Sunday, 2 September 2018

TƯỚNG, TÁ VIỆT CỘNG ĐANG LÀM GÌ?: trang thơ Ý Nga

Trang thơ thân tặng các Bạn Trẻ trong nước



TƯỚNG, TÁ VIỆT CỘNG 
ĐANG LÀM GÌ?

“Dân” Tàu “nhập cảnh” Quảng Ninh
Rồi đi đâu nữa? Dân mình có hay?
Tràn qua Móng Cái mỗi ngày
Đủ chưa? Mấy triệu? Thưa, dày võ trang?
Bao nhiêu tình báo sẵn sàng?
Bao quân xâm lược xênh xang ba miền?
 
Cầm quân: “tướng, tá” ngủ yên
Trốn trong địa đạo tam biên, tứ vùng?
Chưa chi liệt… sĩ “anh hùng”?*
Hay đang chuẩn bị bổ sung phe Tàu?
Tụm nhau nhậu nhẹt tào lao,
Kẻ thù thư thả tiến vào Việt Nam!
*
Thanh niên tài giỏi hãy làm:
Hỏi cho ra lẽ “đuôi sam” vào Nhà.
Chớ chờ xuất hiện quân xa,
Súng đâu đánh sáp lá cà Nghĩa Quân?
Địch quân vũ khí tối tân
Thí quân, Hán vốn bất nhân rợn người.
 
Đảng đà răm rắp tuân lời
Dân không vùng dậy? Muôn đời Hán nô.

Ý Nga*2.6.2017
 
*VC lúc nào cũng khoe khoang: quân dân ta toàn anh hùng, liệt sĩ
*Các vùng chiến thuật: I, II, III & IV


TIẾN LÊN! 
TOÀN THẮNG ẮT VỀ TA!”*

Vòng ngoài vệ sĩ, “berger”*
Vòng trong “bảo vệ” ngón nghề rất cao
Nhe răng ám khói thuốc lào
Mấy tên cán ngố ồn ào gắt gao;
Cộng Tàu xí xố, xí xào,
Chỉ huy, ra lệnh nhôn nhao cả Nhà.
 
Nhà Ta sao lắm “chú Ba”?
Chú ơi! “Bác” ngủ, ruột rà lấn sang
Dì, cô, cậu, dượng, họ hàng,
Anh hùng, liệt sĩ…” huênh hoang đâu rồi?
 
Toàn nòi cộng sản “bề tôi
Làm chi để “Chủ” lôi thôi, tơi bời?
Việt, Tàu cờ đỏ máu tươi
Nhân dân làm chủ” sao người xanh xao?
 
Nằm chơi, mặt “bác” hồng hào
Cả Nhà “lao động”, tiền vào đi đâu?
Ăn chơi cán bộ đi… đầu;
Xếp hàng rồng rắn, dân rầu: -Tiến? Lui?
 
Tiến lên” thua cả thụt lùi!
Sáng trưng tư bản. Tối thui Nhà Mình!

Ý Nga*28.5.2017
 
*“TIẾN LÊN! TOÀN THẮNG ẮT VỀ TA!” > Khẩu hiệu VC
BERGER: Chó chăn cừu của Đức, còn gọi là chó Alsace, (tiếng Đức: Deutscher Schäferhund) là một giống chó cỡ trung bình. Tại Việt Nam, giống chó này được gọi là chó Berger, phiên âm từ tiếng Pháp berger cũng có nghĩa là chó chăn cừu, gia súc. Có sức mạnh, thông minh và tuân thủ mệnh lệnh trong huấn luyện, chúng thường được dùng trong lực lượng cảnh sát  quân sự vì rất trung thành và có bản năng bảo vệ chủ


ĐẠI TÀI, 
PHÚ QUỐC?

Hòn Khoai, chợ Gạo, Đồng Xoài
Sao cư dân đói đêm ngày bi ai?
 
Suối Vàng, Đại Lộc, Phú Tài
Sao dân biền biệt ra ngoài lao nô?
 
Thái Bình, Phú Quý chỗ mô
Mà bao nhiêu trẻ thập thò xin ăn?
 
U Minh, Mũi Né nhọc nhằn
Giặc vào chễm chệ, xéo quằn rách tưa.
 
Đảng ngồi thêm mấy cho vừa?
Đại Tài, Phú Quốc có chưa anh hùng?

Ý Nga, 18.11.2017
 
*Ấp Đại Tài (Bình Thuận)
 
LÝ GÌ 
ĐỪNG LÝ 
QUẠ KÊU
*
(Trích thi tập: LỤC BÁT Ý NGA)
*
Bao nhiêu điệu nhạc kia mà
Sao em chỉ thích Dân Ca, Bài Chòi?
Nghe Quan Họ, thích tìm tòi
Đàn: Tam, Sến, Tứ, Bầu, Môi, Sáo, Cò…*
 
Dân mình đói quá, khó no
Nên chi điệu hát giọng hò toàn… lo.
Cung vang, bậc xót dày vò
Dân ta cứ khóc, lo cho Cơ Đồ.
 
Đàn: Tiêu*, Nhị, Nguyệt, Tranh, Hồ.
Thanh La, Chèo Cổ trầm trồ K’ny, Vang*
Kèn Bầu, Kèn Lá Hò Khoan
Ca Trù, Ca Huế. Trống dàn: Đế*, Cơm…
 
Ca nào biết giữ tiếng thơm?
Trống nào nhắc nhở sai lầm: NGOẠI XÂM?
Đàn nào khảy Đảng Điếc, Câm?
Kèn nào LỬA nổi, truyền âm BÃO ngầm?
 
Tỳ Bà, Nguyệt, Đáy*: hợp âm?
Tù Và, Mõ, Phách* bổng, trầm tim gan?
Cải lương, Hát Xẩm: vui buồn?
Đục, trong, gọn, nhẹ, thô, dòn Trống Prong*?

Mõ nào con cháu Lạc Hồng
Trao nhau CHUYỀN LỬA ngoài trong quyết lòng?
Âm nào vang dội Non Sông
Nhắc nhau giặc Hán biển Đông ngông cuồng?
 
Trống Đồng, Sáo, Trúc, Vang, Goong*:
Ước chi được học đục, trong thế nào?
Lý Con Sáo, Hát Ả Đào?
Chàng ơi, chàng hỡi ghi vào: Việt Nam!
*
Quạ đen, “Quạ Đỏ”*? Van thầm:
“Quạ” kêu thì tránh giùm em nhé Chàng!

Ý Nga, 12-9-2013.
 
*Người VN vẫn tin rằng quạ kêu không hên. Nên tác giả xin chừa LÝ QUẠ KÊU, để VN sớm thoát khỏi sự cai trị bạo tàn của loài QUẠ ĐỎ CS.
 
Theo Wikipedia:
-Cảnh  người Việt.
 thanh la  đường kính  quãng 5 đúng.[1]  gỗ  tre có mấu. Khi biểu diễn nhạc công tay trái cầm tiu, tay phải cầm que gõ vào mặt thau hoặc để riêng tiu và cảnh rồi dùng hai que khác nhau gõ.[2]
 
-Thanh la là một nhạc cụ thuộc họ tự thân vang, chi gõ của dân tộc Kinh. Ở miền Nam được gọi là Đẩu, miền Trung gọi là Tang[1]. Được làm bằng đồng hợp kim với thiếc có pha chì, hình tròn. Thanh la có nhiều cỡ to, nhỏ khác nhau, đường kính 15 - 25 cm, mặt hơi phồng, xung quanh có thành cao 4 cm, ở cạnh thanh la người ta dùi hai lỗ thủng để xỏ một sợi dây quai. Mặt là trung tâm phát âm, thành là trung tâm nhân to tiếng[2].Thanh la của Nhà hát Chèo Việt Nam có đường kính 15cm, dùi dài 20cm. Khi diễn tấu nghệ sĩ cầm dây quai dơ lên, còn một tay cầm dùi gõ vào mặt thau tạo ra tiếng. Âm thanh cao, vang, vui, trong trẻo, đánh mạnh nghe chói tai.Thanh la có hai thứ tiếng:
Tiếng Vang : nghệ sĩ chỉ cầm sợi dây quai giữ Thanh la và để Thanh la được tự do rung động.
Tiếng Nặng: nghệ sĩ cầm sợi dây quai của Thanh la và dùng các ngón tay nắm giữ lấy cạnh Thanh la khiến sức rung động của Thanh la giảm bớt.
Tiếng Thanh la bao giờ cũng đi sát với tiếng trống đế: tiếng "vang" của Thanh la hòa nhịp với tiếng da của trống đế và tiếng "nặng" của Thanh la đi cùng với tiếng đanh của tang trống đế trong Dàn nhạc Chèo cổ.
 
-Trống đế hay trống chầu  nhạc cụ gõ, họ màng rung xuất hiện ở Việt Nam từ khá lâu đời. Trong nghệ thuật chèo người ta gọi nó là trống đế, còn trong ca trù nó là trống chầu[1]. Đúng như tên gọi, Trống đế làm nhiệm vụ đế có nghĩa là lót, là chỗ dựa, làm điểm xuyết cho diễn viên khi biểu diễn và ca hát.
Trống đế có hai mặt trống hình tròn, đường kính bằng nhau khoảng 15 cm. Mặt trống thường là da nách trâu nạo mỏng (rất dai và bền) đủ sức chịu đựng độ cǎng mặt trống. Đường viền da bịt mặt trống trùm xuống thân trống khoảng 3 cm, được đóng bằng đinh tre. Da trống căng nhưng phải định âm tương ứng giọng hát của diễn viên. Tang trống cao khoảng 18 cm, bằng gỗ mít nguyên khúc gọi là tang liền, song có khi bằng những mảnh gỗ mít chấp lại, sơn phết bên ngoài. Hai dùi trống dài khoảng 25 cm, bằng gỗ cứng. Phía đầu tay cầm to hơn phía đầu gõ vào mặt trống[2]. Âm thanh Trống Đế nghe vui, cao, lảnh lót, hơi đanh nhưng gọn tiếng. Người ta đánh vào nhiều vị trí khác nhau trên trống đã tạo ra được nhiều âm thanh khác nhau:
Đánh vào giữa mặt trống, tiếng trống nghe vang, giòn.
Đánh vào mặt trống nhưng giữ nguyên dùi, âm thanh sẽ khô, xỉn.
Đánh vào cạnh mặt trống nghe như tiếng phách.
Nhờ kết hợp tài tình các lối đánh ở mặt và tang trống, gây ra sự đối lập nhưng lại hài hòa về màu sắc, âm thanh. Trống Đế có ở Việt Nam từ lâu đời. Trống được coi là nhạc khí gõ cao âm quan trọng, không thể thiếu trong ca trù và sân khấu chèo truyền thống. Ngoài ra trống cũng được dùng trong một vài thể loại ca nhạc dân tộc khác như chầu vǎn nhưng không phổ biến bằng.
 
-Đàn đáy có tên gốc là “đàn không đáy” tức "vô đề cầm", vì nó không có đáy (hậu đàn). Do đó người ta gọi tắt là đàn đáy lâu ngày thành tên chính thức như hiện nay. Một giả thuyết khác cho rằng nhạc cụ này có dây đeo bằng vải, dây này trong chữ Hán là “đái” (đai) nên mới gọi là “đàn đái”, đọc chệch lâu ngày thành “đàn đáy”. Đàn đáy có 4 bộ phận chính :
Bầu đàn, còn gọi là thùng đàn : bằng gỗ, hình thang cân. Đáy lớn nằm phía trên, rộng khoảng 23–30 cm, đáy nhỏ nằm phía dưới rộng khoảng 18–20 cm. Cạnh 2 bên khoảng 31–40 cm. Thành đàn vang bằng gỗ cứng, dày khoảng 8–10 cm. Mặt đàn bằng gỗ ngô đồng, có một bộ phận để móc dây đàn (cái thú). Có khi mặt đàn khoét một lỗ hình chữ nhật. Đáy đàn thủng hình chữ nhật.
Cần đàn : dài 1,10-1,30 m gắn phía trên từ 10 đến 12 phím đàn bằng tre nhưng đàn đáy cổ có 16 phím[2]. Các phím này dày và cao, phần đỉnh dài hơn phần chân phím. Tính từ đầu đàn trở xuống, phím đầu tiên không gắn sát vào sơn khâu như nhiều nhạc cụ khác mà lại nằm ở quãng giữa cần đàn.
Đầu đàn : hình lá đề, hốc luồn dây có 3 trục chỉnh dây.
Dây đàn : 3 dây bằng tơ se, dài, mềm và dễ nhấn mang tên dây Hàng, dây Trung  dây Liễu. Ngày nay, những dây này có thể bằng nilon với kích thước to nhỏ khác nhau, mỗi dây cách nhau 1 quãng bốnđúng. Dây đàn được chia làm năm cung: cung Nam, cung Bắc, cung Nao, cung Huỳnh  cung Pha.
Đàn đáy có âm vực rộng hơn 2 quãng tám, âm sắc giống đàn nguyệt, ấm áp dịu ngọt và có thể diễn tả tình cảm sâu sắc. Ngày xưa nghệ sĩ cần miếng khảy bằng que tre để đánh, ngày nay họ thường dùng miếng khảy nhựa hơn.
Kỹ thuật tay phải gồm có ngón khảy, hất, lia (vê) giống như cách diễn đàn nguyệt  đàn tỳ bà. Kỹ thuật tay trái gồm có ngón chùn, nhấn, láy, đánh chồng âm và hợp âm...
Ở loại đàn đáy cổ truyền người ta không đánh dây buông mà bấm vào phím thứ nhất để gảy, cách này coi như đánh dây buông. Người biểu diễn thường dùng đàn đáy đệm cho giọng nữ cao hoặc phối hợp với những nhạc cụ gõ có âm thanh khô (ít vang). Đàn đáy là nhạc cụ độc đáo chỉ duy nhất dùng để biểu diễn ca trù cùng với phách  trống chầu. Ngày nay nó còn được dùng trong một số dàn nhạc dân tộc để hòa tấu.
 
- Phách  nhạc khí tự thân vang , xuất hiện trong nhiều thể loại ca, múa nhạc ở Việt Nam từ rất lâu đời. Nhiệm vụ của phách là giữ nhịp cho dàn nhạc, người hát hoặc múa. Nhịp của phách đơn giản trong cải lương, nhưng phức tạp và biến tấu trong những dàn nhạc sân khấu. Loại phách đề cập trong bài này là loại dùng trong hát ả đào. Phách có nhiều loại và tên gọi khác nhau. Trong hát xẩm phách gọi là cặp kè; trong cải lương và dàn nhạc tài tử phách là song loan; trong ca Huế phách là sênh (sênh tiền), còn trong dàn nhạc tuồng, đám ma, múa tôn giáo và múa dân gian người ta mới là phách. Bộ phách ả đào gồm có bàn phách, tay ba và hai lá phách. Bàn phách là miếng tre dài khoảng 30 cm, bản rộng chừng khoảng 4 cm. Nó có 2 đầu mấu tre dùng làm chân cho mặt bàn phách cao lên. Hai lá phách là dùi gõ kép. Người ta cầm 2 lá phách chập vào nhau để gõ vào mặt bàn phách. Tay ba là dùi gõ làm bằng gỗ mít, dài như 2 lá phách, được người sử dụng cầm bằng tay trái.[1]
Khi phách 2 lá gõ vào bàn phách âm sắc phát ra nhòa, bẹt và hơi đục. Lúc dùng tay ba gõ vào bàn phách âm sắc sẽ trong, gọn  dòn. Hình thức dùi tròn được xem như là dương vật (linga theo truyền thống Ấn Độ), dùi chẻ hai được xem như là âm vật (yoni). Nhờ vậy, khi nghe 2 tiếng phách thính giả nhận thấy rằng có một tiếng trong và một tiếng đục, một tiếng mạnh và một tiếng nhẹ, một tiếng cao và một tiếng thấp, một tiếng dương và một tiếng âm. Tiếng phách Ca trù Việt Nam rất độc đáo và trong âm nhạc thế giới không có nước nào khác có cách gõ như thế.[2] Phách cấu tạo đơn giản nhưng kỹ thuật sử dụng rất phong phú, gồm những cách chính như sau:
-Ngón rục: tay ba gõ nhẹ, nảy nhanh trên bàn phách 2 tiếng, tiếp ngay sau đó là phách 2 lá gõ xuống bàn phách một tiếng. Ba âm thanh gần nhau gọi là tiếng rục.
-Ngón chát: tay ba và phách 2 lá cùng gõ xuống bàn phách (phách 2 lá gõ hơi nhanh hơn một chút). Gõ xong không nhấc lên ngay nên âm thanh chát, hơi thô.
-Ngón vê : tay ba và phách gõ 2 lá gõ thay phiên gõ nhanh trên bàn phím hoặc tay ba giơ cao đối diện bàn phím. Phách 2 lá luồng vào giữa gõ xuống bàn phách rồi nảy ngược nhanh gõ vào tay ba (ít sử dụng).
 
-Vang là bộ chiêng ba chiếc dành riêng cho Vua Lửa (Pơtau Pui) trong cộng đồng dân tộc Gia Rai và vài dân tộc khác ở Việt Nam. Ba chiếc chiêng này đều có núm, màu da cá trê, nhẹ, kích cỡ khác nhau. Chiếc ania có kích cỡ 58 cm, chiếc moong đường kính 36 cm. Người ta xếp chúng theo đường âm cách nhau 1 quãng năm đúng và 1 quãng bốn đúng như bộ chiêng t'rum. Bộ chiêng này có âm thanh trầm và vang, chỉ dùng để tạo tiết tấu, gây không khí cho lễ hội chứ không chơi giai điệu.
Người ta treo những chiêng này trên xà nhà, cách xà nhà khoảng 10 cm rồi ngồi xuống sàn mà đánh. Tay trái giữ thành chiêng, tay phải cầm dùi có đầu bọc vải đánh vào núm chiêng. Ngoài việc chơi giai điệu, tay phải còn có nhiệm vụ điều khiển tiếng chiêng ngân lên hay ngừng lại.
Nhìn chung người ta thường đánh chuông vang với trông lớn Hơgơr Prong, nhưng người đánh trống dùng đùi gỗ mềm để tạo ra âm thanh hòa điệu với loại chiêng này không giống cách đánh mà họ sử dụng trống khi diễn tấu với những nhạc cụ khác hay loại chiêng khác.
Bản nhạc mà người ta hay chơi với chiêng vang là bài "Cúng thần gươm".
 
-Hơgơr Prong là loại trống rất lớn, không định âm của các dân tộc ở Tây Nguyên. Người Ba Na gọi nó là hơgơr tăk hoặc p'nưng, người Gia Rai gọi là hơgơr prong hoặc hơge m'nâng, còn người Êđê gọi đơn giản là hơgơr. Tuy nhiên, loại trống này còn có một cái tên tượng thanh phổ biến là "đùng" (nhiều dân tộc gọi).
Hơgơr gồm các bộ phận chính như sau:
Thân trống: bằng gỗ lim, dâu; dài khoảng 1,5m; đường kính khoảng 1m và có 2 đầu rỗng. Thân trống hình trụ, đoạn giữa hơi phình ra, được làm từ 1 cây gỗ duy nhất.
Mặt trống: bịt da voi hoặc trâu hay loại da khác (nhưng phải là da của 1 con đực và 1 con cái để bịt hai mặt). Lớp da căng trên 2 đầu trống bằng đinh tre, gỗ đóng theo phương pháp nêm dăm rồi phủ trùm toàn bộ thân trống, đính chặt vào thân trống bằng những đinh tre nhỏ.
Dùi gỗ: dài khoảng 60 cm, đường kính 5 cm, đầu dùi bọc vải.
Trống hơgơr prong có âm thanh trầm, vang xa. Nó phụ trách những âm trầm, đánh điểm các phách mạch hoặc gây không khí, tạo cao trào trong dàn nhạc. Theo truyền thống, người ta treo hơgơr prong trên xà nhà, đặc biệt nếu là loại thiêng thì không bao giờ mang xuống đất sau khi đã treo lên. Chỉ có những người uy tín nhất trong bản làng mới có quyền sử dụng loại trống này. Nếu 1 người đánh thì chỉ đánh vào 1 mặt, còn nếu 2 người thì mỗi người đánh 1 mặt bằng dùi.
Người dân tộc thường sử dụng hơgơr prong trong lễ đâm trâu, lễ cúng thần gươm, lễ cúng cầu mưa và lễ Tết.
 
 Đàn đáy  Đàn hồ  Đàn môi  Đàn nhị  Đàn tam  Đàn tranh  Đàn tứ  Đàn nguyệt  Đàn sến  Đing năm  Đinh đuk  Đing ktút  Đuk đik  Goong 
   Phách  Pi cổng  Pí đôi / Pí pặp  Pí lè  Pí một lao  Pí phướng  Pơ nưng yun  Púa  Rang leh  Rang rai  Sáo H'Mông  Sáo trúc  Sênh tiền  Song loan
Ta in  Ta lư  Ta pòl  Tiêu  Tính tẩu  Thanh la  Tol alao  Tông đing  Tơ đjếp  Tơ nốt  Tam thập lục  Trống cái  Trống cơm  Trống đế  Trống đồng
 Trống Paranưng  T’rum  T'rưng  Tù và  Tỳ bà  Vang 


CON CHÁU ĐẢNG

Đâu tuổi trẻ anh hùng xưa đất Mẹ
Với tay không nhấc bổng cả đất trời,
Mộng vá trời, đầu đội đá nơi nơi,
Sinh khí mới đắp bồi bao mong đợi?
 
Đâu kiến thức hàn lâm luôn vươn tới?
Mà lù khù, lụ khụ nhậu quanh năm,
Mà ăn chơi thời “hiện đại”, lười làm
Thân bệ rạc, ngợm hay người, nhếch nhác?
 
Con cháu “bác” sao mà nhiều tiền bạc?
Cậy thế quyền bán cạn kiệt tài nguyên
Đứa bôi tro, kẻ trát trấu tổ tiên
Sông, núi, biển, bưng biền… giặc dần tiến.
 
Học chưng diện, ăn ngon thật lão luyện
Chuốc độc nhau, săn giết hết thú rừng,
Làm qua loa nhưng ăn nhậu tưng bừng
Ai giữ Nước phường mánh mung, hưởng thụ?
 
Biếng nhác học, xưng trời “con các cụ
Siêng ăn chơi phè phỡn, học đổi đời
Đảng buông lơi, đem trụy lạc gọi mời
Cơn Hồng Thủy trêu ngươi cả dân tộc!

Ý Nga, 16.11.2017
 
*BƯNG BIỀN: vùng đồng lầy ngập nước, nhiều cỏ



Khi Thơ Lên Tiếng

Thơ Phan Lạc Giang Đông
nhạc: Nguyễn Văn Thành
DanChuCa.org kính mời quý vị vào links sau đây để nghe bài hát :

Khi Thơ Lên Tiếng

DanChuCa đã phổ nhạc từ bài thơ cùng tên của Cố Thi Sĩ Phan Lạc Giang Đông.


Kính mời Quý Vị vào thăm trang nhà danchuca.org qua “link” sau đây:

Thưa Quý Vị và Các Bạn, Tôi sẽ tiếp nối những bài ca này cho đến bao giờ Tự Do trên quê tôi. Bạn bè ơi! Ta ca vang để nhắc hoài: sức mạnh ngày mai trong tay ta, chẳng ai ngoài!

Kính
DanChuCa.org

1.
Em hỏi tôi khi nào hạnh phúc?
biết trả lời sao khi chung quanh ô nhục?
biết nói sao khi những gì chân thực 
đều nín thinh như tĩnh vật ngoan hiền
Những tấm họa nào màu sắc đảo điên
những đoạn nhạc âm thanh nhạt thếch
người lương thiện trở nên ngờ nghệch
đứng bâng khuâng giữa cõi oán hờn.

Người cầm bút 
không cần biết thiệt hơn
Vũ khí chính là Thơ: lên tiếng
là việc làm biểu hiện
của vô vàn sắc mực đấu tranh

ĐK:
Ngọn bút thiêng vượt qua bao trở ngại
đồng hành cùng lịch sử yêu thương
Em yêu dấu ơi, từ khổ đau
Thơ Tôi Lên Tiếng
Thơ Chúng Ta Lên Tiếng:
Cứu Quê Hương!
 
2.
Em có thể yêu tôi
bởi vần điệu trong lành
bởi bề ngoài đỏm dáng
bởi kịch diễn
bởi những điều thế nhân nhàm chán
bởi ngôn từ ngọt lịm đường hương
Nhưng em ơi!
điều duy nhất phải hiểu nhau hơn
là bản chất
là tận cùng dưới đáy tim dũng cảm
 
Người cầm bút
đứng giữa vùng ánh sáng
viết nên hoa, nắng, trăng, sao
viết nên đời mới
gửi trao cho Dân Tộc con Người 
ĐK:

Khi Thơ Lên Tiếng
Phan Lạc Giang Đông
(Gởi Những Người Cầm Bút)

Khi tiếng ru bị cắt ngang âm điệu
khi tiếng võng đưa 
bi. ngưng lại bỗng dưng
khi tiếng than khốn khó trùng trùng
khi khói lửa ngút ngàn
khi bạo tàn ngự trị
khi trọc phú tỏ bản năng ích kỷ
khi lũ thấp hèn cơ hội lưu manh
khi trưởng giả
học làm sang
thở nọc độc hôi tanh
khi cái bụng to hơn óc não
khi khoa bảng ưa ngồi nói láo
khi chính trị sa-lông yêu nước đầu môi
khi diễn văn đọc mãi không thôi
nói điều giả che manh tâm lừa đảo
khi trắng đen mập mờ trâng tráo
thời suy vong ngôn ngữ - văn chương
khi những tên nhảy múa 
trên đau thương
khi quê hương – 
Tổ Quốc đau từng chặng
Suốt thế kỷ phủ đầy huyễn hoặc
Người dối Người
ma quỷ tự tim đen
khi vòng vây chủ nghĩa bóng đêm
khi mọi việc khởi đi 
từ bao điều tính toán
khi đạo lý thở dài ngao ngán
khi chữ yêu thương 
thành sáo ngữ vô tình
khi sự thực sợ ánh sáng bình minh
khi im lặng trở thành cần thiết
là khi đó Thi Ca hiểu biết
Phải Rất Cần Lên Tiếng Báo Nguy

*
Ở xa xăm vời vợi nghĩ suy
em hỏi tôi khi nào hạnh phúc
biết trả lời sao
khi chung quanh ô nhục
biết nói sao
khi những gì chân thực 
đều nín thinh như tĩnh vật ngoan hiền
những tấm họa nào màu sắc đảo điên
những đoạn nhạc âm thanh nhạt thếch
người lương thiện trở nên ngờ nghệch
đứng bâng khuâng giữa cõi oán hờn

Người cầm bút 
không cần biết thiệt hơn
Vũ khí chính là Thơ lên tiếng

Là báo động 
là việc làm biểu hiện
của vô vàn sắc mực đấu tranh

*
Em có thể yêu tôi
bởi vần điệu trong lành
bởi bề ngoài đỏm dáng
bởi kịch diễn
bởi những điều thế nhân nhàm chán
bởi ngôn từ ngọt lịm đường hương
nhưng em ơi
điều duy nhất phải hiểu nhau hơn
là bản chất
là tận cùng dưới đáy tim dũng cảm
Người Văn Nghệ
đứng giữa vùng ánh sáng
viết nên
hoa
nắng
trăng
sao
viết nên đời mới
gửi trao
cho Dân Tộc
Con Người
Nhân Loại

Ngọn bút thiêng vượt qua bao trở ngại
đồng hành cùng lịch sử
yêu thương

Em yêu dấu ơi
từ khổ đau
Thơ Tôi Lên Tiếng
Thơ Chúng Ta
Lên Tiếng
Cứu Quê Hương