Sunday, 3 August 2014

TRÁCH NHIỆM VỚI DÂN TỘC - Kiêm Ái

Trước đây mấy năm, tôi có dịp tiếp xúc ngắn ngủi với bác sĩ Nguyễn Hy Vọng tại Nam Cali, tôi được nghe bác sĩ trình bày về nguồn gốc chữ Việt và tiếng Việt, tôi nghe bác sĩ nói tới đâu lòng tôi như nở hoa, trí tôi như òa vở và tôi rất ngưỡng mộ công trình của bác sĩ, chỉ mong bác sĩ sớm hoàn thành ước nguyện. Do đó, khi nghe anh Nguyễn Nhân, Trưởng Ban Tổ Chức buổi ra mắt sách của bác sĩ Nguyễn Hy Vọng  "mời tham dự", tôi rất mừng và là một trong những người đến tham dự đầu tiên. Vì có những điều tôi ấp ủ từ lâu mà không tự giải thích được, có những "mãnh vở" lượm lặt được mà không sao  "ráp" thành hình, nay nhờ cuốn "Những Nẻo Đường Tiếng Việt" và bộ "Từ Điển Nguồn Gốc Tiếng Việt" mà tôi hy vọng những mãnh vở có thể ráp lại được trong tim tôi.


Một chút quá khứ:

Giáo sư Vũ Văn Mẫu, vị giáo sư phụ trách môn "Cổ Luật" của Đại Học Luật Khoa Saigon (trước năm 1975) đã khai sáng  cho sinh viên một kho tàng luật học Việt Nam, và hầu hết, nếu không nói tất cả đã được hãnh diện vì nền luật của tổ tiên. Trong một buổi học, giáo sư đã thuật một mẩu chuyện ai nghe cũng thích thú: Hồi Đệ Nhất Cọng Hòa, Thủ tướng Nehru của Ấn Độ có dịp viếng thăm Việt Nam do lời mời của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và giáo sư Vũ Văn Mẫu là Ngoại Trưởng. Thủ Tướng Nerhu biết giáo sư dạy luật nên tìm dịp trò chuyện, và vì ông ta cũng là một luật gia nổi tiếng của Ấn Độ, ông ta khoe  nền luật học của Ấn Độ rất phong phú. Chính giáo sư Vũ Văn Mẫu đã mời Thủ Tướng đến tư gia để đàm đạo về luật pháp. Sau khi nghe giáo sư trình bày về bộ luật Hồng Đức ra đời trước bộ luật Napoléon những một trăm năm, nhưng"văn minh, tiến bộ" hơn luật đó rất nhiều; với những quan niệm về luật học của vua Lê Thánh Tông (Hồng Đức) hồi đó khiến ông Thủ Tướng Ấn Độ đã "nói lời xin lỗi". Giáo sư Vũ Văn Mẫu khi giảng về luật Hồng Đức thì như chàng thanh niên ca tụng sắc đẹp và tính nết của người yêu, nhất là những gì trong luật Hồng Đức có và tiến bộ mà cổ luật của Trung Hoa và thế giới không có, bộ luật Gia Long vì chép gần như 95% bộ luật nhà Thanh nên... trật lất. Dân chúng Việt Nam nhất là trong "làng" gần như không áp dụng, dù lúc đó Nhà Nguyễn đang cai trị đất nước mà chỉ áp dụng "Luật Hồng Đức" một cách mặc nhiên. Do đó, người Pháp khi đô hộ Việt Nam đã lập một Hội Đồng Án Lệ, qui tụ trên 60 người gồm những vị đã từng "cầm cân nẫy mực" về luật pháp Việt Nam mà lập thành án lệ cho phù hợp với những gì thực tế đang áp dụng tại Việt Nam. Ví dụ chương nói về "Hộ Hôn Điền Sản" qui định bất động sản hồi môn của người Phụ Nữ đi lấy chồng mà người chồng tục huyền (chết vợ, lấy vợ khác), ví dụ "Thất trắc và tam bất xuất" qui định 7 điều đàn ông có quyền bỏ vợ và 3 điều không được bỏ vợ, ví dụ theo luật Hồng Đức con gái được chia gia tài, còn luật Gia Long vì ảnh hưởng luật nhà Thanh bên Tàu nên không có điều khoản này, tuy vậy, dân chúng vẫn "chia gia tài cho con gái". Luật Hồng Đức trở thành nếp sống của người Việt gọi là phong tục tập quán. Một điều mà mỗi khi nhắc đến, vầng trán của giáo sư nhăn nhúm rất khó coi, đó là sau khi hiệp định Genève được ký kết, người Pháp đã đề nghị với giáo sư họ sẽ cho một máy bay chở hết kho cổ luật của VN vào Saigon, nhưng giáo sư "nghi ngờ người Pháp có thể cho  máy bay 'đâm đầu xuống biển', thủ tiêu kho tàng luật học VN", nên sau khi suy nghĩ giáo sư đã từ chối; thà để lại còn hy vọng VC "có chút lương tâm" mà giữ gìn!!! Tôi đã không giữ được 4 cuốn sách giáo khoa về cổ luật của  giáo sư Vũ Văn Mẫu, qua Hoa Kỳ tôi vẫn để ý tìm kiếm mà không thấy! Tất tiếc.

Một chút thời sự sau 75:

Hồi Việt Cộng mới ở trong rừng ra, họ dùng những tiếng mà "dân ngụy" không hiểu, như khẩn trương, đăng ký, lên lớp, lính thủy đánh bộ, v.v... nhất là nghe giọng đọc trên đài phát thanh. Một lần, một nhóm người gốc tỉnh Quãng Ngãi nghe ông Phạm Văn Đồng đọc diễn văn. Họ ngẫn tò te và hỏi tại sao giọng ông Đồng giống giọng của "dân tộc ít người", vì giọng ông ta không giống giọng Mộ Đức. Tôi nghĩ vì ông Đồng ở trong rừng lâu ngày, uống nước rừng nên ... lai Thượng. Một bà cựu nữ sinh Đồng Khánh đi thăm nuôi chồng ở tù VC ngoài miền Bắc về nói với vợ chồng tôi "...ra Hà Nội mà không nghe được giọng Hà Nội, đài phát thanh cũng không có giọng Hà nội, nghe giống giọng ...Quảng Đông bên Tàu. Răng lạ rứa anh Ấn hè?". Tôi cương ẩu: tại lúc Việt Cộng tiếp thu Hà Nội, dân Hà Nội di cư gần hết, những ai còn lại làm sao vào được cơ quan VC? VC đem toàn bộ cán lớn cán nhỏ ra tiếp thu Hà Nội. Sau đó, những cán bộ mới ở "vùng tề" cũng học theo giọng trong rừng để đánh lận con đen. Chị không nghe cán bộ 30 tháng tư, trình độ lớp 6, lớp 7 VNCH trở lên mà vẫn bắt chước bọn cán bộ trong rừng mới ra vừa đọc vừa đánh vần: "Chờ ... chờ ung sắc chúng ta lờ lờ a mờ am làm ăn a ha cờ á nhờ nhờ ân nhân..." cho giống cán bộ sắp tốt nghiệp bình dân học vụ đó sao? Cả ba chúng tôi cười ra nước mắt.

Thời thượng ... trên rừng ra hải ngoại:

Việt Cộng đã thành công theo nghị quyết 36 trên địa hạt ngôn ngữ. Một số "văn thi sĩ, xướng ngôn viên, MC" tại hải ngoại đã bỏ tiếng Việt nguyên thủy mà dùng những tiếng của Việt Cộng ở trong nước rất nhuyễn. Bây giờ ở hải ngoại đã quên những tiếng: dự trù, dự định, dự đoán... mà chỉ dùng độc nhất hai tiếng "dự kiến". Ví dụ "Ba sắp nhỏ DỰ KIẾN đi chuyến bay đó, mà không đi, chứ không thì chết theo chuyến bay rồi" Và cũng "đảm bảo, khẩn trương, đăng ký, tàu sân bay, triển khai, lên lớp, xử lý, nhập khẩu, hộ khẩu, sự cố, giản đơn, bầu khí thay vì bầu không khí, dịch cấp thay vì dịch cấp tính, bác thay vì bác sĩ, thay vì lũ lụt ... là học cách nói của VC bên nhà. Một anh bạn khi nghe như vậy đã nói: Hèn gì mà 16 chữ cứt thành 16 chữ vàng, 4 xấu mà gọi là 4 tốt. May chứ VC gọi vàng là cứt thì bọn hải ngoại cũng mua nữ trang bằng CỨT cho vợ rồi! Tuy quá đáng nhưng cũng rất ngậm ngùi.

Ai cũng phải công nhận khi một dân tộc có thời gian chung sống với một giống dân khác thì ngôn ngữ thế nào cũng phải "nhập khẩu", nhưng những chữ, những tiếng mà dân tộc ta đã có, đã nghe hay, tại sao lại dổi nó thành những chữ ngớ ngẩn? Tại sao chúng ta là những kẻ giữ gìn và làm phong phú tiếng Việt lại bắt chước những kẻ cố tình phá hoại ngôn ngữ Việt Nam của cha ông? Sao không nói ghi tên như cũ mà lại đăng ký, sao không nói nhanh lên mà lại khẩn trương, không nói khai triển mà lại triển khai...? Cứ cái đà này một ngày kia lại nói đẹp người thay vì người đẹp, người khác lại nói khác người theo đúng ngôn ngữ của cha mẹ là Trung Cộng???!!!

Từ đời nọ đến đời kia:

Từ khi lập quốc cho đến năm 1954, ngôn ngữ Việt Nam từ Nam chí Bắc vẫn "nhất thống". Đến năm 1954, Việt Nam chia cắt, một phần lớn văn nghệ sĩ miền Bắc di cư vào Nam mang theo văn hóa, ngôn ngữ miền Bắc vào Nam đã làm cho ngôn ngữ văn hóa Việt Nam càng thêm phong phú, trong khi Cộng Sản Bắc Việt chẳng những không un đúc mà còn phá hoại, văn nghệ sĩ bị trù dập, cả mấy chục năm mà những nhân tài như Nguyễn Tuân, Hoàng Cầm, Văn Cao v.v... chẳng đóng góp gì được cho văn học nghệ thuật trong khi những văn nghệ sĩ miền Bắc vào Nam đã cho ra đời những tác phẫm, những bản nhạc tiến bộ, về lượng cũng như về phẫm. Chúng ta có thể kết luận sau năm 1954, văn hóa ngôn ngữ miền Bắc vào đã "hùn" với miền Nam mà ngôn ngữ và văn hóa được phong phú hơn. Có phải văn hóa Việt Nam cũng đã di cư vào Nam hay không?

Năm 1975, Việt  Cọng vừa vào Saigon là "tiêu hủy văn hóa đồi trụy" miền Nam ngay lập tức. Đây là mục đích thâm độc tiêu diệt văn hóa Việt Nam của VC mà chúng tôi nghi ngờ có bàn tay của bọn tay sai Tàu Cộng. May thay! Các văn nghệ sĩ, các nhà tư tưởng Việt Nam đã ra hải ngoại đem ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam theo. Thử nhìn lại những tác phẫm ra đời tại hải ngoại trong gần 40 năm qua so với Việt Nam dưới quyền của VC ra sao? Có phải là người Việt từ Bắc vào Nam, từ Việt Nam ra hải ngoại đã thi hành một nhiệm vụ cao cả: DUY TRÌ VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VIỆT NAM một cách liên tục và phong phú hay không?

Để hỗ trợ cho sự phá hoại ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam tại hải ngoại, Việt Cộng đã bằng cách này hay cách khác hoán đổi ngôn ngữ, tiếng nói của người Việt hải ngoại là bước đầu tiêu diệt văn hóa ngôn ngữ nòi giống. Có những kẻ binh vực hành động này của VC lập luận rằng: muốn tuyên truyền vào trong nước, chúng ta phải dùng "tiếng nói của họ". Trong số đó, tiếc thay lại có Tú Gàn Nguyễn Cần. Nguyễn Cần đưa ra một ví dụ: ở miền Trung Việt Nam có nơi gọi con chó là con "muông", nói chó họ không biết, nếu họ không biết tiếng nói của ta thì làm sao tuyên truyền. Nguyễn Cần còn đưa ra một ví dụ khác: các nhà truyền giáo Tây Phương khi vào Việt Nam cũng đã phải học tiếng Việt mới truyền đạo được. Thực là ngớ ngẩn. Thực là ngụy biện. Các nhà truyền giáo Tây Phương chẳng những học tiếng Việt mà còn "phát minh" cách viết tiếng Việt theo mẫu tự La Mã khiến cho sự phát triển tiếng Việt rất nhanh chóng và tiện lợi, chỉ cần học 26 chữ cái, vần xuôi, vần ngược là đọc và viết tiếng Việt dễ dàng. Các nhà truyền giáo học tiếng Việt, phát minh cách viết khác xa với cách hoán đổi chữ Việt một cách dốt nát và phá hoại như Việt Cộng chủ trương.

Ý thức được ngôn ngữ và văn hóa mà chúng ta đang dùng ở hải ngoại là "chính thống" và "nhất thống", tại sao lại đi "nhập khẩu" thứ ô uế của VC làm đồi trụy xấu xa văn hóa ngôn ngữ của ông cha?

Tôi rất ngưỡng mộ bác sĩ Nguyễn Hy Vọng vì ông ta - trước hết đã đả thông một tư tưởng lầm lạc đã ăn sâu vào đầu óc của người Việt Nam, kể cả những nhà trí thức, những nhà ngôn ngữ học cho rằng tiếng Việt, ngôn ngữ Việt của ta từ Tàu mà ra, văn hóa của ta là sao chép văn hóa của Tàu - sau nữa, bác sĩ Nguyễn Hy  Vọng đã chứng minh bằng một công trình thiết thực TIẾNG VIỆT NAM tương tự như tiếng của các dân tộc vùng Đông Nam Á, có khi đến Ấn Độ, ví dụ chữ BẦU: người Việt đọc là
- Bầu, trái bầu, bầu bí, giàn bầu...

Người Thái: bầu.
Khm: l pầu
Nùng: bầu.
Burma: bầu, bù.
Roteang/Sedang: pầu pí (bầu bí).
Lusai: Bu-r.
Malay: labu  
(Theo Từ điển Nguồn Gốc Tiếng Việt, Bs Nguyễn Hy Vọng, nhà xuất bản Đất Việt, Quyền I, trang 93).

Và tuyệt nhiên không có nguồn gốc từ tiếng Tàu. Cũng xin thắp một nén hương lòng tưởng nhớ đến linh mục Trần Kim Định, người đã chứng minh ngược lại rằng Văn hóa của Tàu là sản phẫm của Việt Nam, như Khổng Tử đã tuyên bố "Đạo từ Phương Nam". Tôi chưa đọc nhiều sách của linh mục Định, nhưng sử sách của ta cũng ghi chép mỗi khi Tàu đánh chiếm nước ta, họ lấy hết sách vở của ta về Tàu và tàn bạo nhứt là đốt hết sách vở còn lại, không cho chúng ta đọc. Người Tàu còn độc ác lấy đi những tay thợ khéo, những nhân tài của ta. Thế mới có Lương Nhữ Học xây thành Bắc Kinh và Vạn Lý Trường Thành cũng do một người Việt Nam thiết kế. Có thể nói rằng  văn hóa, khoa học kỹ thuật của Tàu từ xưa tới nay chỉ là tổng hợp thành tích của Mao Toại. Ngày nay, các nước Tây Phương đang kêu trời không thấu vì nạn người Tàu ăn cắp, sao chép bản quyền của Tây phương, Chúng ta coi truyện Kim Dung: các nhân vật cao thủ võ lâm đều nhờ những bí quyết võ thuật của tiền nhân: một thứ văn hóa chết. Dân Tàu lúc trước không biết nấu cơm, không biết cầm đũa như dân Việt Nam.

Như trên đã nói, một khi hai dân tộc sống gần nhau hay sống chung với nhau thế nào cũng ảnh hưởng tới nhau, nhứt là ngôn ngữ, nhưng phải trả cho César những gì của César. Nước Pháp đô hộ chúng ta cũng để lại những tiếng café, auto, Hoa Kỳ cũng có OK, right, good ninght, paté... và chắc chắn trong ngôn ngữ Hoa Kỳ rồi đây cũng sẽ có những chữ phở, bánh xéo, chả giò v.v... Đó là những "tai nạn" làm phong phú tiếng bản địa. Nói như vậy, chúng ta cũng không phải bài trừ tiếng Trung Hoa triệt để, chúng ta cũng không hỗ thẹn khi dùng một số tiếng Tàu vì ảnh hưởng mấy lần đô hộ của Tàu, phải viết, học tiếng Tàu, dùng tiếng Tàu trong văn thư. Nhưng không vì thế mà khi thoát khỏi sự đô hộ bằng vũ lực chúng ta lại tự nguyện chui đầu vào nô lệ văn hóa. Linh mục Cao Phương Kỹ trong một buổi dạy về chữ Hán cho biết: khi cụ Phan Bội Châu qua Tàu, cụ nói không ai hiểu, nhưng khi cụ viết ra và được đăng báo thì mọi người đều rõ, vì viết tiếng Tàu thì giống Tàu, nhưng phát âm thì khác. Ngày nay, chúng ta dùng chữ theo mẫu tự  a, b, c mà viết thì người Tàu không biết đó là tiếng Tàu, vì ta không viết và đọc theo Tàu. Khi chúng ta nói: nhứt nhì tam tứ. Tàu nghe không hiểu, viết ra theo mẫu tự La mã người Trung Hoa còn mù tịt hơn. Cũng như ngày trước người Tàu không đọc được chữ Nôm của ta, ngược lại, muốn biết chữ Nôm phải thông chữ Hán.

Biết rõ trách nhiệm của người Việt hải ngoại rất quan trọng, và rất nặng nề là duy trì ngôn ngữ Việt Nam.  Vì vậy, chúng ta phải gạn lọc những gì cần bỏ, những gì cần thêm vào, cha ông chúng ta cũng đã làm như vậy.

.Hải ngoại không để những tiếng (từ) của Việt Cộng xâm nhập. Các văn thi hữu trong nước tránh dùng những chữ hoán đổi thiếu ý nghĩa, cùng hải ngoại dùng những chữ có từ trước, nếu có "phát minh" tiếng mới (cũng rất cần thiết) xin hãy thận trọng. Như vậy, hải ngoại và trong nước hợp tác với nhau để cho ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam ngày càng phát triển. Đó là TRÁCH NHIỆM VỚI DÂN TỘC. Trách nhiệm này không riêng gì của hải ngoại hay quốc nội mà là của toàn dân Việt Nam. Vài ý mọn, xin các bậc cao thâm chỉ giáo để làm vui lòng tổ tiên, đem lại lợi ích cho thế hệ mai sau.


Kiêm  Ái