Thursday, 27 March 2014

Sư ông Thích Nhất Hạnh

Mến gởi quý anh chị,
 
Để đáp lại thái độ bệnh vực Nhất Hạnh vì ông ta là , thì chúng ta nên xem lại ông ta có thật là 1 sư chân chính của Phật giáo hay không? 

Làm nhà sư chính thống thì phải, mà làm nhà sư chân chính thì nhất định không phải khi mà ông có vợ con, đi tuyên truyền nói sai quấy ngược lại ý muốn chung của dân tộc... kéo theo biết bao đau khổ, chết chóc của biết bao sinh linh...

Năm giới dành cho người tu tại gia, ông ta đã phạm hết 3, mà lại vi phạm kinh hoàng; trong khi đó so với trên 150 giới cho tỳ kheo thì ông ta không xứng là 1 Phật Tử bình thường, nói chi làm 1 thiền sư! thật mĩa mai thay.

Muốn tìm sự thật thì trước nhất mình phải có tâm tìm sự thật một cách khách quan, chứ không phải quá chủ quan vì thành kiến, vì cảm tình, vì cả nể cái tài cán, cái danh vị, tiếng tăm, cái hào quang, tài sản...mà hòng tìm ra chân lý, tìm ra mặt thật của vấn đề.

Chính vì biết dân mình hay cả nể những người tu hành mà những kẻ tu hành giả dối mới thích mượn chiếc áo cà sa để thực thi ý đồ bất chánh của mình. 

 Bây giờ đã mấy chục năm qua, sự thật đã hiển lộ, thế mà còn lắm người chưa chịu tỉnh ngộ mà trái lại còn nói phủ đầu người khác như thể bản thân họ là người tốt nên không thể nói xấu người khác, cho rằng  chỉ có kẻ xấu mới đi nói xấu người ta! Chuyện này quả là nhầm lẫn, bởi vì kẻ có trí huệ phải thấy rõ cái xấu lẫn cái tốt, người nói thật về cái xấu của kẻ khác không phải là người xấu mà trái lại là người tốt vì họ dám nói lên sự thật; lắm khi phải trả giá quá đắc cho việc dám phô bày sự thật ấy.
 
Bởi vì không nói ra, sẽ còn biết bao người tiếp tục nhầm lẫn, tiếp tục đi trong bóng tối, mù mờ không phân biệt trắng đen, thiện ác!
 
Nói ra để biết mà tránh thì không thể là người xấu, còn kẻ có cái nhìn thiển cận, xấu mà thấy tốt thì hậu quả khó lường cho chính bản thân mà còn liên lụy nhiều người quanh mình. Nội cái việc họ nhìn sai lệch như thế mà còn năng nổ đôi co, tranh biện...để mất hòa khí trong gia đình, gia tộc, bè bạn... cũng đã là 1 hệ quả xấu thấy rõ trước mắt rồi. Khiến những kẻ hiếu hòa, không muốn đôi co lại, vô hình chung, chấp nhận cái sai, cái quấy ngồi trên cái phải, cái đúng.
 
Bài này tương đối đầy đủ về hình ảnh một Nhất Hạnh mà mọi người nên biết.

Nếu ai thấy có chổ sai, cứ nêu ra và tìm tài liệu khác để làm chứng cứ cho lập luận của mình.
 
Cái nhìn về mọi sự kiện của mọi người không giống nhau, điều này tự nhiên thôi, tuy vậy không nên vì nó mà trở thành đối nghịch nhau.
 
Không ai có thể che giấu sự thật mãi mãi, có thể che được 1 lúc, hay che được một số người nhưng không thể che giấu tất cả mọi người một cách vĩnh viễn.
 
Một nhà sư (nuôi thân bằng của cúng dường của đàn na thí chủ, lý ra chỉ biết tu hành để dẩn dắt tín đồ tu hành) mà lại lén lút có vợ con, còn tính chuyện tạo 1 dòng tu cho phép các thầy tu có vợ con thì không thể nào là trưởng tử của Như Lai, nói cách khác, chỉ là phường giả dối, phá đạo mà thôi.
 
Việt Nam còn tồn tại hay không, còn tùy đa số người dân có nghiêng về sự thật và bảo vệ sự thật.
 

Đây là link, ai muốn biết nguồn gốc bài này thì vào đây:
 
 
 
Thiền Sư Nhất Hạnh là ai

Sàigon Echo sưu tầm       
 
Thiền Sư Nhất Hạnh tên thật là Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926 tại làng Minh Hương, quận Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên- Huế.  Bên nội của Thiền Sư gốc Thanh Hoá, phiá ngoại gốc quận Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
 
   Năm 1942, Nguyễn Xuân Bảo đi tu ở chùa Bảo Quốc, Huế.  Sau khi học xong phần Phật giáo cơ bản, được chuyễn qua chùa Từ Đàm rồi sang chùa Từ Hiếu để hoàn tất chương trình Phật học hầu trở thành Đại Đức do Hoà Thượng Thích Nhất Định chủ trì.  Sau đó ông theo học bậc trung học tại Huế.
 
Năm 1956, Thiền Sư vào Sàigòn học tại đại học văn khoa và tốt nghiệp cử nhân năm 1959.

Năm 1961, Ông được chính phủ Ngô Đình Diệm cho xuất ngoại du học tại Princeton University của tiểu bang New Jersey Hoa Kỳ.

 
Sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật đổ vào ngày 1-11-1963 thì chuyện tranh chấp nội bộ Phật giáo xảy ra giữa khối Ấn Quang và Việt Nam Quốc Tự do Thượng Toạ Thích Tâm Châu lảnh đạo.
Để tạo uy thế cho chính mình, năm 1964, TT Thích Trí Quang đã mời Đại Đức Thích Nhất Hạnh về nước để giúp ông thống nhất Phật giáo và tìm hướng đi cho tương lai.
 
Khi về nước, ông giảng dạy tại đại học Vạn Hạnh. Tại đây, đại đức đã không dạy cho đàng hoàng nhưng lại vừa giảng bài, vừa đảo mắt liếc tình, phải lòng sinh viên Cao Ngọc Phượng, người tỉnh Bến Tre. Cô sinh viên nầy bèn tâm đầu ý hợp vào chùa tu với thầy.  Vì chỉ mới xảy ra lần đầu trong đời, tim đập loạn xạ bởi qúa hồi hộp, cô đã để quên đôi dép Nhật bên ngoài, phải đi vào Chân Không.
 
Năm 1965, Chân Không tiếp tục thọ giới tiếp hiện với Đại Đức tạo nên một đứa con trai.  Từ đó, ông tự gọi mình là Thiền Sư mà không còn là Đại Đức, Thượng Tọa nữa; nhưng mới đây khi về Việt Nam vào năm 2008, tự phong mình là Hoà Thượng, có lộng trướng đưa rước đàng hoàng !
 
Năm 1968, Cao Ngọc Phượng đi Chân Không sang Pháp thọ giới vĩnh viễn với TS tại làng Mai, toạ lạc ở Meyrac Loubes Bernac, 47120 Duras phiá nam nước Pháp. Ngoài ra, họ còn có ba thiền viện khác là chùa Pháp Vân, chùa Từ Nghiêm và chùa Cam lộ. 
    
Thiền Sư được mọi người biết đến từ năm 1964 khi xuất bản cuốn Phật Giáo Ngày Nay.  Tên tuổi của Thầy được giới văn học Miền Nam xếp chung trong nhóm Thiền Vi của các nhân văn trong phong trào Phật Giáo đương thời; nhưng hào quang nầy đã sớm vụt tắt khi ông đã hiện nguyên hình một sư không bình thường trong những bài viết và bài giảng thuyết sau nầy.
 
Vào đầu năm 1966, Đại Đức Nhất Hạnh được Thượng Tọa Trí Quang phái ra ngoại quốc kêu gọi chấm dứt chiến tranh , lập chính phủ hoà giải hoà hợp mà môi trường hoạt động đầu tiên là nước Pháp.   Xin nghe ông nói :

" Tôi rời đất nước năm 1966, vào tháng 5.  Lúc đó chiến tranh Việt Nam đã đi tới mức khủng khiếp.  Tôi nghĩ rằng mình phải ra đi để cất lên tiếng kêu gọi hoà bình.  Tôi chỉ muốn đi vài tháng thôi rồi về.  Lúc đó trường đại học Cornell ở Ithaca mời tôi qua để giảng  một loạt bài về tình hình ở Đông Nam Á.  Người đứng ra mời là giáo sư George Kahin, giáo sư chính trị học ở tại trường Cornell. Tôi đi ra để nói rõ là dân VN không muốn đánh nhau nữa, chỉ muốn ngồi xuống thương thuyết với nhau để đi tới một giải pháp hoà bình và các cường quốc trên thế giới đừng dùng VN làm một chổ để để tranh dành ảnh hưởng nữa, đừng sử dụng ý thức hệ cũng như bom đạn trên đất nước nhỏ bé đó...
 
Trong qúa trình vận động hoà bình nầy, tôi được báo tin rằng chính quyền Việt Nam không muốn cho tôi về nữa.  Vì vậy tôi đã bị lưu đày từ tháng 5 năm 1966 đến bây giờ...
Tôi bị lưu đày vì đã dám cất lên tiếng kêu gọi hoà bình..."
 
Qua đoạn văn trên, rõ ràng Nhất Hạnh vờ giả dạng kẻ ngây thơ bởi với kiến thức như Thiền Sư, ông đã rõ cuộc chiến nầy phát xuất từ Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế mà Hồ Chí Minh là người thừa hành để xâm lăng miền Nam. Vậy muốn chấm dứt chiến tranh, kêu gọi hoà bình phải yêu cầu kẻ gây chiến Cộng Sản Hànội dừng tay lại.  Đằng nầy ông làm ngược lại, kêu gọi người BỊ xâm lăng NGƯNG chống đở kẻ XÂM LĂNG!

Lúc bấy giờ, năm 1966, Pháp là thiên đường của nhóm Tướng Tá lưu vong chính trị của Miền Nam được Tướng Charles de Gaule gom lại để đánh phá VNCH và trợ giúp Hànội để trả thù Hoa Kỳ và chính phủ Ngô Đình Diệm đã đuổi Pháp ra khỏi Miền Nam.
 
Cuối tháng 5 năm 1966 khi ông đang thuyết trình ở Pháp thì tổ chức Fellowship for Reconciliation và Cornell University ở New York, một tổ chức phản chiến Mỹ, mời qua Hoa Kỳ.
 
Ngày 1-6-1966, ông tuyên bố một bản tuyên cáo nói lên lập trường 5 điễm của Giáo hội Phật Giáo Ấn Quang gồm:

   - Yêu cầu chính phủ Nguyễn Cao Kỳ từ chức,
   - Quân đội Mỹ rút khỏi Miền Nam VN,
   - Ngưng oanh tạc Bắc Việt
   - và ngưng các cuộc hành quân ở Miền Nam. 
   - Mỹ phải giúp lập chính phủ dân chủ và tái thiết Miền Nam

Rập khuôn đòi hỏi 5 điễm của Cộng sản Bắc Việt qua cái gọi là Mặt trận giải phóng Miền Nam (MTGPMN.
 
Ngày 2-6-1966 ông được đưa vào trình bày trước Thượng Viện Hoa Kỳ với nội dung tố cáo Mỹ và VNCH đã gây ra thãm họa tại VN, bị nhân dân bản xứ chống đối một cách mạnh mẽ?!  Đúng là Thiền Sư nầy vừa ăn cướp vừa la làng !
 
Đến đây mới thấy bài viết Sleeping with the enemy của đương kim Thượng nghị sĩ James Webb của tiểu bang Virginia qúa chính xác. Ông viết: cũng không hiễu được tại sao lại có những kẽ với trình độ học vấn cao, đa số sinh ra từ gia đình thượng lưu lại có thể gieo rắc những tư tưởng phá hoại làm nhiễm độc bầu không khí của thập niên 1960 và những năm đầu của thập niên 1970.  Ngay cã Quốc Hội cũng bị nhiễm con vi khuẫn nầy.
 
Để trả lời câu hỏi: ....không hiễu được tại sao, thì xin thưa với TNS tiểu bang Virginia rằng vì ông tăng phản Phật, phản Đạo, phản Dân Tộc nầy .
 
Năm 1967 ông cho xuất bản cuốn Viet Nam, lotus in a sea of fire, a Buddhist proposal for Peace- Việt  Nam, hoa sen trong biển lửa, một đề nghị hoà bình của Phật Giáo.  Sách nầy đề cập đến cuộc đấu tranh của Phật giáo từ 1963 đến 1966 cũng như những chết chóc, tang thương do quân đội Hoa Kỳ và Miền Nam gây ra ?!
 
Ông lên án chính phủ Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo và Nguyễn Cao Kỳ độc tài, quân phiệt.  Ông cho MTGPMN là do những người Quốc gia lập ra để chống ông Diệm, không phải do từ Hànội, nhưng vì Mỹ đổ quân vào Miền Nam nên họ nghiêng về phía Cộng sản !.  Ở phần cuối để lộ sự mâu thuẩn, lắt léo khi ông trích dẫn lời Lê Duẩn tuyên bố trong đại hội đảng kỳ 3 năm 1960: Đảng ta lảnh đạo mặt trận !
 
Điểm đặc biệt nhất trong cuốn sách nầy ở trang 52 dòng 20, 21 và 22 ông viết: In the minds of the Vietnamese people in general, Ho Chi Minh was a national hero who had led their struggle against the FrenchTrong đầu óc của người dân Việt Nam nói chung, Hồ Chí Minh là vị anh hùng dân tộc đã lảnh đạo cuộc tranh đấu chống Pháp.  Qua câu nầy, nhận thấy ông không dám trực tiêp nói HCM là vị anh hùng mà chỉ  mượn từ ngữ "người dân" để nói thay cho mình, nhưng ở đầu trang nầy lại chạy một tít lớn đánh máy bằng chữ hoa: HO CHI MINH, A NATIONAL HERO.
 
Đây là TIỂU XẢO rất thường thấy của NHẤT HẠNH trong các tác phẩm của ông !

Ông có biết đấu tranh dành độc lập theo kiễu cộng sản chỉ có xảy ra ở Việt Nam đã đưa dân tộc nầy đến ngày hôm nay đi về đâu? Tất cả những chết chóc, tang thương, đau khổ tinh thần lẫn vật chất về mọi phương diện, ông phải chịu trách nhiệm trước lịch sử.
 
Để hợp thức hoá tình trạng phá giới của mình, ông đã đưa ra một phương thức tu tập mới để thanh minh hành động của mình bằng cách ra cuốn Phật Giáo Hiện Đại Hoá xuất bản tại Sàigòn vào tháng 5-1965. 
 
Ngày 11 tháng 9 năm 2001 là ngày mà Hoa Kỳ và cả Thế giới sửng sốt và đau thương vì khủng bố đã dùng phương tiện của chính người Mỹ đánh sập toà tháp đôi tại New York khiến trên 3000 người bị chết thảm, Nhất Hạnh phải là người cầu kinh để chia xẻ niềm đau thương nầy, trái lại, vào ngày thứ ba, 25-9-2001 lúc 7 giờ chiều, ông đến Riverside Church ở thành phố New York kêu gọi hoà giải với  những tên khủng bố, lại còn quảng cáo rùm beng trên tờ New York Times nguyên 2 trang A 5 và A 22 tốn hết 45,000 USD; trong đó có đăng câu trả lời của ông do ký giả Anne A Simpkinson hỏi, ông nói: trong vụ Mậu Thân 1968, chỉ có vài tên du kích bắn vu vơ, lập tức Mỹ đem bom tới dội, tàn phá thành phố Bến Tre làm hư hại 300,000 căn nhà.  Đây là đoạn văn được đưa lên tờ New York Times số ra ngày 25-9-2001, có cả hình ông ngồi chắp tay như đang cầu nguyện !
 
Sự thật thì trong vụ Mậu Thân 68, VC đã tấn công Thị xã Trúc Giang của tỉnh Bến Tre vào lúc 3 giờ sáng rạng ngày mồng 3 Tết âm lịch. Chúng đã pháo vào toà Hành Chánh tỉnh và Bản Doanh trung đoàn 10 của sư đoàn 7 bộ binh rất ác liệt nhưng không chiếm được.  Đến 10 giờ sáng,  2 tiểu đoàn 3 và 4 của trung đoàn 10 BB chiến đấu dũng cảm trong thị xã và đã đẩy lui được VC ở khu vực Toà Hành Chánh, Bản Doanh Trung đoàn và bệnh viện thị xã.  Các khu vực thương mãi, VC vẫn chiếm giử các cao ốc, trừ đài phát thanh.    
 
    Đến chiều, 2 tiểu đoàn thuộc lử đoàn 2 bộ binh Hoa Kỳ tăng viện.  Vào ngày mồng 4 tết, VC bỏ chạy để lại trận địa 300 xác và hơn 100 vũ khí đủ loại.  Phía thuờng dân có 90 người chết và 50% nhà cửa bị hư hại. Chợ Thị xã Trúc Giang bị hủy hoại hoàn toàn.  Tham dự trận đánh nầy, VC đã huy động 2000 lính chiến đấu gồm 2 tiểu đoàn tân lập 3 và 4, hai đại đội địa phương, nhiều trung đội du kích và dân quân.  Thế nhưng Nhất Hạnh đã ăn gian, nói dối với báo chí quốc tế với dụng ý bôi nhọ quân đội Mỹ và quân lực VNCH.  Trong khi đó tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế là sinh quán và nơi tu học Phật Pháp của ông, trong vụ Mậu Thân đồng bào của ông đã bị VC chôn sống, bị chém giết dã man, ông không lên án hành động bất nhân nầy cũng như chẳng có một lời phân ưu, chia buồn đến đồng hương của mình ! 
 
Trước năm 1975, Nhất Hạnh đã tuyên truyền rầm rộ khích động phản chiến, ngụy hoà Mỹ giúp Hànội thành công. Ngày nay ông kêu gọi hoà hợp để đưa Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vào giáo hội quốc doanh Phật Giáo Việt Nam.
 
Năm 1981, sau khi thanh toán xong tổ chức Phật giáo Ấn Quang, Hànội một mặt huấn luyện khoảng 5000 công an được phân phối để kiểm soát hầu hết các chùa và các tổ chức Phật giáo trong nước, mặt khác cho phát triển phong trào Phật học và tập thiền.  Đã có bốn học viện lớn được dùng để huấn luyện Sư quốc doanh và thiền. 
 
   Đó là học viện Phật giáo Việt Nam và thiền viện Vạn hạnh ở quận Phú nhuận, thiền viện Trúc Lâm ở thành phố Đàlạt, thiền viện Phật giáo Huế và thiện viện Phật giáo Việt Nam ở chùa Sứ quán tại Hànội.
 
Trong khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không ngừng lên án Hànội đàn áp Phật giáo và đòi trả tự do cho Đức Tăng Thống Huyền Quang và Hoà Thượng Quảng Độ, thì vào năm 2002, Hồng Quang, người lảnh đạo nhóm Giao Điễm ở hải ngoại được mời về Việt Nam tham dự đại hội Phật giáo quốc doanh toàn quốc lần thứ V được tổ chức tại Hànội vào ngày 4 và 5-12-2002.  Trong bài tham luận, ông tuyên bố: Không có nhân quyền nào bằng quyền tự chủ để độc lập, tự cường để tồn tại. Không có tự do nào bằng tự do vượt ra khỏi sức ép của ngoại nhân.  Với lập luận nầy, ông gián tiếp cho phong trào đấu tranh tự do tôn giáo của Phật Giáo Ấn Quang và các tổ chức khác ở hải ngoại là sai lầm, chỉ có giáo hội quốc doanh là đi đúng hướng.  
 
Độc lập và tự cường của Hồng Quang là loại độc lập và tự cường của 2 triệu đảng viên Cộng Sản đối kháng lại ý niệm độc lập và tự cường của dân tộc Việt Nam vốn có trên bốn ngàn năm lịch sữ; trong đó, có một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, tám mươi năm giặc Pháp cai trị, vẫn chưa đến nổi qúa thê thảm như dưới chế độ Cộng sản ngày hôm nay. Các chế độ đó chưa đấu tố chết 178,000 người Việt Nam ở Miền Bắc,  chưa chôn sống hàng trăm người  như vụ Mậu Thân tại Huế,  phẫm gíá phụ nử Việt Nam chưa qúa tồi tệ nhục nhả như bây giờ, chưa lấy quốc nạn tham nhủng làm lẽ sống cho đảng mình hưởng sự phè phởn trên thảm trạng nghèo đói của dân tộc và chưa có hàng triệu người Việt Nam bỏ nước ra đi trên những chiếc ghe thuyền mỏng manh, vượt đại dương tìm cái sống trong cái chết !
 
Mọi người từ lâu đã  thừa hiểu nhóm Giao Điễm là cộng sản trá hình, pha lẫn với những Phật tử qúa khích, thiển cận ở hải ngoại mà công tác chính là đánh phá Vatican (vốn luôn đề cao quyền làm người của mọi dân tộc trên Thế giới và bênh vực kẻ bị áp bức trong bất cứ chế độ chính trị nào) , đánh phá Công giáo Việt Nam, gây đố kỵ, chia rẽ giửa Phật giáo và Thiên Chúa giáo, lôi kéo khối Ấn Quang sáp nhập vào Phật giáo quốc doanh. Mục đích tối hậu của họ là tạo thành trì bảo vệ chế độ.
 
Năm 2004 Hànội mời TS Nhất Hạnh về nước để tiếp nối việc làm của Hồng Quang hầu chứng minh cho thế giới biết VN có tự do tôn giáo, vừa gây chia rẽ nội bộ Phật giáo ở trong nước và hải ngoại.
 
Nhận lời mời, ngày 12-01-2005, vừa bước xuống phi trường Nội Bài cùng với 100 đệ tử thiền sinh, Hànội cử một đội ngủ đông đảo tiếp đón sư ông, sư bà, có rắc hoa thơm trên lối đi, có phóng viên đến phỏng vấn và đưa lên mạng liền. Dịp nầy  ông được đi giảng thuyết nhiều nơi và tiếp xúc với nhiều người. Tại Thanh Minh Thiền Viện ở Sàigòn, Sư bà Chân Không được cử đến trước để thăm dò, nhưng Hoà Thượng Quảng Độ từ chối.  Tại chùa Già Lam, được Trí Quang tiếp trong 40 phút, nội dung chuyện trò được giử kín.
 
Ông đã lưu lại VN trong 3 tháng để thuyết pháp và tổ chức trai đàn (cầu nguyện cho những vong linh đã nằm xuống trong cuộc chiến) nhưng bên trong ông đã nhận sứ mệnh vận động nhóm Phật giáo Ấn quang gia nhập vào Phật giáo quốc doanh của Hànội.
 
Dịp nầy, Ông cũng đã hướng dẫn 100 thiền sinh lên Lâm Đồng được Thầy Đức Nghi- Phật giáo quốc doanh- đón tiếp long trọng.
 
Thầy cao hứng tuyên bố: Rất tâm đắc với những tác phẫm của TS Nhất Hạnh.  Thầy muốn khôi phục lại trường thanh niên phụng sự xã hội do TS thành lập vào năm 1964 trước đây. Pháp môn làng Mai thích hợp với đồng bào Việt Nam và Thiền sư là người yêu nước, có lòng tôn vinh đạo pháp và dân tộc !  Vì thế, thầy cúng dường tu viện Bát Nhã cho Thiền Sư !  Qúa đả !!!
 
Tháng 1 năm 2006 tại làng Mai ở Pháp, thầy Đức Nghi được Thiền Sư truyền đăng đắc pháp, trở thành thọ giáo làng Mai và là đệ tử ruột của Sư Ông Nhất Hạnh.
 
Đầu tháng 5-2007, Thiền Sư được Chủ Tịch nước Nguyễn Minh Triết tiếp tại phủ Chủ tịch  ở Hànội.
     
Ngày 7-7-2007, Ban Tôn Giáo chính phủ cho phép các tu sinh tu viện Bát Nhã được tu học theo pháp môn làng Mai. Tại đây có 250 tăng ni và 100 tập sinh xuất gia tu học và sinh hoạt thường xuyên gồm có các lớp tu học hàng tháng, hàng năm.
 
Ngày 18-6-2008, Thiền Sư lại lên tu viện Bát Nhã nói chuyện với các đệ tử với đề tài: Thầy căn dặn.  Sau đó thầy Đức Nghi cắt đầu, cắt đuôi chỉ còn lại trong 5 phút và cho là Thiền Sư đã coi thường nhà cầm quyền và giáo hội Phật Giáo địa phương, vi phạm quy chế giáo hội Phật giáo Việt Nam (quốc doanh).
 
Ngày 29-10-2008, ông Nguyễn Thế Doanh, trưởng ban tôn giáo chính phủ đã tố cáo: Ba lần về VN, tăng thân làng Mai từ Pháp đã tấn phong giáo phẫm mà không thông qua GHPGVN, đề cập sai lệch vấn đề chính trị trong nước, đưa lên mạng một số tin tức sai sự thật tại VN, vi phạm luật pháp VN.
 
Ngày 13-11-2008, công an Lâm Đồng cưởng bách trục xuất 400 đệ tử xuất gia tu học theo môn pháp làng Mai ra khỏi tu viện Bát Nhã bao gồm cả tu sĩ ngoại kiều và 40 ni cô tại Huế.
       
Sợ dư luận trong và ngoài nước lên án, ngày 19-11-2008, một hội nghị Phật giáo quốc doanh bất thường được tổ chức tại Sàigòn có sự hiện diện của ông Bùi Hữu Dược, vụ trưởng vụ PG từ Hànội vào, một đại diện PG trung ương và một đại diện PG  Lâm Đồng, đã đưa ra quyết định như sau: Mọi người có thể tiếp tục tu học. Tăng thân làng Mai ai chưa có đầy đủ giấy tờ, cần bổ túc. Ai quậy phá sẽ xử lý.  Về tài sản hai bên làng Mai và Bát Nhã tự giải quyết hay nhờ pháp luật can thiệp..
 
Ngày 27, 28 và 29 tháng 6 năm 2009, độ 200 thanh niên thuộc xã hội đen kéo đến thiền viện Bát Nhã đập phá nhà bếp và vất nồi, niêu, soong, chảo, gối ngồi thiền, mền chiếu, sách kinh ra bên ngoài . Điện, nước và điện thoại đều bị cúp.
 
Thiền Sư Nhất Hạnh, một con người dùng tâm địa và miệng lưởi của mình để tuyên truyền cho cộng sản ở hải ngoại hầu giựt sập chế độ VNCH, gây tang thương, đau khổ cho dân tộc VN đến ngày hôm nay.  Sau năm 1975, ông chưa dừng tay lại, vẫn còn tìm cách triệt hạ GHPGVNTN bằng cách vận động cho giáo hội nầy sáp nhập vào giáo hội Phật Giáo quốc doanh.
 
Với một con người mặc áo cà sa nhưng đã phạm qúa nhiều tội lổi với dân tộc VN, với Đức Phật, với Đạo Pháp.  Tội phản Phật, phản Đạo, phản Đời, phản Dân tộc rất khó rữa sạch. Một Jane Fonda phản chiến sang Hànội kết tình đồng chí và hổ trợ tuyên truyền cho cộng sản Bắc việt trong chiến tranh Việt Nam, cô không ăn chay, không tụng kinh ngày nào, nhưng nay đã tỏ ra hối hận vì hành động khờ dại trước đây của mình. Còn Thiền Sư chưa thấy có chuyển biến rỏ rệt.
  
Để chuộc lại lỗi lầm tày trời trước đây trong lúc gần đất xa trời, thiết tưởng Thiền Sư cần phải đi vận động các tổ chức nhân quyền, các nhà lập pháp, các tổ chức phi chính phủ trên thế giới đòi hỏi cộng sản Hànội hảy trả quyền tự quyết dân tộc lại cho nhân dân Việt Nam và phải làm ngay tức khắc bây giờ kẻo đã qúa muộn !.   Đó là luật công bằng phải trả và phải thực hiện.
 
Nếu coi thường luật nhân qủa và thuyết luân hồi của triết lý Nhà Phật thì sợ rằng kiếp sau sẽ không còn được ở dưới mái nhà, dù chỉ là túp lều mái tranh, vách đất đơn sơ nơi thôn dã; chừng đó, coi kỳ lắm, thưa Thiền Sư !
      
Giống như Thiền Sư, hai ông Phan Khắc Từ và Nguyễn Ngọc Lan quậy nát Sàigòn trước năm 1975.
 
Ông Lan ra tờ Đối Diện đả kích chính quyền.  Mỗi lần xuống đường biểu tình, ông mặc áo dòng đen có băng vải trắng, choàng qua vai, xuống ngực đề dòng chữ:  Cấm bịt miệng dân.  Đi bên cạnh ông là nử phóng viên trẻ, môi đầy son phấn; khi thấy Cảnh Sát đến, cô nầy dẫn ông vào đường hẽm, mất dạng.
 
Ông Phan Khắc Từ ở tại họ đạo Vườn Xoài.  Ông tình nguyện làm phu hốt rác của Sở Vệ Sinh Đô Thành để có môi trường quậy. Ông thường tham gia chống đối chính quyền, đòi dân sinh, dân chủ !
 
Sau năm 1975, hai ông đều ra ứng cử dân biểu quốc hội khoá I và đắc cử.  Cả hai cũng đều phá giới, nhưng ông Lan có xin phép Cha Giám Tỉnh Dòng (dòng Chúa Cứu Thế), còn ông Từ âm thầm xé rào !
 
Sau nầy ông Lan biết hối hận, ủng hộ phong trào đấu tranh trong nước.  Vào dịp đám tang ông Nguyễn Văn Trấn (một cán bộ CS giác ngộ),  ông đã chở Linh Mục Chân Tín đến nơi tang lễ, nhưng đã bị hai người đi xe đạp đạp vào xe Honda khiến ông bị té, đầu đập xuống lòng đường. Từ đó, ông sống âm thầm cho đến khi mản phần, cách đây vài năm.
 
Riêng ông Phan Khắc Từ, Vi Xi tặng ông một khách sạn. Hiện nay ông có nhiều quyền lực trong công giáo quốc doanh mà người ta thường gọi đùa tại Sàigòn hiện nay có hai Tòa Tổng Giám Mục, toà kia là toà tổng giám mục Vườn Xoài !
 
Trước mặt Thiên Chúa Toàn Năng, ông là một giáo gian bán Chúa, phản Đạo, phản Đời. 
    
***
Bài Học cho Thiền Sư Nhất Hạnh

Bắt đầu từ thứ Bảy, 27 tháng Sáu, và kéo dài đến khuya 28, rạng sáng 29 tháng Sáu, nhân chứng nói rằng thanh niên xã hội đen, có khi lên đến 200 người, kéo vào đập phá và đòi đuổi khoảng 400 tăng sinh đang tu tập theo pháp môn Làng Mai tại tu viện Bát Nhã, xã Dambri, thị xã Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.

Họ quăng hết đồ đạc của người xuất gia ra khỏi khu nhà “Tâm Ban Đầu.” Họ phá cả bếp nấu ăn của các thầy. Đồ ăn đang nấu sẵn thì họ quăng ra ngoài. Cả soong, nồi, chảo, gối ngồi thiền, quần áo.

Một người tại đây nói rằng các tăng sinh và cả giáo thọ đang lâm vào “ngõ cụt.”

“Sự việc bắt đầu vào khoảng 10 giờ sáng. Hơn 200 người phía bên kia, kéo vào.

Thái độ của họ rất hung hăng, họ đòi đập phá và đuổi các thầy ra khỏi chùa. Họ lấy lý do chúng tôi là người nước ngoài, nhưng thật ra tất cả tu sĩ ở đây đều là người Việt Nam, đến tu học theo lời kêu gọi của Thượng Tọa Đức Nghi.
 
Chúng tôi về đây tu tập theo Pháp Môn Làng Mai. Đến hôm nay thì chúng tôi gặp khó khăn và họ muốn đuổi chúng tôi. Họ đến rất đông, có cả thanh niên xã hội đen.
 
Họ quăng hết đồ đạc của người xuất gia ra khỏi khu nhà “Tâm Ban Đầu.” Họ phá cả bếp nấu ăn của các thầy. Đồ ăn đang nấu sẵn thì họ quăng ra ngoài.
 
Đến trưa ngày thứ Hai, 29 tháng Sáu, thì người tu tập tại tu viện Bát Nhã lâm vào “tuyệt lộ:” không điện, không nước, không điện thoại, đặc biệt nước uống bắt  đầu cạn dần trong khi các tiếp tế của Phật Tử địa phương thì bị ngăn cản.
 
Tin tức chính thức từ Bát Nhã Tu Viện gửi đi lên liên mạng toàn cầu kêu gọi:
 
Xin tất cả đại chúng khắp nơi cùng hỗ trợ năng lượng chánh niệm xua tan màn vô minh đen tối đang trùm khắp tu viện Bát Nhã. Chúng tôi những Phật tử trẻ không khỏi bàng hoàng khi hay tin hơn 400 quý thầy, quý sư cô đang bị cô lập hoàn toàn trong tu viện bởi một nhóm người lộng hành được bao che bởi một thế lực bên ngoài. Họ vô tâm đàn áp, quăng ném tất cả giường, chiếu, mùng mền, kinh sách.. ra sân, tịch thu tất cả thực phẩm, cắt toàn bộ điện, nước, đập phá máy phát điện, cắt đường dây điện thoại, internet, khóa tất cả cửa không cho ra ngoài...
 
Trong ba ngày qua, từ chủ nhật 28/6 đến hôm nay thứ ba 30/6, quý thầy quý sư cô phải sống trong cảnh không đèn, không nước, lương thực, thức uống cạn kiệt. Mọi sự hỗ trợ từ bên ngoài đều vô vọng bởi vì con đường độc đạo từ Bảo Lộc dẫn vào Bát Nhã đều có những thanh niên chặn xe, kiểm tra...Một số vị tăng ni, Phật tử, phụ huynh các thầy, sư cô trẻ vì nóng lòng lên Bát Nhã tiếp lương thực đều bị tấn công từ một nhóm khoảng 50 đến 200 thanh niên, phụ nữ ném đá, ném phân bò, gậy gộc vào xe...Họ thẳng tay đánh đập nếu vẫn ngoan cố vào tu viện, thực phẩm chưa kịp trao cho tu viện đã bị họ xé, quăng ném. Họ canh giữ ngày đêm xung quanh tu viện không cho bất cứ người nào được ra hay vào. Với những gì xảy ra hôm nay, chúng tôi thật sự quá đau lòng, chỉ cầu mong sự gia trì của chư Phật, chư Bồ Tát, chư vị Tổ sư và tất cả sự đồng tình ủng hộ khắp nơi đến với tăng thân Bát Nhã trong cơn nguy kịch này.
 
Quý thầy, quý sư cô tại tu viện Bát Nhã đều là những vị có tuổi đời còn rất trẻ, đang mang trong người một trái tim phụng sự vì đạo Pháp, vì chúng sanh, vì dân tộc.

Qúy thầy, quý sư cô đã bỏ tất cả những xa hoa, cắt dứt mọi sợi dây ràng buộc chỉ với một mục đích giải thoát cho bản thân và cho mọi người. Hôm nay trong tình thế nguy cấp như thế này nhưng tăng thân Bát Nhã không dùng bạo động để chống trả bạo động. Tất cả đều ngồi yên trong Định tạo ra một năng lượng tình thương. Năng lượng tình thương này sẽ chuyển hóa được hận thù của những người có ác tâm. Mong muốn lòng từ bi dần thấm vào tâm của họ.
 
Chúng tôi, những Phật tử trẻ mong sự ủng hộ của tất cả mọi người trên thế giới lên tiếng nói chung để giúp đỡ tăng thân Bát Nhã qua cơn nguy biến này. Xin đồng cầu nguyện để tạo nên một năng lượng tình thương chuyển hóa mọi bạo động.

Một sư cô biết rất rõ quá trình thành lập tu viện Bát Nhã, hiện đang ở Huế, nói rằng văn thư mới nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ban hành có thể xem là dấu chấm hết cho sự hiện diện của tăng sinh theo pháp môn Làng Mai tại tu viện Bát Nhã.
 
Sư cô Thoại Nghiêm cho biết: “Trong văn thư mới nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam do thầy Thiện Nhân ký cũng có thể xem là lời khai tử sự hiện diện của mình ở đó. Nội dung có phần: các vị đã đăng ký thì cho ở tu học, chờ thời gian di chuyển đến chỗ mới. Các vị chưa đăng ký nhưng tu học đàng hoàng thì cũng tạo điều kiện tu học, chờ thời gian di chuyển đến chỗ mới.
 
Vậy là rõ ràng thầy Đức Nghi không cho mình ở đó nữa. Nhưng chờ thời gian di chuyển đến chỗ mới, thì chỗ mới là chỗ nào, thời gian nào thì di chuyển, không ai giải quyết. Cũng xin thưa rất rõ, mình đã đầu tư tất cả niềm tin, tiền bạc vào đó rồi bây giờ lấy đâu ra chỗ khác?
 
Tu viện Bát Nhã được xây dựng theo ý tưởng của thiền sư Nhất Hạnh. Theo đó, ông kêu gọi những ai muốn tu tập theo pháp môn Làng Mai tại Việt Nam thì xây dựng cơ sở vật chất, và phía Làng Mai sẽ cung cấp giáo thọ để giảng dạy.

Tu viện Bát Nhã là cơ sở đầu tiên ra đời theo ý tưởng này. Thầy Pháp Hội nói rằng “Thượng tọa Đức Nghi là người đầu tiên phát tâm cúng dường cơ sở có sẵn để phát triển thêm. Giờ đây đã phát triển rất nhiều lần, nhưng nay thì Thượng Tọa Đức Nghi đổi ý, muốn đuổi tất cả tu sĩ nước ngoài.”
 
Ngoài những vấn đề rất rắc rối xung quanh yếu tố pháp lý liên quan đến cơ sở vật chất, chủ sở hữu quyền sử dụng đất đai trên đó xây dựng tu viện Bát Nhã, tiền bạc được đầu tư để xây dựng tu viện, vân vân, thì có ý kiến cho rằng tư thế của Làng Mai có thể là nguyên nhân sâu xa của vấn đề.
 
Đây quả là bài học quý giá cho các tôn giáo,những ai chủ trương mang " Chúa Phật" ra thỏa hiệp với bọn quỷ đỏ. Một chân lý bất biến muôn thuở là thiện và ác không " đội trời chung " !
  
Hí hửng với VC Nguyễn Minh Triết
 
 
Sự phản bội của thiền sư Thích Nhất Hạnh
Phạm Cố Quốc 

 
Lời tác giả: Bài viết này được lược trích từ bài "Sự Thật Che Giấu Sự thật" và đổi lại tựa đề cho đúng với hoàn cảnh thực tại của Sư ông Nhất Hạnh. Sư ông Nhất Hạnh đã phản bội lý tưởng của ông ta qua hai hành động về Việt Nam để:

1) Giải độc cho CSVN trong thời điểm mà thế giới lên án CSVN đang khốc liệt đàn áp Tôn giáo, và

2) Bành trướng môn phái Tu sĩ có quyền lấy vợ.
 
Người viết xin được đưa ra một số sự thật như sau:
 
Sự thật về sự khủng bố:

1)  Vào ngày 11.9.2001, đã có trên dưới 7 ngàn dân Mỹ và các dân khác trên thế giới đã bị thiệt mạng dưới những khối bê tông cốt sắt khổng lồ tại Nữu Ước và Ngũ Giác Đài – Đó là sự thật!

2)  Qua quá trình điều tra của cơ quan FBI, chính thực rõ ràng tên trùm khủng bố Osama Bin Laden và đồng bọn đã trực tiếp gây ra vụ thảm sát đẫm máu này – Đó là sự thật!

3)  Nếu vì lý do bất đồng chính kiến với một thể chế chính trị nào đó, Laden có thể nhắm ngay đầu não của một chính quyền, là một chuyện khác; nhưng thật sự Laden đã cố tình giết hại những người dân vô tội tại Trung tâm Mậu dịch Quốc tế. Rõ ràng Laden và đồng bọn là những tên sát nhân, mất hết lương tri, cố tình diệt chủng, không thua gì Cộng sản Việt Nam– Đó là sự thật!

4)  Chính quyền Taliban đã đập nát tất cả những tượng Phật, di tích Phật giáo có tầm cỡ lịch sử, hủy diệt một nền văn hóa có tự ngàn xưa, đã chứng tỏ cho thế giới thấy được sự thật về những hành động dã man của bọn chúng. Thể chế chính quyền Taliban hiện nay đang diệt chủng, diệt tông, không thể tha thứ – Điều này không thể chối cãi!
 
Sự thật về Thiền sư Nhất Hạnh:

Thiền Sư Thích Nhất Hạnh



1)  Thiền sư Nhất Hạnh đã cố tình quên đi hành động dã man của tập đoàn khủng bố, mặc nhiên trước những sinh linh vô tội, nỗi đau đớn của thân nhân và nhân dân Hoa Kỳ, nỗi lo sợ của toàn thế giới trước âm mưu tiêu diệt nhân loại của tập đoàn này qua biến cố vừa qua. Trước nỗi thống khổ của nhân loại, Thiền sư đã không thể hiện tinh thần Bồ tát đạo, cứu độ chúng sinh qua lời Phật dạy trong Lục Độ Thập Kinh: "Bồ tát thấy dân kêu ca, do vậy, xông mình vào nơi chính trị hà khắc để cứu muôn dân ra khỏi chốn lầm than". Đó là sự thật!
 
2)  Từ ngày bọn Cộng sản áp đặt nền chuyên chính trên toàn nước Việt, chúng ra sức bóc lột nhân dân, tham nhũng cực độ, đàn áp khốc liệt, tiêu diệt tôn giáo, khủng bố chứng nhân và các nhà ái quốc yêu tự do, thủ tiêu Hòa thượng Thích Thiện Minh, Hòa thượng Thích Trí Thủ… giam cầm và quản chế Hòa thượng Huyền Quang, Quảng Độ… thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, một Giáo hội Dân lập được truyền thừa gần 2000 năm của Lịch Đại Tổ Sư, một Giáo hội đã dày công nuôi dưỡng Thiền sư Nhất Hạnh và nhờ sự trưởng dưỡng đó mới được đến ngày nay, thế mà khi Giáo hội trong cơn Pháp nạn, kêu cứu từ hơn một phần tư thế kỷ qua mà sư vẫn thiền, vẫn  còn tự cho mình là "nhất hạnh". Đó là sự thật!
 
3)  Sư Nhất Hạnh đã chọn thành phố New York để tổ chức một buổi thuyết trình, Thiền sư đã quảng cáo 2 lần, một lần ¼ trang và sau đó quảng cáo nguyên trang. Trong quảng cáo có đăng bài thơ với phần ghi chú rằng, Bến Tre - thị xã ba trăm ngàn dân - đã bị phá hủy chỉ vì 7 du kích bắn vu vơ. Trong quảng cáo lần thứ nhì, con số "7" bị rút đi vì gặp sự phản ứng của dư luận, nhất là qua cuộc Họp Mặt Cho Sự Thật tại miền Nam Cali vào ngày 14.10.2001 đã minh xác lời của Thiền Sư Nhất Hạnh là sai trái. Đó là sự thật!
 
4) Sư Nhất Hạnh đã buộc tội quân đội Việt Nam Cộng hòa và Đồng minh Hoa Kỳ một cách hàm hồ như sau:

- Chỉ có "7" hoặc "vài" du kích quân Việt Cộng vào thành phố.
- Du kích quân bắn máy bay Mỹ, không trúng.
- Du kích quân rút đi.
- Mỹ ném bom hủy diệt thành phố ba trăm ngàn dân Bến Tre.
- Viên chức Mỹ tuyên bố: hủy diệt thành phố Bến Tre để cứu nó.
 
... Những hành vi như đã kể ra ở trên chứng tỏ Thiền sư Nhất Hạnh đã đi ngược lại với nguyện vọng đấu tranh cho công lý của mọi người, thiết thực nhất là nguyện vọng đấu tranh đòi hỏi Cộng sản phải thực thi tự do tôn giáo và nhân quyền tại Việt Nam của toàn thể Người Việt Tỵ nạn Cộng sản ở Hải ngoại. Xin nhấn mạnh một lần nữa là Người Việt Tỵ nạn Cộng sản, nghĩa là tỵ nạn chính trị, nghĩa là không chịu nỗi sự đàn áp chém giết khốc liệt của tập đoàn Cộng sản nên phải tỵ nạn, chứ không phải tỵ nạn kinh tế! Do đó, người Việt lưu vong đó đây được các chính phủ tự do nhân đạo cứu vớt đón nhận để cho ăn nhờ ở đậu, cư trú tạm thời. Nếu là tỵ nạn kinh tế, chúng tôi tin chắc rằng đã không có quốc gia nào đón nhận. Chính vì vậy, bất cứ những tuyên cáo, hoạt động nào nằm trong phương hướng bảo vệ chính nghĩa quốc gia, chống Cộng sản, đều là việc chung của mọi người Việt Tỵ nạn Cộng sản. Mặc dù họ không có nói ra, nhưng trong tâm tư của mỗi người Việt lưu vong hải ngoại sau 1975 đều mang ý nghĩ như vậy, ngoại trừ những tên đã tự đổi cốt của chính mình từ tỵ nạn Cộng sản sang tỵ nạn kinh tế để kiếm sống qua ngày, và sẵn sàng giao lưu, hiệp thông với Cộng sản.(Những tên này đã đánh mất lương tri nhân loại, đánh mất lập trường chính trị để tiếp tay với lũ côn đồ giết hại dân lành, tiêu diệt đạo pháp). 
 
... Điều mà ai cũng biết Thiền sư Nhất Hạnh là một tu sĩ giỏi (Điều nổi bật nhất là Thiền sư Nhất Hạnh giỏi ru ngủ. Những ai đang được Thiền sư Nhất Hạnh ru ngủ rồi, thì dù bất cứ tiếng kêu la thống thiết nào, ngay cả bom nguyên tử nổ bên tai, cũng không tài nào thức tỉnh họ được), thông hiểu triết lý nhà Phật, và là tác giả của nhiều cuốn sách. Nhưng GIỎI là đặc điểm cá nhân của Thiền sư Nhất Hạnh. Nếu Thiền sư Nhất Hạnh không đem cái GIỎI của mình để cứu đạo, cứu đời, thì GIỎI trở nên vô dụng và không ăn thua gì đến công cuộc đấu tranh của tập thể Người Việt Tỵ nạn Cộng sản hiện nay. Không những thế, Thiền sư Nhất Hạnh đã nhúng tay vào làm công việc phản chiến và ngụy hòa, đã kêu gọi tha thứ cho quân khủng bố trong lúc quân khủng bố cứ liên tục phát động chiến dịch đẫm máu này (cướp máy bay lao vào World Trade Center) đến chiến dịch đẫm máu khác (vi khuẩn anthrax, giựt sập cầu, đánh rớt máy bay dân sự…) để giết hại dân vô tội, đến nỗi người Mỹ đã thay đổi hẳn tình cảm đối với người Việt Nam, cho nên bắt buộc mọi người phải gióng lên những tiếng nói cho công lý và chính nghĩa. Sống trên nước Mỹ, người dân thường thấy, khi mở radio, truyền hình, sau vụ khủng bố, không có tin gì ngoài những tin thương hại do độc khuẩn của bọn khủng bố tạo ra và những lời cảnh giác của phóng viên truyền hình, báo chí. Một con sâu làm rầu bát canh! Sau khi nghe bài thuyết trình "độc nhất vô nhị" của Thiền sư Nhất Hạnh tại Nữu Ước, dân Mỹ quá sức phẫn nộ đã phải hô to lên rằng: "Vietnamese go home!" Thái độ của người Mỹ đối với người Việt Tỵ nạn Cộng sản, nay là thế đó. Từ tình cảm ưu ái, thân thiện, đã trở thành thù ghét đắng cay. Càng thù ghét người Việt quốc gia tại hải ngoại chừng nào, người Mỹ càng trở nên thân thiện gần gũi với bọn Cộng sản nhiều hơn. Và, trận chiến sẽ xoay chiều. Người Mỹ sẽ coi chúng ta là những kẻ đồng lõa, là những người bao che cho tạo tội ác nên giúp tội ác tạo tội ác. Thế rồi, công cuộc đấu tranh cho nhân quyền, dân chủ và tự do tôn giáo tại quốc nội sẽ dư thừa. Không có ai tin chúng ta cả. Người Mỹ sẽ nghĩ rằng chúng ta muốn phát động phong trào khủng bố để chống chính quyền Cộng sản ở Việt Nam, chứ không phải để đòi hỏi tự do, nhân quyền và dân chủ, vì đất nước Việt Nam có tự do thật sự, có nhân quyền hẳn hoi. Hơn nữa, dần dần những tin tức xấu xa do Thiền sư Nhất Hạnh khơi động này sẽ được loan chuyển khắp mọi nơi trên thế giới. 

Không những người Mỹ, mà dân chúng trên thế giới đều có một nhận định xấu xa về công cuộc vận động đấu tranh cho tự do tôn giáo của người Việt khắp nơi trên toàn cầu. Từ đó, chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn trên chiến trường chống Cộng và phục hưng đất nước. Chúng ta không hiểu được điều đó sao ? Thế thì, ai đã gây ra ảnh hưởng xấu ? Không phải là Thiền sư Nhất Hạnh thì còn ai vô đây ? Chúng ta không thể tiếp tục ra sức bao che cho tội ác, biện minh che cho sự phản bội của Thiền sư Nhất Hạnh!
 
Đó chỉ mới bàn về những ảnh hưởng tác hại của sự phản chiến của Thiền sư Nhất Hạnh mà thôi. Riêng, trong bài thuyết trình tại Nữu Ước và tại những trang quảng cáo ầm ĩ của Thiền sư Nhất Hạnh trên báo New York Times, chúng ta rất dễ tìm những luận điệu vu khống, bôi nhọ quân đội Cộng hòa, lẫn những lợi điểm cho Cộng sản, như đã liệt kê ở trên. Điều đáng buồn là Thiền sư Nhất Hạnh đã đại vọng ngữ để đưa ra những con số không thật, những tin tức láo khoét khi nói về con số tử thương tại Bến Tre với mục đích gán ghép chồng chất tội ác lên đầu quân nhân Mỹ-Việt Nam Cộng hòa. Thiền sư Nhất Hạnh đã bôi nhọ lên mặt Cộng hòa và tô son trên môi Cộng sản!
 
... Một điều cần biết là Thiền sư Nhất Hạnh giao du tứ phương để lấy lòng dân. Thiền sư Nhất Hạnh được lòng rất nhiều người. Người theo Thiền sư Nhất Hạnh cũng không phải ít. Nếu Thiền sư Nhất Hạnh là một tu sĩ biết lo cho dân tộc (quốc nạn) và đạo pháp (pháp nạn), chỉ cần Thiền sư gióng lên tiếng nói cứu độ quần sinh thôi, thì đảng Cộng sản Việt Nam đã tiêu diêu miền khói lửa lâu rồi, chứ đâu mà cảnh địa ngục trần gian còn day dưa đến hôm nay trên đất Việt? (Xin được chú thích: Nói thế không phải để đề cao Thiền sư Nhất Hạnh, nhưng để buồn cho Thiền sư Nhất Hạnh có vũ khí tốt mà không biết dùng, nhất là trong tình trạng khẩn thiết của Đạo pháp hiện nay). Nhưng, tiếc thay, nhìn vào đội ngũ đông đảo "hùng hậu" của Làng Hồng, Làng Mai, người ta chỉ thấy một đám người đang ngủ gà ngủ gật…
 
Sở dĩ mà dân New York hô lên "Vietnamese go home" nhưng không nói "Thich Nhat Hanh go home" là vì Thiền sư Nhất Hạnh dẫn cả một đại đội tiến về New York. Nhìn vào đám đông này, người ta chỉ thấy họ là Vietnamese, không phải là Thich Nhất Hanh! "Con sâu làm rầu bát canh" ở chỗ đó! Rõ ràng Thiền sư Nhất Hạnh đã ô nhục toàn dân tỵ nạn CS ở hải ngoại, ô nhục nước Mỹ. Vụ thảm sát vào ngày 11.9.2001 đó, ít nhiều, cũng đã tạo cơ hội cho giới truyền thông báo chí của bọn Cộng sản, như ở Hồng Kông, Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba thừa nước đục thả câu, tuyên truyền với dân chúng rằng Mỹ là con cọp giấy. Chưa đủ, chúng còn thâu băng, làm phim để kinh tài và hạ nhục Mỹ Quốc. Tại sao Thiền sư Nhất Hạnh không đi qua Afghanistan để "thuyết pháp" cho bọn côn đồ đừng có hủy diệt tượng Phật, đừng có tiếp tục giết người vô tội, ngưng ngay những hành động khủng bố, mà Thiền sư cố nài nỉ người Mỹ tha cho bọn chúng ? (Mặt khác, Thiền sư Nhất Hạnh cố tạo ra những con số bất thật để ghép tội người Mỹ, rồi tạo áp lực tinh thần và nhân tính để bắt buộc người Mỹ nhận thấy rằng chính người Mỹ cũng đã gây khủng bố ở Bến Tre, nên phải tha cho quân khủng bố Osama Bin Laden và đồng bọn). "Từ bi, Vị tha" kiểu ngược đời như thế này, không biết Thiền sư Nhất Hạnh đã tìm đâu ra ở trong Tam Tạng Kinh điển của Phật giáo ? Tạo cơ hội cho kẻ ác hành hung bằng cách khuyên người hiền nên cố tâm chịu đựng! Sao mà hao hao giống luận điệu của Cộng sản vậy kìa: "Bà con ơi, nên chịu đựng đi, đừng nhúc nhích mà chết, tại vì Đảng đã lỡ nắm quyền hành rồi, cho nên bắt buộc Đảng phải bóc lột, ăn cướp, hút máu dân để cho thỏa lòng tham vô cùng vô tận của Đảng, đừng có thắc mắc hoặc khiếu nại mà bị chặt đầu, vì đó là luật Đảng. Tốt nhất là phải chịu đựng, chịu đựng và tha thứ cho Đảng thì mới được sống an thân!…" Thảm khổ!!!
 
Điều nổi bật hơn về Thiền sư Nhất Hạnh là Thiền sư đã được trưởng thành trong căn nhà của Giáo hội(GHPGVNTN), Thiền sư cùng tu, cùng ăn, cùng ở với những đồng đạo của mình. Thế nhưng, trong mấy chục năm qua, Giáo hội của mình bị bức tử, đồng đạo của mình bị tù đày, quản chế, 80 triệu dân quốc nội của mình không ngừng kêu cứu, thậm chí giáo pháp của Đức Phật cũng bị bọn côn đồ đảng Cộng sản đảo lộn, bôi nhọ, bảo rằng còn thua xa với thuyết lý Mác-Lê-Hồ rồi mang vào trường học để nhồi sọ sinh viên, miệt thị Phật giáo; Thiền sư Nhất Hạnh vẫn ngậm miệng, giả câm, giả điếc. Là một trưởng tử của Như Lai, Thiền sư Nhất Hạnh đã làm gì để lấy lại hương vị tinh nguyên của Giáo lý nhà Phật khi bị đảng Cộng sản đang bỏ chung vào một soong để chiên xào xáo trộn với chủ nghĩa ma quái Mác-Lê ? Sau này, thế hệ trẻ tại Việt Nam sẽ bị đầu độc rằng: Giáo pháp của Phật chẳng hơn gì lý thuyết Mác-Lê-Hồ cả, thi hành theo chủ nghĩa của Mác coi bộ thực tiễn hơn.. Khi đó, Thiền sư sẽ nghĩ gì ? Đây mới chính là thời kỳ mạt pháp! Phật pháp đang trên đường băng hoại!
 
Chưa hết, trong thời gian Ngài Quảng Độ bị cầm tù trong ngục, Ngài đã làm 300 bài thơ tranh đấu, Ngài tin tưởng và chuyển ra hải ngoại cho Thiền sư Nhất Hạnh. Thiền sư Nhất Hạnh đã liệng vào sọt rác. Thiền sư Nhất Hạnh tưởng rằng không ai hay biết, vì cứ đinh ninh rằng Hòa thượng Quảng Độ sẽ bị chết trong tù, hoặc ít nhất cũng sẽ không bao giờ thấy được ánh sáng mặt trời. Nhưng trời cao có mắt. Kẻ ác bất khả hại hiền nhân. Nhờ sức vận động hy hữu của tất cả các hội đoàn, Cộng đồng, nhất là của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế tại Paris và của Văn phòng II Viện Hóa đạo đến với các chính giới hải ngoại đã làm áp lực lớn mạnh, bắt buộc Cộng sản phải phóng thích Ngài Quảng Độ. Sau đó, qua cuộc phỏng vấn của Giáo sư Võ Văn Ái với Ngài Quảng Độ bằng điện thoại viễn liên sau những ngày tù tội, Ngài Quảng Độ có đề cập đến 300 bài thơ trong tù đã được gởi sang cho Thiền sư Nhất Hạnh để nhờ chuyển qua cho Giáo sư Ái. Gs Võ Văn Ái quá đổi ngạc nhiên, trả lời rằng là Anh không có nhận bài thơ nào của Ngài Quảng Độ do Thiền sư Nhất Hạnh chuyển đến cả. Ngài Quảng Độ chỉ phản ứng một cách rất nhẹ nhàng: "Vậy à?". Ngài Quảng Độ còn bảo rằng Ngài còn ghi nhớ tất cả 300 bài thơ ấy ở trong trí óc của Ngài, khi rảnh rỗi,  Ngài sẽ chép lại và gởi qua cho Anh Ái để in thành một tập thơ… (Xin quý vị liên lạc với Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để xin bản sao của cuộc phỏng vấn này, nếu cần).
 
Sau khi tin tức bị tiết lộ, Thiền sư Nhất Hạnh giả vờ làm một bài thơ "ca ngợi" sự chịu đựng và tinh thần hy sinh cho Đạo pháp của Ngài Quảng Độ, với mục đích là để che đậy sự tráo trở của mình, đề phòng lòng phẩn uất và cũng để thoa dịu sự bất bình của mọi người dân khi họ biết là Thiền sư Nhất hạnh đã dẹm kín 300 bài thơ của Ngài Quảng Độ. (Người viết đã có đọc được bài thơ này của Thiền sư Nhất Hạnh trên một web site nào đó – tạm thời không nhớ rõ là đăng trên web nào.)
 
Tủi hổ thay, mồ cha không khóc, Thiền sư Nhất Hạnh đi khóc đống tro tàn!

Với tư cách là một trưởng tử của Như Lai, hãy lấy Phật pháp làm sinh mạng, lấy Sự thật làm nền tảng. Vì, căn bản Giáo lý của Đạo Phật là lấy Sự thật làm nền tảng cho sự tu học, hoằng hóa. Chính vì vậy mà Đạo Phật là Đạo Như Thật. Hơn nữa, trên phương diện dẫn chứng lịch sử, thời gian và con số phải được trích dẫn chính xác không sai chạy mỗi khi đề cập đến, cho hợp với câu "Lịch sử đã chứng minh…"
 
Với cương vị của một công dân, hãy lấy Quốc gia làm đầu, lấy Dân tộc làm gốc.

Với thân phận của một kẻ tỵ nạn lưu vong, nên lấy Tổ quốc làm trọng, phải nổ lực đấu tranh để mong có được ngày về.
 
Nhưng đau buồn thay, Thiền sư Nhất Hạnh là một tu sĩ Phật giáo mà không làm được chuyện đó! Ngược lại, Thiền sư đã vọng ngữ, bóp méo lịch sử, đưa ra những dữ kiện sai lạc nhằm vu cáo quân lực chính nghĩa Cộng hòa, làm lợi cho Cộng sản, trong lúc mà phong trào tranh đấu cho nhân quyền và tự do tôn giáo đang lên cao. Thiết nghĩ, việc làm của Thiền sư Nhất Hạnh cần phải được chỉnh đốn.
 
Phạm Cố Quốc

Đọc thêm bản chất của Sư Ông hay Ông Sư nhiều thói hư tật xấu: