Saturday, 11 January 2014

Huyền Thoại Về Các Cảm Tử Quân Nhật Bản


Đứng bên cạnh hình ảnh các Samurai hiên ngang bất khuất là những cảm tử quân ít người biết đến: Kamikaze (Kami = god; kaze = wind ; Kamikaze = Thần Phong).

Thần phong, gió thần hay Kamikaze (tiếng Nhật: 神風; kami = thần, kaze = phong) là một từ tiếng Nhật, được những tiếng khác vay mượn để chỉ các cuộc tấn công cảm tử bởi các phi công chiến đấu Nhật Bản chống lại tàu chiến của các nước Đồng Minh trong Thế chiến thứ hai trong giai đoạn kết thúc Chiến dịch Thái Bình Dương.

Phi công Kamikaze sẽ lái máy bay của mình, thường là chở đầy thuốc nổ, bom, thủy lôi và bình đựng xăng đâm vào tàu địch. Máy bay của anh như vậy có vai trò hỏa tiễn sống trong một nỗ lực tuyệt vọng nhằm tăng tối đa độ chính xác và tổn thất cho địch quân so với bom đạn thông thường. Mục tiêu của các phi công này là đánh phá càng nhiều càng tốt tàu bè của phe Đồng Minh.

Các cuộc tấn công này bắt đầu từ tháng 10 năm 1944, sau một số trận thua nặng nề của Nhật Bản. Việc tiềm lực chiến tranh giảm sút– cùng với việc mất đi rất nhiều phi công giỏi giàu kinh nghiệm–sản xuất công nghiệp suy yếu đi so với Hoa Kỳ, cũng như việc chính phủ Nhật Bản không muốn đầu hàng, dẫn đến chiến thuật sử dụng kamikaze khi lực lượng Đồng Minh tiến đánh Quần đảo Nhật Bản.

Các cuộc tấn công cảm tử Kamikaze là các cuộc tấn công nổi tiếng nhất và được biết đến nhiều nhất, giống như các cuộc "xung phong banzai" bởi bộ binh Nhật. Ngoài ra, người Nhật còn có các đội tấn công cảm tử khác như tàu ngầm Kairyu, thủy lôi sống Kaiten, khinh tốc đỉnh Shinyo.



Trong những năm đầu của thập niên 1940 khi hạm đội Mỹ khống chế Thái Bình Dương, những cuộc đụng độ giữa hải quân Nhật-Mỹ liên tục diễn ra, đặc biệt là sau trận Trân Châu cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941 với thắng lợi thường thuộc về người Mỹ vì Mỹ có ưu thế lớn về hải quân và không quân. Những thất bại đó mà đỉnh điểm là trận Hải chiến biển Philippines đã khiến quân Nhật nghĩ đến những phương sách khác, trong bối cảnh đó bộ tham mưu Nhật đã nghĩ đến những cuộc tấn công cảm tử để tái lập thế quân bình lực lượng. Người đầu tiên đưa ra ý tưởng này là chỉ huy trưởng căn cứ Nhật Tateyama tuy không được chấp thuận nhưng ý kiến này đã được bảo lưu và nghiên cứu.

Hồi đầu chiến dịch Thái Bình Dương trong Đại chiến thế giới thứ 2 của Nhật, Onishi là Trưởng phòng phát triển không quân của Hải quân Nhật, và là người chịu một số trách nhiệm về kỹ thuật trong đợt tấn công của quân Nhật vào Trân Châu Cảng (Pearl Harbor), dưới sự lãnh đạo của thống đốc hải quân Isoroku Yamamoto. Bản thân Onishi đã từng phản đối cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng, khiến cho Mỹ sau đó tuyên chiến với Nhật và dẫn đến một cuộc chiến đẫm máu, và cuối cùng Nhật đã phải đầu hàng không điều kiện.




Vào tháng 10/1944, Onishi được thăng chức thành tư lệnh Chiến hạm Không quân ở phía bắc Philippines. Onishi đã nghiên cứu các phương pháp đánh cảm tử vào những tàu chiến của quân Mỹ và Đồng minh, phương pháp mà hồi đầu Onishi đã từng phản đối. Sau khi bị mất dãy đảo Mariana, Onishi thay đổi ý kiến và ra lệnh tấn công bằng máy bay chứa đầy bom. Kế hoạch là khoảng 250 kg bom được đưa lên máy bay Misubishi A6M Zero và đâm thẳng vào tàu chiến địch.

Trong buổi gặp mặt ở sân bay Magracut gần Manila , Philippines vào ngày 19/10, Onishi đến thăm đội bay 201 đã cho rằng:

"Tôi nghĩ chúng ta sẽ không còn phương pháp nào giữ được Philippines , bằng cách cho 250 kg bom lên chiếc Zero và đâm thẳng xuống tàu chiến Mỹ".

Từ đó những cuộc tấn công theo kiểu Kazmikaze này liên tiếp được tiến hành, nhưng không phải mọi máy bay đều đâm trúng đích. Nhiều chiếc đã bị bắn rơi trước khi kịp đâm trúng mục tiêu.

Bộ tư lệnh tối cao Nhật lúc đó đã tin tuởng vào hiệu quả đặc biệt của chiến thuật 'bom nguời' và Nhật Hoàng Hiro Hito đọc diễn văn ca ngợi những chàng trai trẻ tuổi đôi mươi đã ra đi ''chết hạnh phúc và tự hào vì hoàng đế và sự chiến thắng''. Số người tự nguyện hi sinh nhiều gấp 10 lần số máy bay mà quân đội Thiên hoàng có. Theo nhà nghiên cứu Maurice Pinguet, những phi công đó biết rằng sớm hay muộn gì họ cũng sẽ hi sinh trong một cuộc chiến không cân sức nên họ đã chọn một cái chết nhanh chóng và có ích hơn. Họ không được hứa hẹn một sự đền đáp nào, một thiên đường nào kể cả niềm tự hào chiến thắng. Trong số những người tình nguyện, có cả những sinh viên; họ được huấn luyện trong một chế độ đặc biệt trong 7 ngày; 2 ngày cho việc cất cánh với một quả bom 250kg; 2 ngày cho việc bay theo đội hình và 3 ngày cho việc tiếp cận mục tiêu và tấn công.

Phần lớn các kamikze đêu là những thanh niên ưu tú của Nhật Bản ở độ tuổi 20, họ là sinh viên của những trường Đại Học Nhật Bản , phần lớn họ theo học các ngành kỹ thuật . Chính học đã tự đăng ký để được trở thành các Kamikze-hi sinh cho Tổ Quốc . Tinh thần Samurai đã thấm nhuần vào dòng máu nhưng người con Nhật Bản và danh sách đăng ký ngày càng tăng cao.

Và vào một buổi chiều, nguời chỉ huy truởng căn cứ báo cho họ biết lệnh xuất phát vào sáng hôm sau. Họ chỉ còn có một đêm cuối cùng để viết một bức thư cuối cùng cho cha mẹ. Sáng sớm, sau buổi thuyết trình thuờng lệ , họ có mặt trong những bộ đồ bay, bên sườn lủng lẳng thanh trường kiếm của nguời hiệp sĩ samurai , đầu quấn chiếc băng chéo thêu nổi hình mặt trời mọc . Chỉ huy trưởng căn cứ trao cho mỗi nguời một cốc rượu sake ; tất cả nghiêng mình về hướng cung điện của Nhật hoàng truớc khi chạy bổ nhào đến máy bay truớc sự hoan hô nồng nhiệt của các đồng đội còn ở lại .

Theo truyền thuyết, những phi công trẻ trong các sứ mệnh tự sát kamikaze sau khi cất cánh thường bay về hướng Tây Nam của nước Nhật ở cao độ 992 mét ( khoảng 3.000 bộ Anh) của vùng núi Kaimon . Quả núi cũng được mang tên gọi là "Satsuma Fuji" (có nghĩa là "Phú sĩ sơn của làng Satsuma" , có nét đẹp tựa núi Phú sĩ Fuji ở hướng Tây - Tây Nam của Đông kinh, Tokyo ). Các phi công đã phải ngoái cổ nhìn qua vai của họ để nhìn thấy được ngọn núi xa tít phía Nam trên dải đất Nhật, và trong khi bay trên không , trước khi rời xa mãi mãi đất mẹ, họ nói lời vĩnh biệt và phất tay chào ngọn núi lần cuối...

Những người dân cư ngụ trên đảo Kikaijima, nằm về phía đông của làng Amami Oshima, nói rằng các phi công trong những nhóm thi hành sứ mệnh tự sát đã thả những nhánh hoa tươi từ trên không, khi họ đang đi bay, chuyến bay sứ mệnh cuối cùng . Theo truyền thuyết thì những ngọn đồi ở chung quanh phi trường Kikajima có những luống hoa (giống như hoa bắp, cornflower) thường trổ hoa vào đầu tháng Năm


 

Tuy nhiên cũng có nhiều người tỏ ý nghi ngờ hiệu quả của chiến thuật kamikaze, trong đó có cả các phi công nổi tiếng. Trung úy Yukio Seki, phi công kamikaze thứ 24 trong đội đặc nhiệm tham gia đánh chìm hàng không mẫu hạm St. Lo viết:

"Tương lai Nhật Bản thật ảm đạm nếu như chúng ta buộc phải hy sinh những phi công giỏi nhất của mình. Tôi tham gia chiến dịch này không vì Đế quốc Nhật hay vì Hoàng Đế... Tôi tham gia vì tôi được lệnh phải tham gia!"

Trong chuyến bay, chỉ huy của anh nghe thấy anh nói "Thà chết còn hơn sống như một kẻ hèn hạ."



Tọa độ chính của những điệp vụ kamikaze

Tuy nhiên, nhìn chung người ta không có khó khăn tuyển mộ phi công. Yêu cầu rất đơn giản:

"Trẻ tuổi, nhanh nhẹn và hăng hái. Chỉ cần kinh nghiệm bay ở mức tối thiểu, kỹ năng hạ cánh không cần thiết".

Đại tá Motoharu Okamura nhận xét "có nhiều người tình nguyện cho các phi vụ cảm tử đến mức đông như đàn ong, vì ‘ong chết sau khi đốt’". Các phi công Kamikaze tin tưởng bằng sự hy sinh của mình, họ đã đền đáp lại công ơn gia đình, bạn bè và Thiên hoàng. "Họ hăng hái đến mức khi chuyến bay bị trì hoãn hay hủy bỏ, thì các phi công trẻ được huấn luyện sơ sài này tỏ ra hết sức bực dọc. Nhiều người sau khi được chọn thực hiện các phi vụ cảm tử được kể lại là rất hân hoan vui sướng trước phi vụ cuối cùng của mình".

Chiến công của các thần phong :

7 giờ 30 sáng ngày 13/04/1945, khi các loa phóng thanh của quân đội Mỹ đồng loạt báo tin tổng thống Roosevelt từ trần thì cũng là lúc 185 máy bay Thần phong, được sự hỗ trợ của 150 chiến đấu cơ Zero, 45 phi cơ phóng lôi của Nhật tấn công vào hải quân Mỹ ngoài khơi Okinawa. Lần đầu tiên quân Nhật sử dụng một vũ khí mới, đó là bom bay OKA (hoa Anh Đào nở). Bom bay này do máy bay mang theo và phóng đi. Mỗi qủa bom bay có một cảm tử quân ngồi bên trong, điều khiển trái bom đánh trúng mục tiêu và hy sinh khi bom nổ.

Tám chiếc oanh tạc cơ Mitsubishi G4M đem theo loại bom bay mới OKA cùng tham gia tấn công gây nỗi kinh hoàng trên các tầu Mỹ. Một trái bom bay đánh trúng khu trụ hạm Abele đã bị thương vì một Thần phong đâm trúng, chiến hạm nổ tung và bị cắt làm 2. Mốt trái khác đánh nổ tung khu trụ hạm Stanly. Trong lúc đó, các Thần phong đánh chìm tầu LST33, đánh hư hại nặng một thiết giáp hạm, 3 khu trục hạm và 8 hạm tầu khác.

Tối hôm đó, loa phóng thanh của Nhật kêu gọi: "Quân đội Thiên hoàng chia buồn cùng quân Mỹ về cái chết của tổng thống Roosevelt. Cái chết của ông mở màn tấn thảm kịch của Hoa Kỳ và tấn thảm kịch ấy xẩy ra ở đây, ngay đối với bản thân các người. Lực lượng đặc biệt của Nhật Bản (tức Thần phong) sẽ liên tục đánh chìm tầu bè của các người. Các người sẽ làm bạn với cây cỏ của đảo này".

Ngày 25/05/1945, hợp đồng tác chiến với cuộc rút quân ở Shuri (phòng tuyến chính của Nhật trên đảo Okinawa) là đợt tiến công của Thần phong lần thứ 7 ở Okinawa.




Suốt 12 giờ liền, 176 Thần phong chia làm nhiều đợt từ Nhật Bản đến biển Okinawa để lao mình vào hạm đội Mỹ. Một số bị bắn nổ tung trên trời, một số rơi xuống biển nhưng có những chiếc lao trúng mục tiêu. Khu trục hạm Bates bị hai chiếc đâm trúng, nổ tung và chìm ngay, tầu đổ bộ LSM 135 chìm, 4 biến hạm khác bị đánh cháy và hư hại nặng. Phó đô đốc C.R.Brown có mặt tại hạm đội Mỹ ở Okinawa viết như sau :

"Thật là một cảnh tượng lạ kỳ, khi đứng trên tầu ta nhìn thấy một chiếc máy bay lao thẳng vào ta. Có những pháo thủ gan dạ, đầy kinh nghiệm nhưng khi thấy một Thần Phong lao vào tầu, tự nhiên miệng há hốc ra, tay quên xiết cò súng. Tựa như anh ta bị lôi cuốn bởi trò chơi quái ác kia. Thực tình mà nói, người đứng trên tầu, lúc ấy không nghĩ đến mình nữa mà lại nghĩ lo cho anh chàng lái máy bay kia."

Cùng ngày hôm ấy, 5 chiếc máy bay hai động cơ từ Nhật bay đến, xuyên qua hệ thống phòng không, len lỏi vào không phận sân bay Yontan giữa đảo Okinawa (lúc này đã nằm trong tay quân Mỹ). Bốn chiếc bị bắn rơi, một chiếc từ từ hạ cánh xuống đường bằng. Máy bay vừa dừng lại, cảm tử quân Nhật ùa ra chạy đến các bãi đậu máy bay và các bồn chứa của Mỹ. Họ dùng bộc phá, lựu đạn, tiểu liên, phá hủy 7 máy bay Mỹ, làm hư hại 26 chiếc khác và đốt cháy 2 bồn chứa 70.000 gallon xăng máy bay.

Chế độ huấn luyện :

Những người tình nguyện hi sinh, bao gồm nhiều thành phần từ phi công chính quy, binh lính cho đến cả sinh viên được huấn luyện theo một chế độ đặc biệt trong vòng 7 ngày: 2 ngày cho việc cất cánh với 1 quả bom 250 kg; 2 ngày cho việc bay theo đội hình và 3 ngày tập cách tiếp cận mục tiêu và tấn công.

Các phi công được cấp một bản hướng dẫn chi tiết về cách tiến hành tiến công cảm tử. Theo đó phi công phải bổ nhào nhắm vào giữa tháp chỉ huy và ống khói, vì đó là cách hiệu quả nhất để đánh chìm tàu. Phi công cũng được dặn không nên nhắm vào đài chỉ huy hay tháp pháo, mà nên nhắm vào cầu thang máy hoặc boong tàu. Nếu tiếp cận từ đường chân trời thì phi công nên "nhắm vào thân tàu, cao hơn mặt nước biển một chút", hoặc "nhắm vào cửa khoang chứa máy bay hoặc chân ống khói".

Thời khắc ra đi mãi mãi

Vào buổi chiều trước ngày xuất phát, người chỉ huy trưởng căn cứ thông báo cho họ biết lệnh xuất phát vào ngày hôm sau và họ còn một đêm cuối cùng để viết một bức thư cuối cùng cho người thân trước khi ra đi mãi mãi vào hôm sau. Sáng sớm, sau buổi thuyết trình ca ngợi sự hi sinh, họ có mặt trong bộ đồ phi công, đeo bên mình thanh gươm của người võ sĩ đạo, đầu quấn chiếc băng chéo thiêu nổi hình mặt trời mọc, quốc kỳ của Đế quốc Nhật Bản. Chỉ huy trưởng căn cứ trao cho mỗi người một ly rượu sake, tất cả nghiêng mình về hướng cung điện để tỏ lòng tôn kính Nhật hoàng trước khi leo lên máy bay trong sự hoan nghênh của những người còn lại.

Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Thiên hoàng Hiro Hito đọc tuyện bố đầu hàng vô điều kiện, một số người không chịu đựng được nỗi nhục thất trận đã mổ bụng tự sát theo tinh thần người Nhật. Hàng ngàn phi công trở về nhà bị lãng quên trong thời kì sau chiến tranh. Một số người cùng với những người khác xây dựng lại đất nước và khắc phục hậu quả chiến tranh, một số gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản trong những năm 1946-1948, số khác bị khủng hoảng tinh thần và chỉ sau thập niên 1950, khi nền kinh tế Nhật Bản dần dần phục hồi đa phần trong số họ trở thành công nhân trong các hãng sản xuất lớn như: Sony, Honda, Denzu,… để quên đi quá khứ tuy đau thương nhưng không kém phần hào hùng.