Thursday, 23 April 2015

MỘT PHÓNG VIÊN NGƯỜI ĐỨC VIẾT VỀ VIỆT NAM

Cuốn sách Đức: "A reporter's love for a wounded people" của tác giả
Uwe Siemon-Netto đã viết xong và đang chờ 1 số người viết "foreword"
và endorsements.

Bản dịch đã xong, được phép của tác giả chúng tôi xin giới thiệu đoạn
kết rất xúc động mà tác giả đã nói lên ước muốn, cùng với người Việt
Nam nuôi dưỡng niềm hy vọng một ngày không xa, Tự Do Dân Chủ sẽ trở
lại với quê hương khốn khổ của chúng ta.
Q S

Đoạn kết
Hậu quả của khủng bố và đức hạnh của hy vọng.

Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã biệt Việt Nam. Vào năm 2015,
thế giới sẽ chứng kiến kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng của Cộng sản và
nhiều người sẽ gọi đó là ngày "giải phóng."

Ga xe lửa Huế, nơi một đầu máy và một toa hành lý khởi hành chuyến tầu
tượng trưng 500 thước mỗi buổi sáng vào lúc 8 giờ sẽ không còn đáng đi
vào kịch trường của sự phi lý nữa. Nó đã được phục hồi đẹp đẽ và sơn
phết lại mầu hồng. Một lần nữa, tương tự như những ngày dưới sự thống
trị của người Pháp, nó là nhà ga xe lửa đẹp nhất vùng Đông Dương và
tài xế tắc-xi không phải chờ đợi vô ích bên ngoài.

Mười chuyến tầu thong dong chạy qua mỗi ngày, năm chuyến xuôi Nam và năm chuyến ra Bắc. Gộp chung lại chúng được mệnh danh một cách không chính thức là Tàu Tốc Hành Thống Nhất. Chẳng lẽ nào tôi lại không mừng vui? Chuyện này có khác nào bên Đức khi bức tường Bá Linh đổ xuống và những bãi mìn biến mất, và nay những chuyến tầu cao tốc phóng ngược xuôi giữa hai xứ nguyên là Cộng sản bên Đông và Dân chủ bên Tây với tốc độ lên tới 200 dặm một giờ?

Hiển nhiên là tôi rất vui khi chiến tranh kết thúc và Việt Nam được
thống nhất và phát triển, những chuyến xe lửa đã hoạt động trở lại và
các bãi mìn đã được tháo gỡ. Nhưng đến đây thì sự tương đồng với nước
Đức chấm dứt.
 
Nước Đức hoàn thành sự thống nhất, một phần nhờ người dân tại Đông Đức đã lật đổ chế độ độc tài toàn trị bằng những cuộc biểu tình và phản
kháng ôn hòa, một phần nhờ vào sự khôn ngoan của các nguyên thủ quốc
tế như các vị Tổng thống Ronald Reagan và George G.W. Bush, của Thủ
tướng Helmut Kohl, của lãnh tụ Sô Viết Mikhail Gorbachev, và cũng phần
khác vì sự sụp đổ có thể đoán trước được của hệ thống xã hội chủ nghĩa
sai lầm trong khối Sô Viết. Không có ai bị thiệt mạng trong tiến trình
này, không một ai bị tra tấn, chẳng có ai phải vào trại tù và cũng
không có ai bị buộc phải trốn chạy.

Có một khuynh hướng khó hiểu, ngay cả trong số các vị học giả đáng
kính của phương Tây đã diễn tả sự kiện Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam
như là một cuộc "giải phóng." Điều này đặt ra một câu hỏi: giải phóng
cái gì và cho ai?
 
Có phải miền Nam đã được "giải phóng" khỏi sự áp đặt một nhà nước độc
đảng toàn trị được xếp hạng chung với những chế độ vi phạm tồi tệ nhất
thế giới về các nguyên tắc tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do ngôn
luận, tự do hội họp và tự do báo chí? Một cái thứ giải phóng gì đã làm
chết 3,8 triệu người dân Việt từ 1954 đến 1975 và đã buộc hơn một
triệu người khác phải trốn ra khỏi đất nước, không những từ miền Nam
bại cuộc mà cả từ những bến cảng miền Bắc và làm từ 200.000 đến
400.000 người gọi là thuyền nhân bị chết đuối?

Có phải là hành động giải phóng không khi xử tử 100.000 người lính
miền Nam và viên chức chính phủ sau ngày Sài Gòn thất thủ? Phải chăng
chỉ là một màn trình diễn nhân đạo của bên thắng cuộc bằng cách lùa từ
một triệu đến 2 triệu rưỡi người miền Nam vào các trại tù cải tạo,
trong đó có khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn người khác đã
bị tổn thương sọ não lâu dài và bị các vấn đề tâm thần do hậu quả của
tra tấn, theo một cuộc nghiên cứu của một nhóm học giả quốc tế do Bác
sĩ tâm thần Richard F. Molina của đại học Harvard dẫn đầu?

Từ giữa những năm 1960, những tay bịa đặt chuyện huyền thoại về chính
trị và lịch sử của phương Tây, hoặc ngây thơ hoặc bất lương, đã chấp
nhận lời giải thích của Hà Nội rằng cuộc xung đột là một cuộc "chiến
tranh nhân dân."
Cũng đúng thôi nếu chấp nhận định nghĩa của Mao Trạch Đông và Võ
Nguyên Giáp về cụm chữ đó. Nhưng theo luật văn phạm về sở hữu tự theo
cách Saxon Genitive qui định thì "chiến tranh nhân dân" phải được hiểu
là cuộc "chiến tranh của nhân dân." Thực tế không phải như vậy.

Ðã có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đã bị giết giữa các năm 1954 và
1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đã bị thủ tiêu trong cuộc tru
diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả chính trị
Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính
khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống
ngoài trận mạc, cộng thêm 58.000 quân Hoa Kỳ nữa.

Đây không thể là một cuộc chiến tranh của nhân dân mà chính là chiến
tranh chống nhân dân.
Trong tất cả những lập luận đạo đức giả về cuộc chiến Việt Nam ta gặp
quá thường trong vòng 40 năm qua, cái câu hỏi quan trọng nhất đã bị
mất dấu hay AWOL, nếu dùng một từ ngữ viết tắt quân sự có nghĩa là
"vắng mặt không phép," câu hỏi đó là: Dân Việt Nam có mong muốn một
chế độ Cộng sản hay không? Nếu có, tại sao gần một triệu người miền
Bắc đã di cư vào Nam sau khi đất nước bị chia cắt năm 1954, trong khi
chỉ có vào khoảng 130.000 cảm tình viên Việt Minh đi hướng ngược lại?

Ai đã khởi đầu cuộc chiến tranh? Có bất kỳ đơn vị miền Nam nào đã hoạt
động ở miền Bắc hay không? Không. Có du kích quân miền Nam nào vượt vĩ tuyến 17 để mổ bụng và treo cổ những người trưởng làng thân cộng, cùng vợ và con cái họ ở đồng quê miền Bắc hay không? Không. Chế độ miền Nam có tàn sát cả một giai cấp hàng chục ngàn người trên lãnh thổ của họ sau năm 1954 bằng cách tiêu diệt địa chủ và các đối thủ tiềm năng khác theo cách thống trị theo lối Sô Viết của họ hay không? Không. Miền Nam có thiết lập chế độ độc đảng toàn trị hay không? Không.

Với cương vị một người công dân Đức, tôi không can dự gì đến cuộc
chiến này, hay nói theo lối người Mỹ là "I have no dog in this fight"
(tôi chẳng có con chó nào trong vụ cắn lộn này cả). Nhưng, nhằm chú
giải cho cuốn sách "Lời nguyện của nhà báo", tương tự như các phóng
viên kỳ cựu có lương tâm, lòng tôi đã từng và vẫn còn đứng về phía dân
tộc Việt Nam nhiều đau thương.

Lòng tôi hướng về những người phụ nữ tuyệt vời với tính tình rất thẳng
thắn và vui vẻ; hướng về những người đàn ông Việt Nam khôn ngoan và vô cùng phức tạp đang theo đuổi giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách Khổng giáo; hướng về các chiến binh giống như trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang theo cái tài sản duy nhất là một lồng chim hoàng yến; hướng về
các góa phụ chiến tranh trẻ với cơ thể bị nhào nặn méo mó chỉ vì muốn
bắt một tấm chồng lính Mỹ nhằm tạo một ngôi nhà mới cho con cái và có
thể cho chính họ, còn hơn là đối mặt với độc tài Cộng sản; hướng về
nhóm trẻ em bụi đời trong thành thị cũng như ngoài nông thôn săn sóc
lẫn nhau và những con trâu đồng.

Với trái tim chai cứng còn lại, lòng tôi thuộc về những người trốn
chạy khỏi lò sát sinh và vùng chiến sự, luôn luôn đi về hướng Nam mà
không bao giờ về hướng Bắc cho đến tận cùng, khi không còn một tấc đất
nào vắng bóng Cộng sản nữa để mà trốn. Tôi đã chứng kiến họ bị thảm
sát hay bị chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi tôi vẫn còn
phảng phất mùi hôi thối của những thi thể đang thối rữa.

Tôi không có mặt vào lúc Sài Gòn thất thủ sau khi toàn bộ các đơn vị
Quân Lực VNCH, thường xuyên bị bôi bẩn một cách ác độc bởi truyền
thông Hoa Kỳ, giờ đây bị những đồng minh người Mỹ của họ bỏ rơi, đã
chiến đấu một cách cao thượng, biết rằng họ không thể thắng hay sống
sót khỏi trận đánh cuối cùng này.

Tôi đang ở Paris, lòng sầu thảm khi tất cả những chuyện này xẩy ra và
tôi ước gì có dịp tỏ lòng kính trọng năm vị tướng lãnh VNCH trước khi
họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một cuộc chiến mà họ đã có thể
thắng: Lê Văn Hưng (sinh năm 1933), Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933),
Nguyễn Khoa Nam (sinh năm 1927), Trần Văn Hai (sinh năm 1927) và Phạm Văn Phú (sinh năm 1927).

Khi tôi viết đoạn kết này, một ký giả đồng nghiệp và một loại học giả
sinh năm 1975 khi Sài Gòn bị thất thủ, đã tự tạo cho bản thân một thứ
tên tuổi bằng cách bêu xấu tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam.
Vâng, họ thật đáng bị bêu xấu. Đúng, đó là sự thật. Mỹ Lai có thật.
Tôi biết, tôi đã có mặt trong phiên tòa mặt trận khi Trung úy William
Calley bị kết án là có tội. Tôi biết cái tiêu chuẩn đếm xác chết được
tôn sùng bởi đầu óc méo mó của các cấp chỉ huy quân sự cũng như dân sự thời đại Mc Namara tại Washington và bản doanh Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã làm tổn hại hàng ngàn mạng sống của người dân vô tội.

Nhưng không có hành vi tàn ác nào của các đơn vị rối loạn Hoa Kỳ và
VNCH có thể sánh bằng cuộc tàn sát do lệnh nhà nước giáng xuống đầu
người miền Nam nhân danh Hồ Chí Minh. Những tội ác mà cho đến ngày nay những kẻ kế thừa thậm chí vẫn không thừa nhận vì không ai có cái dũng cảm hỏi họ: Tại sao các anh thảm sát tất cả những người vô tội mà các anh rêu rao là đi chiến đấu để giải phóng họ?

Với tư cách một người Đức, tôi xin được thêm một đoạn chú thích như
sau: tại sao các anh giết người bạn của tôi là Hasso Rüdt von
Collenberg, tại sao lại giết các bác sĩ người Đức ở Huế, và anh Otto
Söllner tội nghiệp mà "tội ác" duy nhất là dạy trẻ em Việt Nam cách
điều khiển một ban nhạc hòa tấu? Tại sao các anh bắt cóc những thanh
niên thiện nguyện Knights of Malta, làm cho một số bị chết trong rừng
rậm và số khác thì bị giam cầm tại Hà Nội? Tại sao các anh không bao
giờ tự xét lương tâm về những hành động đó, theo cách những người Mỹ
chính trực trong khi họ đã được xác định một cách đúng đắn là họ thuộc
về phía lẽ phải trong cuộc Đại Chiến Thứ Hai, vẫn bị dằn vặt bởi cái
di sản khủng khiếp để lại vì đánh bom rải thảm những khu dân cư trong
nước Đức và tấn công bằng bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki?

Hồi tưởng lại cuộc thử thách trên con đường mòn Hồ Chí Minh trong tạp
chí Der Spiegel, cô y tá Tây Đức Monika Schwinn nhớ lại cuộc gặp gỡ
với các đơn vị chiến đấu Bắc Việt trên đường xuống phía Nam như là một
trong những kinh nghiệm khủng khiếp nhất. Cô diễn tả cái cường độ của
mối hận thù trên khuôn mặt của những tên lính đó và cô viết chính
những tên Việt Cộng canh chừng phải khó khăn lắm mới ngăn chận họ
không giết những người Đức ngay tại chỗ. Không có ai sinh ra là biết
hận thù cả. Sự thù hận chỉ có thể có được do dậy dỗ. Nuôi dưỡng tính
giết người trong lòng thanh niên là một khuôn phép huấn luyện chỉ có
trường phái chủ nghĩa toàn trị là giỏi nhất.

Trong cuốn tiểu sử rất hay nói về tay chỉ huy SS Heinrich Himmler, sử
gia Peter Longerich diễn tả là ngay cả gã sáng lập viên cái lực lượng
tàn độc gồm những tên côn đồ mặc đồ đen cũng khó lòng buộc thuộc hạ
vượt qua sự kiềm chế tự nhiên để thi hành lệnh thảm sát Holocaust
(Longerich. Heinrich Himmler. Oxford: 2012). Chính cái ánh mắt thù hận
của những tên sát nhân Bắc Việt tại Huế làm ám ảnh những người tôi
phỏng vấn hơn cả.
Nhưng dĩ nhiên phải dành nhiều thời gian với họ, chịu sự đau khổ cùng
họ, tạo niềm tin và trò chuyện với họ thì mới khám phá ra cái cốt lõi
của một phần nhân tính con người, một hiểm họa về mặt chính trị và
quân sự vẫn còn quanh quẩn bên chúng ta từ bốn thập niên qua. Chỉ phán
ý kiến về nó từ trên tháp ngà đài truyền hình New York hay các trường
đại học Ivy League thì không bao giờ đủ cả.
Trong một cuốn sách gây chú ý về đoàn quân Lê Dương Pháp, Paul
Bonnecarrère đã kể lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đại tá đầy huyền thoại
Pierre Charton và Tướng Võ Nguyên Giáp sau khi Pháp thất trận tại Điên
Biên Phủ (Bonnecarrère. Par le Sang Versé. Paris: 1968). Charton là tù
binh trong tay Cộng sản Việt Minh. Giáp đến thăm Charton nhưng cũng để
hả hê. Cuộc gặp gỡ xẩy ra trong một lớp học trước mặt khoảng 20 học
viên đang tham dự một buổi tuyên truyền chính trị. Cuộc đối thoại giữa
hai nhân vật đối chọi nhau đã xẩy ra như sau:
Giáp: "Tôi đã đánh bại ông, thưa Đại tá!"
Charton: "Không, ông không đánh bại tôi, thưa Đại tướng. Rừng rậm đã
đánh bại chúng tôi... cùng sự hỗ trợ các ông đã nhận được từ người dân
bằng các phương tiện khủng bố."

Võ Nguyên Giáp không ưa câu trả lời này và cấm các học viên không được
ghi chép nó. Nhưng đó là sự thật, hay chính xác hơn: đó là một nửa của
sự thật. Cái nửa kia là các nền dân chủ như Hoa Kỳ đúng là không được
trang bị về chính trị và tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ.
Sự nhận thức này, cùng với cách sử dụng các phương tiện khủng bố đã
trở thành trụ cột trong chiến lược của Võ Nguyên Giáp. Hắn đã đúng và
hắn đã thắng. Thậm chí nguy hiểm hơn nữa là ngày nay các chế độ toàn
trị đang chú ý đến điểm này.
 
Cho đến tận ngày hôm nay tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi cái kết luận tôi
bắt buộc phải rút ra từ kinh nghiệm về Việt Nam là: khi một nền văn
hóa bê tha hủ hóa đã mệt mỏi về lòng hy sinh, nó sẽ có khả năng vứt bỏ
tất cả. Nó đã chín mùi để bỏ rơi một dân tộc mà đáng lẽ nó phải bảo
vệ. Nó còn thậm chí sẵn sàng xóa đi những mạng sống, sức khoẻ về thể
chất và tinh thần, nhân phẩm, trí nhớ và danh thơm của những thanh
niên đã được đưa ra mặt trận. Điều này đã xẩy ra trong trường hợp các
cựu chiến binh Việt Nam. Tác động của sự khiếm khuyết đã ăn sâu trong
các nền dân chủ tự do này rất đáng sợ vì cuối cùng nó sẽ phá hỏng
chính nghĩa và tiêu diệt một xã hội tự do.

Tuy nhiên tôi không thể kết thúc câu chuyện ở đây bằng điều tăm tối
này được. Là một người quan sát về lịch sử, tôi biết là lịch sử, mặc
dù được khép kín trong quá khứ, vẫn luôn luôn mở rộng ra tương lai. Là
một Ki-Tô hữu tôi biết ai là Chúa của lịch sử. Chiến thắng của Cộng
sản dựa vào những căn bản độc ác: khủng bố, tàn sát và phản bội.
Hiển nhiên tôi không biện minh cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm chỉnh
lại kết quả, cho dù có khả thi đi chăng nữa. Nhưng là một người ngưỡng
mộ tính kiên cường của dân tộc Việt Nam, tôi tin là họ sẽ cuối cùng
tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát
khỏi những tay bạo chúa. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều
đó sẽ xẩy ra.
 
Trong ý nghĩa này, tôi bây giờ chỉ muốn xếp hàng vào đoàn xích-lô bên
ngoài ga xe lửa Huế vào năm 1972, nơi chẳng có người khách nào quay
trở lại. Chỗ của tôi ở đâu bây giờ? Tôi còn lại gì nữa ngoài niềm hy
vọng?