Quý Thân Hữu kính mến,
Bình An xin phép Quý Thân Hữu để gởi đến một Audio MP3 trên trang SoundCloud.com
Tưởng Niệm 'Ngày Quốc Hận' với tác giả 'Tháng Tư Đen' – George J. Veith
Xin chân thành cảm tạ.
Trịnh Bình An
* Nguyên tác: “Tom Glenn speaks with the author of Black April: The Fall of South Vietnam, 1973-1975” (May 10, 2012)
* Nguồn: http://www.washingtonindependentreviewofbooks.com
* Lược dịch: Trịnh Bình An
* Nguồn: http://www.washingtonindependentreviewofbooks.com
* Lược dịch: Trịnh Bình An
LỜI GIỚI THIỆU: Tháng Tư 1975, khi Tom Glenn – một nhân viên mật vụ – rời khỏi Việt Nam thì George J. Veith chỉ mới tốt nghiệp trung học Hoa Kỳ. Đến khi “Jay” Veith rời quân ngũ với cấp bậc Đại Úy binh chủng Thiết Giáp đóng quân tại Đức thì Tom Glenn dành nhiều thì giờ với những bệnh nhân AIDS vì đó là cách duy nhất giúp ông quên đi những ám ảnh đớn đau từ Việt Nam. Một người già, một người trẻ, cách nhau cả một thế hệ nhưng cả hai có cùng một điểm chung: Việt Nam.
Dưới đây là cuộc phỏng vấn tác giả “Black April ” – George J. Veith, được thực hiện bởi tác giả “Last of The Annamese” – Tom Glenn.
Tom Glenn: Anh đã có 3 cuốn sách viết về [chiến tranh] Việt Nam, thế nhưng anh lại lớn lên khi cuộc chiến đã tàn. Lý do gì anh đam mê đề tài này đến thế?
Jay Veith: Ngay khi tôi chỉ mới là đứa trẻ, tôi đã rất thích thú với hai điều trong lịch sử: những biến cố quân sự và những bí ẩn lịch sử. Do đó, tôi bị thu hút bởi vấn đề Tù Binh/Quân Nhân Mất Tích, một vấn đề đáp ứng cả hai sở thích của tôi từ lúc nhỏ. Khoảng 20 năm trước, một người bạn biết đến khả năng biên khảo của tôi đã nhờ tôi giúp ông truy tìm một số tài liệu trong căn cứ quân sự Carlisle Barracks tại tiểu bang Pennsylvania. Trong khi lục lạo các hồ sơ trong “Vietnam Room”, tôi phát giác ra các bản sao những báo cáo gốc của cơ quan Joint Personnel Recovery Center, một đơn vị được thành lập tại Việt Nam có nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu tù binh Hoa Kỳ. Vậy mà hầu như chưa có tài liệu nào được công bố về đơn vị này, theo như tôi được biết. Và vì luôn bị thôi thúc phải viết, nên tôi đã nhận ra ngay là cuối cùng thì dịp may đã đến với tôi!
Tom Glenn: Những cuốn sách của anh được viết với cung cách của người có kinh nghiệm trực tiếp. Anh đã từng đến Việt Nam chưa? Anh có nói được tiếng Việt không?
Jay Veith: Tôi chưa bao giờ đến Việt Nam – mặc dù tôi luôn muốn đến thăm nơi ấy. Sau khi dành rất nhiều thì giờ nghiên cứu về chiến tranh [Việt Nam], tôi cảm thấy như đó là quê hương thứ hai của mình! Tôi không nói được tiếng Việt. Tuy nhiên, tôi có một người bạn tốt, ông Merle Pribbenow, là người đã dịch tất cả các tài liệu rất bao quát nầy. Ông Merle từng phục vụ tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn từ tháng Tư, 1970 cho đến ngày 29 tháng Tư, 1975. Thật may mắn cho tôi vì Merle, cũng như tôi, có một mối quan tâm sâu sắc, trong việc đưa ra ánh sáng những gì đã thực sự xảy ra trong cuộc chiến. Đối với ông ấy, cũng giống như đối với ông, đó là chuyện cá nhân. Còn đối với tôi, đó là chỉ là một bí ẩn lịch sử lớn cần được điều tra.
Tom Glenn: Nếu anh không nói được tiếng Việt, vậy làm thế nào anh có thể phỏng vấn những người Việt đã trải qua cuộc biến động tại Việt Nam? Anh đã phỏng vấn bao nhiêu người Việt?
Jay Veith: Phỏng vấn những người Việt Nam là một công việc đầy tế nhị, khác hẳn phỏng vấn những người Mỹ. Một khi đã xác định được một sĩ quan người Việt nào bạn muốn nói chuyện, cách tốt nhất là được sự giới thiệu chính thức từ một người hoặc là trong gia đình ruột thịt, hay thuộc “đại gia đình quân đội” (cùng khoá, cùng đơn vị, cùng binh chủng v.v…) hoặc từ người đã từng là sếp trực tiếp hoặc từng có cấp bậc cao hơn. Nếu như họ đồng ý cho phỏng vấn, bạn phải đi theo trình tự: giải thích bạn là ai, bạn đang tìm kiếm thông tin gì, và bạn dự định làm gì với thông tin đó. Thường thì tôi bắt đầu bằng cách hỏi họ sinh ra ở đâu, họ vào quân đội như thế nào, v.v… Sau khi chúng tôi cảm thấy khá thoải mái với nhau, và cũng còn tùy thuộc vào tính khí và khả năng nói tiếng Anh của người ấy, chúng tôi mới có thể đi vào các khía cạnh cụ thể của một trận chiến.
Nếu người được phỏng vấn có trở ngại về tiếng Anh, tôi sẽ yêu cầu họ viết những trải nghiệm của họ bằng tiếng Việt và sau đó tôi nhờ người dịch lại. Cách làm này đạt kết quả rất tốt. Tôi đã phỏng vấn khá nhiều, có lẽ khoảng 45 sĩ quan, từ Đại Tướng Cao Văn Viên – vị Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội miền Nam Việt Nam – xuống đến các tiểu đoàn trưởng.
Nhiều người rất cởi mở, họ không chỉ ngạc nhiên khi thấy một người Mỹ quan tâm đến câu chuyện của họ mà còn vui mừng khi tôi muốn tìm hiểu về kinh nghiệm chiến tranh của họ. Tuy nhiên cũng có một số người rất đắn đo trong lời nói. Một số khác thì không thể thuật lại một cách chi tiết vì bị bệnh tật hoặc tinh thần chưa ổn định, hậu quả của nhiều năm tù đày. Còn một số ít, phần nhiều là các sĩ quan cao cấp, đã từ chối nói chuyện.
Đối với tất cả những sĩ quan tôi có dịp tiếp xúc, cuộc phỏng vấn bắt họ phải trải qua những thời khắc vô cùng đau đớn. Tôi không thể nào thể hiện đầy đủ lòng biết ơn với những người ấy.
Thật không dễ dàng [khi phải] chứng kiến những người đàn ông luống tuổi – những người từng dạn dày trong chiến đấu, từng khổ nhọc trong tù đày – đã bật khóc khi nói đến sự mất mát đồng đội hoặc sự kết thúc chiến tranh.
Tom Glenn: Tôi được biết có hai sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã tự sát khi Miền Nam thất thủ. Trường hợp tuẫn tiết như thế có nhiều không?
Jay Veith: Tôi lại biết có tới năm vị tướng đã tự sát. Rất nhiều sĩ quan cấp thấp hơn cũng đã tuẫn tiết.
Một câu chuyện không được ghi lại trong sách (Black April) nhưng luôn ám ảnh tôi. Có lần tôi phỏng vấn tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn Nhảy Dù. Lúc ấy là khoảng 1 giờ sáng, và chúng tôi đang ngồi trên bậc thềm trước nhà anh ta. Khi chúng tôi gần xong câu chuyện thì anh chợt bắt đầu kể về những ngày cuối cùng [của cuộc chiến]. Anh cho biết vào đêm 29 tháng Tư, vị lữ đoàn trưởng của anh đã ra lệnh cho đơn vị anh phải yểm trợ để bảo vệ căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt. Vị lữ đoàn trưởng còn năn nỉ anh đừng bỏ rơi ông ấy. Vì vậy, khi anh tiểu đoàn trưởng này bắt đầu rời khỏi căn cứ để đảm nhiệm việc phòng thủ bên ngoài vành đai, anh đã hết sức phân vân giữa hai lựa chọn: Hoặc khi ra khỏi cổng căn cứ thì rẽ phải để đi đến các vị trí được chỉ định. Hoặc rẽ trái và đi về phía bến cảng, tại đó anh hy vọng gặp được một tàu Hải Quân đang thoát chạy ra khơi. Và, người sĩ quan ấy đã chọn… rẽ phải, chọn ở lại với nhiệm vụ được giao phó.
Cuối ngày hôm sau, sau khi nghe lệnh đầu hàng, anh nhận được tin qua máy truyền tin từ một đồng đội cho biết họ đang rút lui đến một tòa nhà trong căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt. Do dự vài phút, nhưng rồi anh cũng lái xe jeep đến nơi tập họp. Nhưng đúng lúc anh vừa tới nơi thì nghe thấy một tiếng nổ khủng khiếp làm rung chuyển cả tòa nhà. Rất nhiều đồng đội của anh đã tự sát trong đó. Anh chấm dứt câu chuyện, mắt anh đẫm lệ. Còn tôi, lặng im mà xúc động đến run cả người.
Nghe xong câu chuyện ấy chúng ta còn điều gì để nói nữa?
Và điều tệ nhất ở đây là, do hậu quả của việc rẽ phải thay vì rẽ trái – để làm tròn nhiệm vụ và không bỏ rơi những người lính cũng như người chỉ huy – người sĩ quan ấy đã phải ngồi tù 10 năm!
Tom Glenn: “Tháng Tư Đen” đưa ra những câu trả lời thỏa đáng cho rất nhiều câu hỏi của tôi về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam. Vậy, còn có những câu hỏi nào anh cảm thấy vẫn cần có câu trả lời?
Jay Veith: Câu hỏi chính sẽ xoay quanh những gì Bộ Chính Trị [Bắc Việt] đã thực sự toan tính ngay trước và ngay sau khi ký kết Hiệp Định Hòa Bình Paris. Vẫn còn một lỗ hổng khá lớn trong sách vở Việt Nam về khoảng thời gian này. Đối với số câu hỏi khác, ông sẽ phải đợi cho đến khi tập thứ hai của tôi ra đời! Cuốn sách này sẽ đề cập đến các mưu đồ chính trị và ngoại giao.
Tom Glenn: Vì lý do nghề nghiệp, tôi chú ý tới vai trò của sự lừa bịp về mặt tình báo truyền tin và truyền thông trong trận chiến cuối cùng. Theo anh, tầm quan trọng của mỗi yếu tố như thế nào?
Jay Veith: Chiến lược của Cộng Sản cho mỗi chiến dịch bao gồm các kế hoạch lừa dối công phu. Hầu hết các kế hoạch này là nhằm đánh lừa tình báo truyền tin của Mỹ và QLVNCH mà trong chiến tranh có lẽ là nguồn tin tình báo tốt nhất của chúng ta. Tuy nhiên, có những ý kiến khác nhau về việc Cộng Sản có thành công hay không. Tại Ban Mê Thuột, chắc hẳn nó đã đóng một vai trò quan trọng, ít ra trong việc khiến cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú tin rằng quân đội Bắc Việt sẽ tấn công vào Pleiku chứ không phải vào Ban Mê Thuột. Với Quân Đoàn I, tôi nghĩ đó là một thất bại hoàn toàn. Câu hỏi lớn hơn, hy vọng một ngày nào đó Cơ Quan An Ninh Quốc Gia (National Security Agency –NSA) sẽ trả lời, là họ và tình báo tuyền tin của miền Nam thực sự đã biết tới mức nào. Tôi cho rằng điều đó phù hợp với câu hỏi của ông về những gì vẫn còn cần câu trả lời.
Tom Glenn: Trong số rất nhiều câu chuyện buồn về những người phải cam chịu thất bại, câu chuyện nào khiến anh xúc động nhất?
Jay Veith: Những chuyện xúc động thì quá nhiều. Câu chuyện người sĩ quan mà tôi vừa kể là buồn nhất. Sau đó, anh ấy nói với tôi là khi còn ở trong trại tù Cộng Sản, anh đã phải ăn gián để sống. Một nguồn protein tốt, anh còn nói thế. Tôi hỏi anh đã ăn bao nhiêu con gián? Chắc cỡ 10 ngàn con, anh trả lời. Hãy thử tưởng tượng mình phải bỏ con gián vào miệng! Tôi còn nhớ tới một vị chỉ huy tiểu đoàn khác, lần này là một sĩ quan Biệt Động Quân, anh nói với tôi rằng cha mẹ anh đã phải trông chừng anh liên tục từ ngày có lệnh đầu hàng cho đến khi anh phải trình diện đi tù. Họ sợ anh sẽ tự tử vì quá tuyệt vọng.
Tom Glenn: Tôi thấy nhiều điểm tương đồng giữa Việt Nam và Iraq và đặc biệt là Afghanistan. Có đúng thế không?
Jay Veith: Không hẳn vậy. Kẻ thù hoàn toàn khác, trật tự chính trị thế giới đã được định hình lại hoàn toàn, và người ta không thấy thái độ chống chiến tranh gay gắt xảy ra trong chiến tranh [Iraq]. Nếu nhìn rộng hơn ra, tôi cho rằng người ta có thể rút ra sự tương đồng về một cuộc chiến bất khả chiến thắng, v.v…, nhưng tôi không cho rằng các viễn kiến lịch sử tương tự nhau.
Tom Glenn: “Tháng Tư Đen” là cuốn sách đầu tiên của một bộ hai tập. Vậy, chủ đề của cuốn sách thứ hai là gì? Bao giờ thì sách được xuất bản?
Jay Veith: Cuốn thứ hai sẽ đề cập tới các vấn đề chính trị, ngoại giao và kinh tế làm Nam Việt Nam sụp đổ. Cụ thể, sách sẽ thảo luận về các mưu mô ngoại giao trong những ngày cuối khi các quốc gia cố gắng dàn xếp một lệnh ngừng bắn. Ngoài ra, sách sẽ nói tới một câu chuyện có lẽ là bí mật lớn cuối cùng của Chiến Tranh Việt Nam. Còn khi nào nó sẽ được xuất bản thì xin để cho tôi thêm vài năm. Việc nghiên cứu coi như đã xong, tôi chỉ cần tìm thời gian để viết. (Ghi chú: Jay Veith quyết định nghỉ việc vào tháng Năm 2018 để dành toàn thời gian cho sách – TBA)
Tom Glenn: Trong tất cả các yếu tố dẫn đến sự sụp đổ của Nam Việt Nam, điều gì nghiêm trọng nhất? Chúng ta có thể tránh được điều ấy không?
Jay Veith: Đúng, chúng ta có thể tránh đươc. Nhưng nó đòi hỏi một nỗ lực bền bỉ về ý chí và sự tham gia của người Mỹ, là những yếu tố mà chúng ta sẽ rất khó khăn để duy trì.
Tom Glenn: Nếu tất cả hỏa lực, nhân lực và tài nguyên mà Hoa Kỳ mang đến không thể chiến thắng cuộc chiến chống lại Bắc Việt, tại sao chúng ta nghĩ rằng chỉ riêng Nam Việt Nam có thể làm nổi điều đó? Kế hoạch Việt Nam Hóa (đào tạo và trang bị cho Nam Việt Nam tiếp tục chiến đấu mà không có sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ trên chiến trường) có tác dụng gì không?
Jay Veith: “Việt Nam Hóa” đã có tác dụng. Tuy nhiên, không có tướng lãnh Hoa Kỳ hay Nam Việt Nam nào tin rằng đất nước này có thể đứng vững nếu không có đầy đủ sự yểm trợ của Không Quân Mỹ. Lý do đơn giản là vì địa hình Việt Nam, chứ không phải vì sự thiếu ý chí của Nam Việt Nam. Tôi sẽ trình bày chính xác hơn trong cuốn sách tiếp theo của tôi. Nhìn bên ngoài, tình hình tiếp tế của Bắc Quân có vẻ rất tốt. Nhưng có điều ít ai biết hay hiểu ra, đó không phải là do Trung Cộng và Nga Xô chi viện ào ạt mà là do Bắc Việt đã dốc tất cả kho vũ khí của họ ra. Nói một cách khác, họ đánh xả láng cú chót để giành chiến thắng. Thật không may, lần này họ đã đoán đúng. Tôi chỉ mới phát hiện ra điều này trong khi xem xét một số ấn phẩm mới của Cộng Sản. Cho ông biết trước một chút xíu thôi đấy nhé.
Tom Glenn: Một số người tin rằng nỗ lực chống cộng ở Việt Nam đã bất khả thi ngay từ đầu. Chiến thắng của Bắc Việt [có phải] là đương nhiên không?
Jay Veith: Không đúng. Nếu chúng ta quyết định cắt đường mòn Hồ Chí Minh bằng quân đội Hoa Kỳ, tôi tin rằng chúng ra đã có thể thắng cuộc chiến. Sau khi Hải Quân cắt đứt nguồn tiếp tế trên biển, và nếu chúng ta phong tỏa hải cảng Sihanoukville (Cambodia), thì “cách mạng” tại Nam Việt Nam không còn nguồn cung cấp nữa, do đó, về căn bản, sẽ thoái hóa thành một cuộc chiến tranh du kích lẻ tẻ, một cuộc chiến mà người miền Nam có thể cáng đáng được.
Tom Glenn: Vậy thì với những điều bây giờ chúng ta đã biết, liệu Hoa Kỳ khi đó có nên nhúng tay vào Việt Nam không? Một câu hỏi cực kỳ tế nhị cho anh trả lời đấy.
Jay Veith: Tôi sẽ phải tránh né câu hỏi nầy bằng cách yêu cầu ông suy nghĩ như sau. Một trăm năm nữa, khi các học giả viết lịch sử của nước Mỹ và thế giới trong thế kỷ 20, chẳng biết họ sẽ định nghĩa cuộc sống Mỹ vào thời kỳ này như thế nào? Họ sẽ nhập chung thời kỳ hậu Đệ Nhị Thế Chiến với một khoảng thời gian dài hơn sau đó, và mô tả thời kỳ đó là một cuộc chiến dài chống lại chủ nghĩa Cộng Sản chăng? Nếu vậy, ai đã thắng cuộc chiến đó? Nếu nhìn từ góc độ lịch sử lâu dài hơn, tôi nghĩ mọi người cuối cùng sẽ đánh giá Việt Nam một cách không thiên vị hơn.
* GHI CHÚ:
I. Về tác giả Tom Glenn:
Tiểu thuyết về Việt Nam của ông có tên “Last of The Annamese“. Tác phẩm kể câu chuyện của một sĩ quan Quân Lực VNCH và người vợ tận tụy. Cả hai đã cùng tuẫn tiết tháng Tư 1975. Xoay quanh họ là hình ảnh đau thương của một Nam Việt Nam bị bức tử.
II. Về tác giả George J. Veith:
– George J. Veith là cựu Đại Úy binh chủng Thiết Giáp Hoa Kỳ từng phục vụ tại Đức quốc.
– Khi cuộc chiến Việt Nam chấm dứt tháng Tư 1975, ông chỉ mới tốt nghiệp trung học. Vì sở thích lúc còn trẻ của ông là tìm hiểu về các biến cố quân sự và các bí ẩn lịch sử, nên khi lớn lên ông luôn quan tâm tới vấn đề Tù Binh/Quân Nhân Mất Tích (POW/MIA), là hai vấn đề đáp ứng sở thích và ý hướng của ông.
– Vốn có khiếu trong công việc biên khảo dù không là nghề nghiệp chính, “Jay” được yêu cầu thực hiện cuộc tìm kiếm tài liệu trong văn khố của căn cứ quân sự Carlisle Barracks. Tại đây, cơ duyên đã đưa vào tay ông những tài liệu mật về Trung Tâm Giải Cứu Nhân Viên Hỗn Hợp (Joint Personnel Recovery Center) – một tổ chức bí mật được thành lập năm 1966 để thu thập và phân tích các báo cáo tình báo về người Mỹ bị bắt ở Lào, Campuchia & Việt Nam và tổ chức các cuộc đột kích giải cứu.
– Kết quả, Jay đã cho ra đời hai tác phẩm:
“Code-Name Bright Light: The Untold Story of U.S. POW Rescue Efforts during the Vietnam War ” (1998).
“Leave No Man Behind: Bill Bell and the Search for American POW/MIAs from the Vietnam War ” (2004).
– Từ đó, Jay đặc biệt quan tâm tới những gì đã xảy ra trong cuộc chiến dài nhất lịch sử Hoa Kỳ. Cơ duyên thêm một lần nữa đưa Jay gặp gỡ Thiếu Tướng Lê Minh Đảo khi muốn tìm hiểu thêm về mặt trận Xuân Lộc 1975. Jay và bạn ông đã nghiên cứu kỹ lưỡng suốt một năm về đề tài này. Bài viết của họ làm tướng Đảo hài lòng vì đã mô tả chân thực tình hình chiến trường lúc ấy. Từ đó, tướng Đảo yêu cầu Jay thực hiện một cuộc biên khảo về hai năm cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Bởi vì đa số người Mỹ cho rằng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chỉ là “những kẻ tham nhũng và hèn nhát”, do đó chứng minh ngược lại thành kiến này là vô cùng khó khăn. Nhưng, Jay đã nhận lãnh cuộc thử thách!
– Bẩy năm tiếp theo, Jay lao vào công việc tìm và đọc vô số tài liệu từ cả ba phía: Hoa Kỳ, Bắc Việt và Nam Việt Nam. Ông cũng phỏng vấn rất nhiều sĩ quan QLVNCH. Cuối cùng, năm 2012, cho ra đời tác phẩm có tên: “Black April: The Fall of South Vietnam, 1973-75“.
III. Về các tác phẩm của George J. Veith:
CODE-NAME BRIGHT LIGHT: The Untold Story of U.S. POW Rescue Efforts during the Vietnam War
– Trong các chủ đề về Chiến Tranh Việt Nam, chủ đề gây đau đớn và tranh cãi nhiều nhất cho người Mỹ là vấn đề POW / MIA (Prisoner of War / Missing in Action).
– “Mật Mã Ánh Sáng: Chuyện Chưa Kể Về Những Nỗ Lực Giải Cứu Tù Binh Trong Chiến Tranh Việt Nam” kể lại những cố gắng giải cứu đồng đội giữa những hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm tại Lào, Campuchia & Việt Nam, đó là những câu chuyện bi thảm nhưng đầy tình người.
– Bắt đầu từ các nhóm Tìm Kiếm & Cứu Nạn (SAR – Search And Rescue) rồi các nhóm Nghiên Cứu & Quan Sát (SOG – Studies And Observations), hợp lại năm 1966 để thành Trung Tâm Giải Cứu Nhân Viên Hỗn Hợp (JPRC – Joint Personnel Recovery Center) dấu dưới vỏ bọc một cơ quan an ninh quốc gia, và thường được gọi với cái tên bí mật là “Bright Light “.
– Thế nhưng, những hành động dũng cảm – thậm chí liều lĩnh – đã không đem lại “ánh sáng” cho tất cả các tù binh: đã có khoảng 500 người lính Việt Nam Cộng Hòa được giải thoát, 110 thi thể lính Mỹ được đưa về, nhưng đau đớn thay, không một chiến binh Hoa Kỳ nào được giải cứu!
– Vậy lý do gì khiến cho các nỗ lực của JPRC suốt 6 năm, với hơn 125 cuộc giải cứu, đã gặp thất bại? Có nhiều nguyên nhân: Thứ nhất, những “trại giam” thường xuyên di chuyển nên rất khó truy ra dấu vết. Thứ hai, do địa hình hiểm trở và khí hậu khắc nghiệt. Sau cùng là sự miễn cưỡng của các cấp chỉ huy Mỹ khi cho rằng phải chịu rủi ro quá cao mà kết quả không có gì chắc chắn. Do quá nhiều trở ngại trong khi các hoạt động giải cứu lại đòi hỏi phải thật nhanh chóng và chính xác, vì thế, kết quả thật thương tâm…
– Tác giả cũng mô tả chi tiết về hoàn cảnh những tù binh bị bắt ra sao, bị giam cầm thế nào. Có nhiều người bị chết trong khi bị bắt giữ, có người tìm cách vượt ngục và chịu đựng cuộc đuổi giết dã man của quân cộng sản.
– Điều bi thảm hơn, vì phải giữ bí mật tuyệt đối nên điệp vụ Bright Light đã gây nên nỗi đau đớn khôn cùng cho gia đình các chiến sĩ bị cầm tù hay mất tích. Họ cho rằng chẳng ai thèm ngó ngàng gì tới những người thân yêu của họ đã lên đường chiến đấu vì Tổ Quốc. Từ đó, họ lớn tiếng phản đối sự tham chiến của Mỹ tại Việt Nam. Còn với nhiều sĩ quan Hoa Kỳ từng tham gia điệp vụ, mặc cảm đã không giải cứu được đồng đội trở thành nỗi thống hận đầy xót xa, cay đắng, thế nhưng vẫn phải cố kìm nén trong im lặng…
LEAVE NO MAN BEHIND: Bill Bell and the Search for American POW/MIAs from the Vietnam War
– Bill Bell gia nhập quân ngũ năm 17 tuổi, rồi trở nên một Airborne-Ranger (Biệt Kích Dù) trực thuộc Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Ông đã 4 lần tới Việt Nam. Ông thông thạo tiếng Việt, Thái và Lào. Sau chiến tranh, ông trở lại VN với chức vụ Chief of the U.S. Office cho cơ quan POW/MIA Affairs tại Hà Nội. Trong nhiệm kỳ 12 năm, ông giúp đưa về nước 359 hài cốt binh sĩ Hoa Kỳ.
– Với kiến thức sâu sắc về Cộng Sản, với tính bền bỉ không kém một người châu Á, cộng với sự uyển chuyển “biết mình, biết người” của một nhà thao lược, tất cả đã giúp Bill thực hiện xuất sắc một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn và tế nhị. Ông tận sức tìm kiếm “câu trả lời” cho những gia đình có con, anh, em, hay chồng đã mất tích trên chiến trường Việt Nam để họ vơi bớt nỗi đau khôn nguôi.
– Bill Bell đã cống hiến những năm tháng thanh xuân cho nhiệm vụ, từ những ngày đầu khi còn là anh lính bộ binh trẻ hành quân trên núi rừng Cao Nguyên Trung Phần, đến người sĩ quan tiếp nhận lính Mỹ mất tích trong chiến dịch Operation Homecoming. Ông là một trong những người Mỹ cuối cùng rời Việt Nam trên nóc tòa Đại Sứ tháng Tư 75. Ông cũng là người đến những trại tị nạn bị bỏ rơi để phỏng vấn những nạn nhân đang trong tình trạng tuyệt vọng.
– Và chính Bill cũng chịu chung nỗi đau chia lìa của hàng triệu người dân Việt Nam: Vợ và con trai ông đã tử nạn trên chuyến bay đầu tiên của chiến dịch Operation Babylift ngày 4 tháng Tư 1975.
– Bill Bell là điển hình cho sự đấu tranh bền bỉ và khôn ngoan của một người Mỹ hơn 25 năm đối đầu với kẻ thù xảo quyệt và tàn nhẫn CSVN, ngoài mặt chúng rêu rao những lời hoa mỹ về “hàn gắn vết thương quá khứ” nhưng sau lưng xử dụng người chết để mặc cả lợi lộc chính trị và kinh tế.
– “Không Bỏ Lại Bất Kỳ Ai: Bill Bell Trong Nỗ Lực Tìm Kiếm Những Tù Binh Và Người Mỹ Mất Tích Trong Chiến Tranh Việt Nam” là câu chuyện thật của một nỗ lực đậm tình người. Qua đó, cũng vạch trần bộ mặt thật của CSVN, như được mô tả qua nguyên văn của đồng tác giả George J. Veith: “the cold hearted rulers of Hanoi“.
THÁNG TƯ ĐEN: Những Ngày Tháng Cuối Cùng của Miền Nam Việt Nam 1973-1975 (Dịch giả: Nguyễn Ngọc Anh)
– “Tháng Tư Đen” đã sưu tầm rất nhiều tài liệu Mỹ bản gốc, những cuộc phỏng vấn chưa bao giờ được công bố của một số nhân vật chính thuộc phía VNCH, và rất nhiều các điện tín và văn kiện tối mật của phe Cộng Sản Bắc Việt để viết thành một cuốn sử trung thực nhất về một trong những sự thảm bại lớn nhất và chấn động nhất trong lịch sử Hoa Kỳ mà tới bây giờ vẫn còn bị dư luận Mỹ hiểu sai.
– “Tháng Tư Đen” nghiên cứu sâu xa về hai năm cuối cùng của chiến tranh Việt Nam, làm sáng tỏ những yếu tố dẫn đến sự sụp đổ của Nam Việt Nam chỉ trong vòng 55 ngày. Sách trình bày những nguyên nhân chính, từ các tính toán độc ác của Cộng Sản Bắc Việt cố tình phá hoại Hiệp Định Paris ngay sau lúc ký kết, đến việc Mỹ lạnh lùng cắt bớt viện trợ cho Miền Nam, cho đến các quyết định quân sự và chính trị sai lầm của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu…
– “Tháng Tư Đen” đưa ra những bằng chứng đi ngược lại các luận điểm của các học giả và giới truyền thông Mỹ và quốc tế từng rêu rao rằng “Đồng minh Miền Nam của Mỹ là một bọn độc tài tham nhũng chỉ biết dựa vào hỏa lực của quân đội Mỹ”.
– “Tháng Tư Đen” kết luận:
1/ Đến năm 1973, mặc dù phải đối phó với các vấn đề nội bộ và kinh tế, Quân Đội Nam Việt Nam đã phát triển thành một lực lượng chiến đấu có khả năng đánh bại quân Cộng Sản Bắc Việt. Nếu quân đội đó đã được chi viện đầy đủ và được Hoa Kỳ yểm trợ lâu dài sau thỏa ước ngưng bắn, thì kết cục của cuộc chiến có thể khác xa.
2/ “Việt Nam Hóa” đã có tác dụng. Tuy nhiên, không có tướng lãnh Hoa Kỳ hay Nam Việt Nam nào tin rằng đất nước này có thể đứng vững nếu không có đầy đủ sự yểm trợ của Không Quân Mỹ. Lý do đơn giản là vì địa hình Việt Nam, chứ không phải vì sự thiếu ý chí của Nam Việt Nam.
3/ Người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không phải là “những kẻ bất tài vô dụng” như cái nhìn đầy thành kiến của phương Tây. Nhiều người trong số họ đã biểu lộ lòng can đảm lạ thường, thậm chí trong những tình huống tuyệt vọng như trong các trận đánh ở Tân Sơn Nhứt, Hố Nai và nhiều nơi khác nữa.
I. Về tác giả Tom Glenn:
Tiểu thuyết về Việt Nam của ông có tên “Last of The Annamese“. Tác phẩm kể câu chuyện của một sĩ quan Quân Lực VNCH và người vợ tận tụy. Cả hai đã cùng tuẫn tiết tháng Tư 1975. Xoay quanh họ là hình ảnh đau thương của một Nam Việt Nam bị bức tử.
II. Về tác giả George J. Veith:
– George J. Veith là cựu Đại Úy binh chủng Thiết Giáp Hoa Kỳ từng phục vụ tại Đức quốc.
– Khi cuộc chiến Việt Nam chấm dứt tháng Tư 1975, ông chỉ mới tốt nghiệp trung học. Vì sở thích lúc còn trẻ của ông là tìm hiểu về các biến cố quân sự và các bí ẩn lịch sử, nên khi lớn lên ông luôn quan tâm tới vấn đề Tù Binh/Quân Nhân Mất Tích (POW/MIA), là hai vấn đề đáp ứng sở thích và ý hướng của ông.
– Vốn có khiếu trong công việc biên khảo dù không là nghề nghiệp chính, “Jay” được yêu cầu thực hiện cuộc tìm kiếm tài liệu trong văn khố của căn cứ quân sự Carlisle Barracks. Tại đây, cơ duyên đã đưa vào tay ông những tài liệu mật về Trung Tâm Giải Cứu Nhân Viên Hỗn Hợp (Joint Personnel Recovery Center) – một tổ chức bí mật được thành lập năm 1966 để thu thập và phân tích các báo cáo tình báo về người Mỹ bị bắt ở Lào, Campuchia & Việt Nam và tổ chức các cuộc đột kích giải cứu.
– Kết quả, Jay đã cho ra đời hai tác phẩm:
“Code-Name Bright Light: The Untold Story of U.S. POW Rescue Efforts during the Vietnam War ” (1998).
“Leave No Man Behind: Bill Bell and the Search for American POW/MIAs from the Vietnam War ” (2004).
– Từ đó, Jay đặc biệt quan tâm tới những gì đã xảy ra trong cuộc chiến dài nhất lịch sử Hoa Kỳ. Cơ duyên thêm một lần nữa đưa Jay gặp gỡ Thiếu Tướng Lê Minh Đảo khi muốn tìm hiểu thêm về mặt trận Xuân Lộc 1975. Jay và bạn ông đã nghiên cứu kỹ lưỡng suốt một năm về đề tài này. Bài viết của họ làm tướng Đảo hài lòng vì đã mô tả chân thực tình hình chiến trường lúc ấy. Từ đó, tướng Đảo yêu cầu Jay thực hiện một cuộc biên khảo về hai năm cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Bởi vì đa số người Mỹ cho rằng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chỉ là “những kẻ tham nhũng và hèn nhát”, do đó chứng minh ngược lại thành kiến này là vô cùng khó khăn. Nhưng, Jay đã nhận lãnh cuộc thử thách!
– Bẩy năm tiếp theo, Jay lao vào công việc tìm và đọc vô số tài liệu từ cả ba phía: Hoa Kỳ, Bắc Việt và Nam Việt Nam. Ông cũng phỏng vấn rất nhiều sĩ quan QLVNCH. Cuối cùng, năm 2012, cho ra đời tác phẩm có tên: “Black April: The Fall of South Vietnam, 1973-75“.
III. Về các tác phẩm của George J. Veith:
CODE-NAME BRIGHT LIGHT: The Untold Story of U.S. POW Rescue Efforts during the Vietnam War
– Trong các chủ đề về Chiến Tranh Việt Nam, chủ đề gây đau đớn và tranh cãi nhiều nhất cho người Mỹ là vấn đề POW / MIA (Prisoner of War / Missing in Action).
– “Mật Mã Ánh Sáng: Chuyện Chưa Kể Về Những Nỗ Lực Giải Cứu Tù Binh Trong Chiến Tranh Việt Nam” kể lại những cố gắng giải cứu đồng đội giữa những hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm tại Lào, Campuchia & Việt Nam, đó là những câu chuyện bi thảm nhưng đầy tình người.
– Bắt đầu từ các nhóm Tìm Kiếm & Cứu Nạn (SAR – Search And Rescue) rồi các nhóm Nghiên Cứu & Quan Sát (SOG – Studies And Observations), hợp lại năm 1966 để thành Trung Tâm Giải Cứu Nhân Viên Hỗn Hợp (JPRC – Joint Personnel Recovery Center) dấu dưới vỏ bọc một cơ quan an ninh quốc gia, và thường được gọi với cái tên bí mật là “Bright Light “.
– Thế nhưng, những hành động dũng cảm – thậm chí liều lĩnh – đã không đem lại “ánh sáng” cho tất cả các tù binh: đã có khoảng 500 người lính Việt Nam Cộng Hòa được giải thoát, 110 thi thể lính Mỹ được đưa về, nhưng đau đớn thay, không một chiến binh Hoa Kỳ nào được giải cứu!
– Vậy lý do gì khiến cho các nỗ lực của JPRC suốt 6 năm, với hơn 125 cuộc giải cứu, đã gặp thất bại? Có nhiều nguyên nhân: Thứ nhất, những “trại giam” thường xuyên di chuyển nên rất khó truy ra dấu vết. Thứ hai, do địa hình hiểm trở và khí hậu khắc nghiệt. Sau cùng là sự miễn cưỡng của các cấp chỉ huy Mỹ khi cho rằng phải chịu rủi ro quá cao mà kết quả không có gì chắc chắn. Do quá nhiều trở ngại trong khi các hoạt động giải cứu lại đòi hỏi phải thật nhanh chóng và chính xác, vì thế, kết quả thật thương tâm…
– Tác giả cũng mô tả chi tiết về hoàn cảnh những tù binh bị bắt ra sao, bị giam cầm thế nào. Có nhiều người bị chết trong khi bị bắt giữ, có người tìm cách vượt ngục và chịu đựng cuộc đuổi giết dã man của quân cộng sản.
– Điều bi thảm hơn, vì phải giữ bí mật tuyệt đối nên điệp vụ Bright Light đã gây nên nỗi đau đớn khôn cùng cho gia đình các chiến sĩ bị cầm tù hay mất tích. Họ cho rằng chẳng ai thèm ngó ngàng gì tới những người thân yêu của họ đã lên đường chiến đấu vì Tổ Quốc. Từ đó, họ lớn tiếng phản đối sự tham chiến của Mỹ tại Việt Nam. Còn với nhiều sĩ quan Hoa Kỳ từng tham gia điệp vụ, mặc cảm đã không giải cứu được đồng đội trở thành nỗi thống hận đầy xót xa, cay đắng, thế nhưng vẫn phải cố kìm nén trong im lặng…
LEAVE NO MAN BEHIND: Bill Bell and the Search for American POW/MIAs from the Vietnam War
– Bill Bell gia nhập quân ngũ năm 17 tuổi, rồi trở nên một Airborne-Ranger (Biệt Kích Dù) trực thuộc Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Ông đã 4 lần tới Việt Nam. Ông thông thạo tiếng Việt, Thái và Lào. Sau chiến tranh, ông trở lại VN với chức vụ Chief of the U.S. Office cho cơ quan POW/MIA Affairs tại Hà Nội. Trong nhiệm kỳ 12 năm, ông giúp đưa về nước 359 hài cốt binh sĩ Hoa Kỳ.
– Với kiến thức sâu sắc về Cộng Sản, với tính bền bỉ không kém một người châu Á, cộng với sự uyển chuyển “biết mình, biết người” của một nhà thao lược, tất cả đã giúp Bill thực hiện xuất sắc một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn và tế nhị. Ông tận sức tìm kiếm “câu trả lời” cho những gia đình có con, anh, em, hay chồng đã mất tích trên chiến trường Việt Nam để họ vơi bớt nỗi đau khôn nguôi.
– Bill Bell đã cống hiến những năm tháng thanh xuân cho nhiệm vụ, từ những ngày đầu khi còn là anh lính bộ binh trẻ hành quân trên núi rừng Cao Nguyên Trung Phần, đến người sĩ quan tiếp nhận lính Mỹ mất tích trong chiến dịch Operation Homecoming. Ông là một trong những người Mỹ cuối cùng rời Việt Nam trên nóc tòa Đại Sứ tháng Tư 75. Ông cũng là người đến những trại tị nạn bị bỏ rơi để phỏng vấn những nạn nhân đang trong tình trạng tuyệt vọng.
– Và chính Bill cũng chịu chung nỗi đau chia lìa của hàng triệu người dân Việt Nam: Vợ và con trai ông đã tử nạn trên chuyến bay đầu tiên của chiến dịch Operation Babylift ngày 4 tháng Tư 1975.
– Bill Bell là điển hình cho sự đấu tranh bền bỉ và khôn ngoan của một người Mỹ hơn 25 năm đối đầu với kẻ thù xảo quyệt và tàn nhẫn CSVN, ngoài mặt chúng rêu rao những lời hoa mỹ về “hàn gắn vết thương quá khứ” nhưng sau lưng xử dụng người chết để mặc cả lợi lộc chính trị và kinh tế.
– “Không Bỏ Lại Bất Kỳ Ai: Bill Bell Trong Nỗ Lực Tìm Kiếm Những Tù Binh Và Người Mỹ Mất Tích Trong Chiến Tranh Việt Nam” là câu chuyện thật của một nỗ lực đậm tình người. Qua đó, cũng vạch trần bộ mặt thật của CSVN, như được mô tả qua nguyên văn của đồng tác giả George J. Veith: “the cold hearted rulers of Hanoi“.
THÁNG TƯ ĐEN: Những Ngày Tháng Cuối Cùng của Miền Nam Việt Nam 1973-1975 (Dịch giả: Nguyễn Ngọc Anh)
– “Tháng Tư Đen” đã sưu tầm rất nhiều tài liệu Mỹ bản gốc, những cuộc phỏng vấn chưa bao giờ được công bố của một số nhân vật chính thuộc phía VNCH, và rất nhiều các điện tín và văn kiện tối mật của phe Cộng Sản Bắc Việt để viết thành một cuốn sử trung thực nhất về một trong những sự thảm bại lớn nhất và chấn động nhất trong lịch sử Hoa Kỳ mà tới bây giờ vẫn còn bị dư luận Mỹ hiểu sai.
– “Tháng Tư Đen” nghiên cứu sâu xa về hai năm cuối cùng của chiến tranh Việt Nam, làm sáng tỏ những yếu tố dẫn đến sự sụp đổ của Nam Việt Nam chỉ trong vòng 55 ngày. Sách trình bày những nguyên nhân chính, từ các tính toán độc ác của Cộng Sản Bắc Việt cố tình phá hoại Hiệp Định Paris ngay sau lúc ký kết, đến việc Mỹ lạnh lùng cắt bớt viện trợ cho Miền Nam, cho đến các quyết định quân sự và chính trị sai lầm của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu…
– “Tháng Tư Đen” đưa ra những bằng chứng đi ngược lại các luận điểm của các học giả và giới truyền thông Mỹ và quốc tế từng rêu rao rằng “Đồng minh Miền Nam của Mỹ là một bọn độc tài tham nhũng chỉ biết dựa vào hỏa lực của quân đội Mỹ”.
– “Tháng Tư Đen” kết luận:
1/ Đến năm 1973, mặc dù phải đối phó với các vấn đề nội bộ và kinh tế, Quân Đội Nam Việt Nam đã phát triển thành một lực lượng chiến đấu có khả năng đánh bại quân Cộng Sản Bắc Việt. Nếu quân đội đó đã được chi viện đầy đủ và được Hoa Kỳ yểm trợ lâu dài sau thỏa ước ngưng bắn, thì kết cục của cuộc chiến có thể khác xa.
2/ “Việt Nam Hóa” đã có tác dụng. Tuy nhiên, không có tướng lãnh Hoa Kỳ hay Nam Việt Nam nào tin rằng đất nước này có thể đứng vững nếu không có đầy đủ sự yểm trợ của Không Quân Mỹ. Lý do đơn giản là vì địa hình Việt Nam, chứ không phải vì sự thiếu ý chí của Nam Việt Nam.
3/ Người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không phải là “những kẻ bất tài vô dụng” như cái nhìn đầy thành kiến của phương Tây. Nhiều người trong số họ đã biểu lộ lòng can đảm lạ thường, thậm chí trong những tình huống tuyệt vọng như trong các trận đánh ở Tân Sơn Nhứt, Hố Nai và nhiều nơi khác nữa.