với nội dung như sau:
“Vua Duy Tân còn vị thành niên, tuy rất mực thông minh song còn cạn nghĩ, nên dễ bị bọn phiến loạn lắm mưu mô quỷ quyệt lung lạc bằng cách kích thích lòng ái quốc mà nghe theo chúng. Nếu ở vào tuổi trưởng thành thì tội ấy rất nặng, song ở tuổi vị thành niên, thiếu quân không đáng trách mà là đáng thương tình.
“Vả lại, cuộc khởi loạn chưa bùng nổ thực sự nên chưa gây một mảy may thiệt hại cho tài sản và tánh mạng của người Pháp ở kinh đô Huế cũng như ở các tỉnh khác ở miền Trung. Mặt khác, nhân dân Việt Nam rất mến thương nhà vua, thì nay, nếu lên án “tử hình” ngài, e không khỏi gây ra mầm mống rối loạn trong dân chúng, một điều mà cả Bảo hộ lẫn Nam triều chúng ta nên hết sức tránh trong lúc này – lúc mà mẫu quốc đang gặp khó khăn trong cuộc đương đầu với quân xâm lăng Đức ở trời Âu.
“Luận về tội thì quả thật thiếu quân có tội đối với chính phủ Bảo hộ, nhưng đối với Nam triều, nhất là đối với nhân dân Việt Nam mà xưa nay ngài vẫn tỏ lòng thương yêu, ngài không có tội gì hết.
“Vì các lẽ trên, tưởng cần tỏ ra khoan hồng đối với vị thiếu quân mà để cho ngài được tự do trở về với danh vị “hoàng tử” như trước. Như vậy, chẳng những đã hợp tình hợp lý mà chính phủ Bảo hộ còn được tiếng khoan dung và đại lượng, dân chúng ắt sẽ khâm phục và thỏa mãn.
Ngày 2/7/1916 “Hoàng tử Vĩnh San”biệt ly xứ Huế đi Vũng Tàu để rồi ngày3/11/1916 ngài vĩnh viễn xa rời tổ quốc sống cuộc sống lưu đày trong sự thương tiếc, kính nể của toàn dân Việt Nam. Hai mươi chín năm sau ngài qua đời ở quê người vì một tai nạn.
*
Sau khi vua Duy Tân đã bị lưu đày, tiểu thư Thị Chỉ ngày càng khô héo. Có một ông bác sĩ trẻ muốn hỏi nàng làm vợ, gia đình cũng muốn gả, nhưng nàng một mực từ chối. Nàng thề không lấy ai nữa mà chỉ muốn đi tu. Sau cùng ông bà Trung khuyên:
-Được rồi, thầy mẹ sẽ giúp con toại nguyện. Tu hành trước để giác ngộ bản thân, sau để cứu độ chúng sinh cũng là việc rất tốt. Nhưng trước khi đi tu, thầy mẹ muốn con có được một mớ kiến thức vững vàng để việc tu học chóng tiến bộ hơn. Vậy, con nên tiếp tục học hành một thời gian nữa. Khi con lên mười tám, thầy mẹ sẽ chính thức đưa con vào chùa.