Saturday, 30 May 2015

Danh sĩ Bùi Viện

Kính thưa quý thính giả, Sách sử Việt ghi nhận, Cử nhân Bùi Viện là một trong những vị quan cấp tiến, có tinh thần canh tân về ngoại giao và khai hoang lấn biển. Ông đã mất sớm, để lại những chương trình "kinh bang tế thế" dở dang, làm mất cơ hội chấn hưng đất nước. Trong tiết mục "Danh nhân nước Việt" tối nay, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài "Danh sĩ Bùi Viện" của Việt Thái qua giọng đọc của Tam Thanh để chấm dứt chương trình tối hôm nay.
Bùi Viện hiệu là Mạnh Dực, sinh năm 1841, ở làng Trình Phố, huyện Trực Định, phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định (nay thuộc xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình). Xuất thân trong một gia đình nho học, ông và em trai là Bùi Phủng đều nối nghiệp nhà, nhưng lận đận trường thi, mãi đến năm Tự Đức thứ 21 (năm 1868) Bùi Viện mới đỗ Cử nhân và giúp việc cho Tham tri Lê Tuấn.

Tháng 5/1871, Thượng thư Bộ hình Lê Tuấn được vua Tự Đức cử làm Khâm phái Thị sư ra thanh tra công cuộc đánh dẹp loạn Cờ đen, Cờ vàng quấy rối ở miền Bắc. Thượng thư Lê Tuấn chọn Bùi Viện theo phò tá. Sau khi thành công, Bùi Viện theo Thượng thư Lê Tuấn trở lại Huế.

Ít lâu sau, Bùi Viện được điều động ra giúp Phạm Phú Thứ, Tổng đốc Hải Yên, trong việc bố phòng ven biển Hải Dương. Với 200 quân cùng lương thực, ông đã xây dựng một số cơ sở và công sự cho bến Ninh Hải, tức nền móng cho sự phát triển thành cảng Hải Phòng sau này.

Sau 10 tháng chỉ huy xây dựng bến Ninh Hải, Bùi Viện phải bàn giao việc này cho người khác, để theo Doãn Khuê, Doanh điền sứ Nam Định ra giúp việc khai hoang lấn biển, lập cảng phòng vệ duyên hải và giao thương với nước ngoài.

Khi vừa hoàn thành nhiệm vụ, ông được lệnh dẫn quân đi dẹp loạn Quảng Văn Tề ở Quảng Yên. Dẹp tan loạn Tề, ông được triều đình giao nhiệm vụ lập ra thủy quân để tuần tiễu vùng duyên hải, trấn áp hải tặc để bảo vệ ngư dân, thu thuế tàu buôn nước ngoài và ngăn chặn giặc ngoại xâm đến từ biển đổ bộ lên đất liền. Ông cho đóng 200 chiến thuyền, chiêu mộ và đào tạo 2000 thủy quân thiện chiến gọi là Tuần Dương Quân. Ông cũng lập ra hệ thống thương điếm ở khắp các tỉnh ven biển.

Với tấm lòng yêu nước, ông cùng Hoàng Phan Thái, Nguyễn Tư Giãn, Đặng Đức Thuận, Nguyễn Trường Tộ thành lập Tân đảng, khuyến cáo triều đình nên duy tân và cải cách chính trị, quân sự và văn hóa.

Ngày 1 tháng 11 năm Mậu Dần (1878) ông qua đời khi tâm nguyện duy tân chưa thành. Ông được vua Tự Đức và triều đình thương tiếc, đặc biệt là dân chúng các vùng ven biển nơi ông khai phá luôn nhớ ơn và ca tụng công đức của ông.

Bùi Viện chính là người tiếp nối chủ trương khai hoang, lấn biển từ nữ tướng Lê Chân của thời Trưng vương. Tướng Lê Chân thời ấy đã vừa chiến đấu chống lại Thái thú Tô Định của nhà Hán, vừa xuôi về vùng sông Cấm, khai hoang lấn biển lập nên "Hải Tần Phòng" từ những năm 40 sau Công Nguyên. Từ Hải Tần Phòng, Bà đã mang nghĩa quân tham gia cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đánh đuổi Tô Định. Sau bà Lê Chân, tiếp nối bao đời, bao triều đại, mảnh đất An Biên này tiếp tục được khai hoang và lấn biển.

Đây là vùng đất mà nông dân Đoàn Văn Vươn và gia đình cũng nối tiếp chí hướng mở mang bờ cõi của nữ tướng Lê Chân, của cử nhân Bùi Viện, đổ mồ hôi nước mắt và cả xương máu để lấn biển làm đầm nuôi tôm cá ở đầm Cống Rộc. Thế nhưng, khi cơ nghiệp đã thành, bắt đầu có huê lợi, thì bọn cường hào ác bá cộng sản muốn đánh cướp. Không thể ngồi nhìn gia đình lâm vào cảnh trắng tay, các anh em của ông Đoàn Văn Vươn đã vùng lên chống cự bằng các vũ khí tự chế và đã bị bạo quyền bỏ tù, nhà cửa bị san bằng và vợ con nay phải lặn lội nuôi chồng, nuôi cha trong tù.

Đây đúng là điều cay đắng trong sử Việt. Mỗi khi nhắc đến triều đình nhà Nguyễn, tập đoàn cộng sản không ngớt lời chỉ trích một cách cay nghiệt rằng, triều đình nhà Nguyễn là thối nát, hủ bại, đầu hàng thực dân Pháp. Thế nhưng triều đình này lại có công rất lớn trong việc mở mang cõi bờ, với hàng loạt vị quan nổi tiếng như An viễn Tướng quân Nguyễn Công Trứ và Bùi Viện. Chính nhờ các vị tiền bối này mà diện tích Hải Phòng và Thái Bình càng ngày càng được mở rộng, với hàng chục ngàn nông dân có được ruộng vườn, đất đai để sinh sống, nhờ các công trình đắp đê lấn biển của các vị quan đầy nhiệt huyết đó.

Ngược lại sau 70 năm cai trị của tập đoàn cộng sản, lãnh thổ Việt Nam ngày càng bị thu hẹp sau các thỏa ước dâng đất, dâng biển cho Tàu Cộng. Hàng trăm ngàn nông dân trở thành dân oan vì bị bọn quan lại cộng sản cướp đoạt ruộng vườn để mang bán cho giới tư bản xây bất động sản. Hàng ngàn con sông đang bị ô nhiễm trầm trọng trên khắp mọi miền đất nước vì chất độc thải ra từ các nhà máy, hủy diệt biết bao hoa màu của những nông dân vốn đã đói nghèo, nay càng thêm điêu đứng.

Nếu so sánh chế độ cộng sản hôm nay với thời thực dân, phong kiến trước đây, có lẽ người dân chẳng thà sống dưới triều Nguyễn hay thời Pháp thuộc hơn là sống với chế độ cộng sản. Ít nhất thì họ còn có những vị quan biết thương dân thương nước như Bùi Viện, chứ không phải là một bè lũ cướp ngày lẫn cướp đêm, với tệ nạn tham nhũng vô phương cứu chữa, như thực trạng xã hội Việt Nam hiện nay!

Việt Thái