Mỹ đang chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh trong tương lai, trong khi tranh thủ quân đội của càng nhiều đồng minh càng tốt trong chiến dịch của Lầu Năm Góc, để bao vây Trung cộng, bởi theo như tờ ‘The Nation’ gần đây đăng bài viết của giáo sư Michael T. Klare tại trường Hampshire College, cho rằng Mỹ đang tiến tới chiến tranh với Trung cộng..
Ngày 30/5, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis công bố một sự thay đổi quan trọng trong chính sách chiến lược toàn cầu của Mỹ, trong đó ra lệnh kể từ nay trở đi, Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Mỹ (PACOM), lực lượng chịu trách nhiệm giám sát tất cả các lực lượng quân đội của Mỹ ở châu Á, sẽ được gọi là Bộ tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương Mỹ (INDOPACOM). Ông Mattis giải thích sự thay đổi tên này phản ánh “sự kết nối ngày càng tăng giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương”, cũng như quyết tâm của Washington duy trì sức mạnh vượt trội trên cả 2 khu vực.
Ngày 30/5, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis công bố một sự thay đổi quan trọng trong chính sách chiến lược toàn cầu của Mỹ, trong đó ra lệnh kể từ nay trở đi, Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Mỹ (PACOM), lực lượng chịu trách nhiệm giám sát tất cả các lực lượng quân đội của Mỹ ở châu Á, sẽ được gọi là Bộ tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương Mỹ (INDOPACOM). Ông Mattis giải thích sự thay đổi tên này phản ánh “sự kết nối ngày càng tăng giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương”, cũng như quyết tâm của Washington duy trì sức mạnh vượt trội trên cả 2 khu vực.
Giáo sư Klare cho rằng có thể nhiều người không thấy hết được ý nghĩa của sự thay đổi tên này. Nhưng một ngày nào đó họ sẽ nhận ra tầm quan trọng và những hậu quả ‘đáng ngại’ của nó. Đó là một tín hiệu cho thấy quân đội Mỹ đã lập ra một ‘vũ đài’ cho một cuộc đối đầu không thể tránh khỏi với Trung cộng.
Theo giáo sư Klare, không có gì ngạc nhiên nếu mọi người không biết về quyết định trên của ông Mattis, bởi vì giới truyền thông đã hầu như không chú ý đến nó. Những tin tức được truyền thông đưa ra, coi sự thay đổi tên này là không hơn một cử chỉ “tượng trưng”, một ‘mưu kế’ của Lầu Năm Góc, nhằm khuyến khích Ấn Độ tham gia cùng với Nhật Bản, Úc và các đồng minh khác của Mỹ vào hệ thống liên minh Thái Bình Dương của Mỹ.
Theo giáo sư Klare, không có gì ngạc nhiên nếu mọi người không biết về quyết định trên của ông Mattis, bởi vì giới truyền thông đã hầu như không chú ý đến nó. Những tin tức được truyền thông đưa ra, coi sự thay đổi tên này là không hơn một cử chỉ “tượng trưng”, một ‘mưu kế’ của Lầu Năm Góc, nhằm khuyến khích Ấn Độ tham gia cùng với Nhật Bản, Úc và các đồng minh khác của Mỹ vào hệ thống liên minh Thái Bình Dương của Mỹ.
Việc các nhà phân tích quân sự của các hãng truyền thông không nhận thấy bất cứ điều gì khác ngoài tính biểu tượng khi thay đổi tên PACOM, là không có gì đáng ngạc nhiên, khi xem xét bối cảnh tất cả sự chú ý đều đang dành cho những diễn biến quốc tế quan trọng khác vào thời điểm đó, như Hội nghị thượng đỉnh tại Singapore, sự lăng mạ tại Hội nghị G7 ở Canada và sau đó, hay những vấn đề đáng lo ngại từ Iran.
Giáo sư Klare tin rằng bản thân ông Mattis hiểu rất rõ ý nghĩa địa chính trị của việc liên kết Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, trong một kế hoạch như vậy. Trên thực tế, việc thay đổi tên PACOM là một sự thay đổi cơ bản trong tư duy quân sự của Mỹ, với những hậu quả tiềm ẩn sâu rộng.
Xem xét bối cảnh cho việc thay đổi tên, người ta nhận thấy trong những tháng gần đây, Mỹ đã đẩy mạnh các cuộc tuần tra hải quân trên những vùng biển tiếp giáp với các hòn đảo mà Trung cộng chiếm giữ ở Biển Đông, khiến cho khả năng đụng độ tăng cao giữa các tàu chiến của 2 nước. Những động thái như vậy thậm chí được thực hiện cùng với những ngôn từ đe dọa hơn từ Bộ Quốc phòng Mỹ, cho thấy ý định không có gì khác ngoài việc giao chiến với quân đội Trung cộng, nếu như Bắc Kinh vẫn tiếp tục gia tăng lực lượng trong khu vực.
“Khi nói đến những gì mà họ đã làm ở Biển Đông, thì đó chính là những hậu quả”, ông Mattis tuyên bố tại ‘Đối thoại chiến lược Shangri La’ ở Singapore hôm 2/6.
Như một dấu hiệu mở đầu cho những gì muốn nói, ông Mattis đã nhanh chóng loại Trung cộng ra khỏi cuộc tập trận hải quân đa quốc gia lớn nhất thế giới RIMPAC, được tiến hành hàng năm dưới sự bảo trợ của Mỹ.
“Nhưng đó là một hậu quả tương đối nhỏ, và tôi tin rằng có những hậu quả lớn hơn trong tương lai”, ông Mattis cảnh báo.
Với suy nghĩ đó, ông Mattis đã nhanh chóng thông báo Lầu Năm Góc đang có kế hoạch tiến hành các hoạt động hải quân “đều đặn gây chú ý” tại các vùng biển tiếp giáp với các hòn đảo bị Trung cộng chiếm đóng [bất hợp pháp].
Điều này sẽ làm tăng sức nóng giữa 2 nước, có thể tạo ra các hoàn cảnh cho những tính toán sai lầm, hoặc thậm chí là một xung đột trên biển, khiến cho tình hình trở nên tồi tệ hơn, giáo sư Klare nhận xét.
Ngoài các hành động khiến gia tăng căng thẳng tại các vùng biển gần kề với Trung cộng, Lầu Năm Góc cũng đang nỗ lực tăng cường quan hệ quân sự với các quốc gia thân thiện với Mỹ trong khu vực. Rõ ràng tất cả những hành động này là một phần của một kế hoạch ‘bao vây dài hạn’, theo kiểu Chiến tranh Lạnh, nhằm kiềm chế Trung cộng gây hấn ở châu Á.
Ví dụ ngày 8/6, Bộ quốc phòng Mỹ đã tiến hành cuộc tập trận hải quân chung Malabar 2018 ở Thái Bình Dương, bao gồm các lực lượng của Nhật Bản và Ấn Độ. Trên thực tế, việc kết nạp Ấn Độ, từng là một nước trung lập, vào hệ thống liên minh “Thái Bình Dương” chống lại Trung cộng của Mỹ, theo cách này và những cách khác, đã trở thành mục tiêu chính của Lầu Năm Góc vào thế kỷ 21, tạo ra một mối đe dọa mới đáng kể đối với Trung cộng.
Các tàu chiến của hải quân Ấn Độ, Nhật Bản và Mỹ trong cuộc tập trận chung Malabar 2017.
Trong nhiều thập kỷ, mục tiêu chính trong chiến lược của Mỹ ở châu Á là giúp đỡ các đồng minh chủ chốt ở Thái Bình Dương bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Philippines, trong khi kiềm chế quyền lực của Trung cộng ở các vùng biển lân cận, bao gồm Biển Đông và Biển Hoa Đông.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, Trung cộng đã tìm cách mở rộng tầm ảnh hưởng sang khu vực Đông Nam Á và Ấn Độ Dương, qua sáng kiến thương mại và hạ tầng “Một vành đai, Một con đường” đầy tham vọng của họ, gây sửng sốt đối với lục địa Á -Âu và châu Phi.
Dự án to lớn này rõ ràng có nghĩa vừa là một phương tiện hợp tác ‘độc nhất, vô nhị’, vừa là một cách để trói buộc phần lớn lục địa Á – Âu vào một hệ thống kinh tế và năng lượng, tập trung vào Trung cộng trong tương lai. Bị đe dọa bởi những ảo tưởng về tương lai như vậy của Trung cộng, các nhà chiến lược Mỹ đã hành động thậm chí quyết đoán hơn, nhằm hạn chế Trung cộng tiếp cận những khu vực này. Đó là bối cảnh cho các nhà hoạch định chiến lược quân sự Mỹ kết nối Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, và do đó bao vây Trung cộng với các hệ thống liên minh ủng hộ Mỹ, chống lại Trung cộng. Việc thay đổi tên vào ngày 30/5 là một sự thừa nhận chính thức của Mỹ về một chiến lược bao vây [Trung cộng], mà không có gì lợi hại hơn về lâu dài.
Sẵn sàng chiến tranh với Trung cộng
Theo giáo sư Klare, một số thông tin cơ bản về lịch sử PACOM trước đây, có thể hữu ích cho việc thấy được tầm quan trọng của những động thái như vậy của Mỹ.
Ban đầu được gọi là Bộ Tư lệnh Viễn Đông, PACOM được thành lập vào năm 1947, có trụ sở chính tại các căn cứ của Mỹ gần Honolulu, Hawai.
Hiện INDOPACOM có “lĩnh vực trách nhiệm” trên một khu vực rộng lớn, bao gồm: Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á, cũng như Úc, New Zealand và vùng biển của Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Hay nói theo một cách khác, khu vực này chiếm khoảng 50% diện tích trái đất, với hơn 50% dân số thế giới. Trong số các bộ tư lệnh được Mỹ phân bố trên toàn thế giới, thì INDOPACOM chính là bộ tư lệnh lớn nhất, mới được mở rộng với 375.000 nhân viên quân sự và dân sự.
Sẵn sàng chiến tranh với Trung cộng
Theo giáo sư Klare, một số thông tin cơ bản về lịch sử PACOM trước đây, có thể hữu ích cho việc thấy được tầm quan trọng của những động thái như vậy của Mỹ.
Ban đầu được gọi là Bộ Tư lệnh Viễn Đông, PACOM được thành lập vào năm 1947, có trụ sở chính tại các căn cứ của Mỹ gần Honolulu, Hawai.
Hiện INDOPACOM có “lĩnh vực trách nhiệm” trên một khu vực rộng lớn, bao gồm: Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á, cũng như Úc, New Zealand và vùng biển của Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Hay nói theo một cách khác, khu vực này chiếm khoảng 50% diện tích trái đất, với hơn 50% dân số thế giới. Trong số các bộ tư lệnh được Mỹ phân bố trên toàn thế giới, thì INDOPACOM chính là bộ tư lệnh lớn nhất, mới được mở rộng với 375.000 nhân viên quân sự và dân sự.
Trước khi Ấn Độ Dương được hợp vào một cách rõ ràng, PACOM chủ yếu tập trung vào việc duy trì quyền kiểm soát khu vực Tây Thái Bình Dương, đặc biệt là ở các vùng biển xung quanh một số quốc đảo và bán đảo thân thiện với Mỹ như Nhật Bản, Hàn Quốc và Philippines. Cấu trúc lực lượng của PACOM phần lớn bao gồm các phi đội không quân và hải quân, cùng với sự hiện diện của Thủy quân Lục chiến Mỹ trên đảo Okinawa của Nhật Bản.
Đơn vị chiến đấu mạnh nhất của INDO PACOM là Hạm đội Thái Bình Dương, lớn nhất trên thế giới, cũng như diện tích mà nó hiện nay bao trùm. INDOPACOM có sự tham gia của Hạm đội 3 và Hạm đội 7, với khoảng 200 tàu chiến và tàu ngầm, gần 1.200 máy bay, và hơn 130.000 thuỷ thủ, phi công, lính thủy đánh bộ và nhân viên dân sự.
Đơn vị chiến đấu mạnh nhất của INDO PACOM là Hạm đội Thái Bình Dương, lớn nhất trên thế giới, cũng như diện tích mà nó hiện nay bao trùm. INDOPACOM có sự tham gia của Hạm đội 3 và Hạm đội 7, với khoảng 200 tàu chiến và tàu ngầm, gần 1.200 máy bay, và hơn 130.000 thuỷ thủ, phi công, lính thủy đánh bộ và nhân viên dân sự.
Cho đến gần đây, nỗi lo ngại hàng ngày lớn nhất mà Bộ tư lệnh phải đối mặt là khả năng xung đột với Triều Tiên, được trang bị vũ khí hạt nhân. Trong những năm gần đây, PACOM đã tham gia một loạt các cuộc tập trận, được thiết kế để kiểm tra khả năng vượt qua các lực lượng phòng thủ của Triều Tiên, phá hủy các tài sản quân sự quan trọng của Bình Nhưỡng, bao gồm các cơ sở hạt nhân và tên lửa.
Không nghi ngờ gì, tất cả những hoạt động này chắc chắn được thực hiện với mục đích cảnh báo cho lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un về những gì mà ông ấy có thể đối mặt, nếu như vẫn tiếp tục theo đuổi con đường thử nghiệm hạt nhân và tên lửa đầy khiêu khích và không bao giờ hết. Tuy nhiên có vẻ như Tổng thống Trump, đã tạm dừng các cuộc tập trận như thế này ít nhất là trong thời gian này, do kết quả của cuộc họp thượng đỉnh của ông với ông Kim.
Ngoài vấn đề Triều Tiên, mối bận tâm cơ bản của các tư lệnh PACOM, từ lâu chính là sức mạnh ngày càng gia tăng của Trung cộng, và cách làm thế nào để ngăn chặn nó. Điều này được thể hiện rõ tại nghi thức thay đổi tên hôm 30/5 ở Hawai, khi ông Mattis tuyên bố sự thay đổi tên và chủ trì nghi lễ. Đô đốc Harry Harris Jr. được thay thế bởi Đô đốc Phil Davidson, chỉ huy INDOPACOM.
Ngoài vấn đề Triều Tiên, mối bận tâm cơ bản của các tư lệnh PACOM, từ lâu chính là sức mạnh ngày càng gia tăng của Trung cộng, và cách làm thế nào để ngăn chặn nó. Điều này được thể hiện rõ tại nghi thức thay đổi tên hôm 30/5 ở Hawai, khi ông Mattis tuyên bố sự thay đổi tên và chủ trì nghi lễ. Đô đốc Harry Harris Jr. được thay thế bởi Đô đốc Phil Davidson, chỉ huy INDOPACOM.
Giáo sư Klare lưu ý rằng, trong khi tránh đề cập trực tiếp đến Trung cộng trong bài phát biểu khai mạc, ông Mattis đã thể hiện rõ ràng rằng tên mới của PACOM là một sự thách thức, cần thiết huy động các nước đối lập (với Trung cộng) trong tương lai tại khu vực, chống lại tham vọng và giấc mơ của Trung cộng. Ông Mattis cũng nhấn mạnh rằng các quốc gia khác đón chào sự ủng hộ của Mỹ, bởi vì họ thích môi trường “buôn bán tự do, công bằng và cùng có lợi, không bị ràng buộc bởi bất kỳ sự đe dọa ép buộc hoặc nền kinh tế ‘trấn lột’ của bất kỳ quốc gia nào, khi mà Ấn Độ – Thái Bình Dương có rất nhiều vành đai và nhiều con đường”.
Cựu đô đốc Harris thậm chí thẳng thừng tuyên bố rằng mặc dù “Triều Tiên là mối đe dọa trực tiếp nhất của chúng ta, nhưng Trung cộng vẫn là thách thức lâu dài lớn nhất của chúng ta”.
Ông Harris cảnh báo nếu không có những nỗ lực nhanh chóng của Mỹ và các nước đồng minh nhằm ngăn chặn Bắc Kinh, Trung cộng sẽ hiện thực hóa giấc mơ bá chủ của họ ở châu Á”.
Cựu đô đốc Harris thậm chí thẳng thừng tuyên bố rằng mặc dù “Triều Tiên là mối đe dọa trực tiếp nhất của chúng ta, nhưng Trung cộng vẫn là thách thức lâu dài lớn nhất của chúng ta”.
Ông Harris cảnh báo nếu không có những nỗ lực nhanh chóng của Mỹ và các nước đồng minh nhằm ngăn chặn Bắc Kinh, Trung cộng sẽ hiện thực hóa giấc mơ bá chủ của họ ở châu Á”.
Thừa nhận vẫn còn có thể hợp tác với Trung cộng trong một số vấn đề giới hạn, nhưng ông Harris nhấn mạnh: “chúng ta nên sẵn sàng đối đầu với họ khi chúng ta phải”.
Kế nhiệm ông Harris, Đô đốc Davidson, dường như còn quyết tâm hơn nữa, khi đưa việc đối đầu với Trung cộng lên ưu tiên hàng đầu trong chương trình hành động của mình. Trong phiên điều trần phê chuẩn việc đề cử của mình trước Ủy ban Quân vụ Thượng viện hôm 17/4, ông Davidson liên tục nhấn mạnh mối đe dọa do các hoạt động quân sự của Bắc Kinh ở Biển Đông gây ra, hứa sẽ chống lại Trung cộng một cách mạnh mẽ.
“Một khi [các đảo trên Biển Đông] bị chiếm đóng, Trung cộng sẽ có thể mở rộng ảnh hưởng của mình hàng ngàn dặm về phía nam, và lấn sâu vào Châu Đại Dương”, ông Davidson cảnh báo.
“Quân Giải phóng Nhân dân (PLA) sẽ có thể sử dụng những căn cứ này để thách thức sự hiện diện của Mỹ trong khu vực. Bất kỳ lực lượng nào được triển khai đến các hòn đảo, sẽ dễ dàng áp đảo lực lượng quân sự của bất kỳ nước nào khác, có yêu sách ở Biển Đông. Tóm lại, Trung cộng giờ đây có khả năng kiểm soát Biển Đông trong mọi tình huống trừ phi có chiến tranh với Mỹ”, ông Davidson nhận định.
“Để ngăn chặn một tình huống mà Trung cộng có nhiều khả năng chiến thắng cuộc xung đột”, ông Davidson khẳng định trong khi giải thích trước quan chức Lầu Năm Góc: “Chúng ta phải có được năng lực mạnh một cách kịp thời, bảo vệ mạng lưới đồng minh và đối tác của chúng ta; tiếp tục tuyển dụng và huấn luyện những binh lính, thủy thủ, phi công, Thủy quân lục chiến, và những người lính bảo vệ bờ biển, tốt nhất trên thế giới”.
Ưu tiên hàng đầu của ông Davidson là mua sắm vũ khí tối tân, tổ hợp chúng vào cơ cấu lực lượng của Bộ tư lệnh, đảm bảo rằng các binh lính Mỹ sẽ luôn tận hưởng lợi thế công nghệ so với các đối thủ Trung cộng, trong bất kỳ cuộc đối đầu nào trong tương lai.
Không ngạc nhiên, xem xét các cuộc đụng độ thường kỳ giữa các lực lượng Trung cộng và Ấn Độ, dọc theo vùng biên giới Himalaya, cũng như việc Trung cộng triển khai tàu chiến thường xuyên ở Ấn Độ Dương, thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã cho thấy ông ngày càng có khuynh hướng gia nhập Washington trong các thu xếp quân sự, nhằm hạn chế sự tiếp cận địa chính trị của Trung cộng.
Trong lời chứng thực gần đây trước Hạ viện Mỹ, Đô đốc Davidson cho rằng: “Mối quan hệ đối tác chiến lược lâu dài với Ấn Độ là phù hợp với mục đích và mục tiêu của Mỹ ở Ấn Độ – Thái Bình Dương”.
Ngay sau khi làm lễ nhậm chức tư lệnh INDOPACOM, đô đốc Davidson tuyên bố: “Tôi sẽ duy trì động lực và quỹ đạo tích cực của quan hệ đối tác chiến lược đang phát triển của chúng ta”. Rõ ràng mục tiêu cụ thể của ông Davidson là: “tăng cường hợp tác an ninh hàng hải”, giáo sư Klare nhận định.
Theo giáo sư Klare, với cách giới truyền thông đưa tin về việc thay đổi tên của PACOM ở Mỹ, mọi người sẽ nghĩ rằng bất quá nó chỉ phản ánh một mong muốn lành mạnh cho những kết nối kinh tế lớn hơn giữa khu vực Ấn Độ và Thái Bình Dương, cũng như một dấu hiệu về quan hệ ngày càng tăng của Mỹ với Ấn Độ. Không có chỗ nào có sự ám chỉ, có thể có, về một cách tiếp cận mới thù địch, có khả năng đe dọa đối với Trung cộng, như cách mà Bắc Kinh có thể hiểu. Không nghi ngờ gì, Trung cộng sẽ xem những động thái như vậy của Mỹ, bao gồm cả những hoạt động của hải quân Mỹ gần đây tại quần đảo Hoàng Sa tranh chấp trên Biển Đông, là những hành động ‘khiêu khích’, và nguy hiểm.
Theo giáo sư Klare, với cách giới truyền thông đưa tin về việc thay đổi tên của PACOM ở Mỹ, mọi người sẽ nghĩ rằng bất quá nó chỉ phản ánh một mong muốn lành mạnh cho những kết nối kinh tế lớn hơn giữa khu vực Ấn Độ và Thái Bình Dương, cũng như một dấu hiệu về quan hệ ngày càng tăng của Mỹ với Ấn Độ. Không có chỗ nào có sự ám chỉ, có thể có, về một cách tiếp cận mới thù địch, có khả năng đe dọa đối với Trung cộng, như cách mà Bắc Kinh có thể hiểu. Không nghi ngờ gì, Trung cộng sẽ xem những động thái như vậy của Mỹ, bao gồm cả những hoạt động của hải quân Mỹ gần đây tại quần đảo Hoàng Sa tranh chấp trên Biển Đông, là những hành động ‘khiêu khích’, và nguy hiểm.
Vào cuối tháng 5/2018, khi Lầu Năm Góc phái 2 tàu chiến, bao gồm tàu khu trục USS Higgins và tàu tuần dương USS Antietam, đến vùng biển gần một trong những hòn đảo mới được Trung cộng củng cố, Bắc Kinh ngay lập tức đáp trả bằng việc điều một số tàu chiến đến khu vực, trong lên án các cuộc tuần tra ‘khiêu khích’ của hải quân Mỹ. Người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung cộng tuyên bố hành động của Mỹ “nghiêm trọng vi phạm chủ quyền của Trung cộng [và] làm suy yếu niềm tin chiến lược lẫn nhau”. Được Lầu Năm Góc mô tả là “hoạt động tự do hàng hải (FRONOPs), các cuộc tuần tra như vậy được thiết lập ngày càng nhiều theo chỉ thị của ông Mattis.
Tất nhiên, người Trung cộng khó có thể ‘vô can’ khi căng thẳng gia tăng trong khu vực. Trung cộng đã tiếp tục quân sự hóa các đảo bị tranh chấp trên Biển Đông, bất chấp lời hứa của Chủ tịch Trung cộng Tập Cận Bình trước Tổng thống Obama trong năm 2015 rằng sẽ không làm như vậy. Việt Nam, Philippines và một số quốc gia khác, cũng tuyên bố chủ quyền với một số trong số các hòn đảo này, làm gia tăng sự bất đồng gay gắt giữa các quốc gia về việc nước nào thực sự có quyền sở hữu chúng. Bắc Kinh đơn giản tuyên bố chủ quyền đối với tất cả các hòn đảo này, từ chối thỏa hiệp về vấn đề này. Bằng cách củng cố các hòn đảo, mà bị các tư lệnh quân đội Mỹ xem như là một mối đe dọa quân sự tiềm ẩn cho các lực lượng Mỹ trong khu vực, Bắc Kinh đã gây ra một phản ứng đặc biệt dữ dội từ Mỹ.
Tất nhiên, người Trung cộng khó có thể ‘vô can’ khi căng thẳng gia tăng trong khu vực. Trung cộng đã tiếp tục quân sự hóa các đảo bị tranh chấp trên Biển Đông, bất chấp lời hứa của Chủ tịch Trung cộng Tập Cận Bình trước Tổng thống Obama trong năm 2015 rằng sẽ không làm như vậy. Việt Nam, Philippines và một số quốc gia khác, cũng tuyên bố chủ quyền với một số trong số các hòn đảo này, làm gia tăng sự bất đồng gay gắt giữa các quốc gia về việc nước nào thực sự có quyền sở hữu chúng. Bắc Kinh đơn giản tuyên bố chủ quyền đối với tất cả các hòn đảo này, từ chối thỏa hiệp về vấn đề này. Bằng cách củng cố các hòn đảo, mà bị các tư lệnh quân đội Mỹ xem như là một mối đe dọa quân sự tiềm ẩn cho các lực lượng Mỹ trong khu vực, Bắc Kinh đã gây ra một phản ứng đặc biệt dữ dội từ Mỹ.
Theo giáo sư Klare, quan điểm chiến lược mà Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mattis, cũng như đô đốc Harris và Davidson đưa ra, chắc chắn bị Bắc Kinh coi là mối đe dọa, và là bằng chứng về kế hoạch tổng thể của Washington bao vây Trung cộng, hạn chế và ngăn chặn Trung cộng thống trị khu vực mà các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh tin rằng họ có quyền như là một cường quốc đang trỗi dậy trên thế giới.
Đối với giới lãnh đạo Trung cộng, việc đổi tên PACOM thành INDOPACOM, là một dấu hiệu cho thấy quyết tâm của Washington mở rộng sự hiện diện quân sự chưa từng có của Mỹ sang phía tây, từ Thái Bình Dương, quanh Đông Nam Á sang Ấn Độ Dương, và qua đó tiếp tục hạn chế tham vọng bành trướng của Trung cộng trong khu vực.
Vậy các nhà lãnh đạo Trung cộng sẽ phản ứng như thế nào trước những động thái chiến lược này của Mỹ, giáo sư Klare đặt câu hỏi?
Một điều chắc chắn Trung cộng sẽ không xem nó với sự thờ ơ.. Ngược lại, giống như các cường quốc bị thách thức thường làm, Trung cộng chắc chắn sẽ tìm cách để chống lại ‘chiến lược ngăn chặn’ của Mỹ, bằng bất cứ phương tiện nào có trong tay. Ban đầu, có thể không công khai về quân sự, nhưng về lâu dài chắc chắn Trung cộng sẽ hành động mạnh mẽ và liên tục. Bắc Kinh sẽ nỗ lực cạnh tranh với Washington trong việc theo đuổi các đồng minh châu Á, như đã thấy trong việc Bắc Kinh cố gắng ‘ve vãn’ Tổng thống Rodrigo Duterte của Philippin. Trung cộng cũng sẽ cố gắng đạt được các dàn xếp mới ở nước ngoài, có thể dưới cái cớ thành lập các cảng vận tải đường biển thương mại, như họ đã làm ở Pakistan và Sri Lanka. Tất cả những điều này sẽ chỉ tạo thêm căng thẳng mới cho một mối quan hệ đầy lo lắng với Mỹ.
Khi mà có càng nhiều tàu chiến hơn của 2 nước đến tuần tra trong khu vực, thì sẽ có khả năng xảy ra các tai nạn, những sai lầm, và các cuộc đụng độ quân sự trong tương lai sẽ chỉ có thể tăng lên.
Giáo sư Klare cho rằng với khả năng chiến tranh với Triều Tiên phai mờ dần sau hội nghị thượng đỉnh Singapore gần đây, một điều chắc chắn Bộ Tư lệnh Ấn Độ -Thái Bình Dương mới của Mỹ sẽ chỉ tập trung cho những ưu tiên quan trọng hơn. Đó là chuẩn bị cho một cuộc xung đột với Trung cộng. Các chỉ huy của INDOPACOM nhấn mạnh rằng Mỹ không tìm kiếm một cuộc chiến như vậy, nhưng tin tưởng sự chuẩn bị của họ, bằng cách chứng minh sức mạnh và quyết tâm của Mỹ, sẽ ngăn chặn Trung cộng thách thức uy thế của Mỹ.
Tuy nhiên, theo giáo sư Klare điều đó chỉ là một sự tưởng tượng. Trên thực tế, một chiến lược tiến hành các hoạt động hải quân “đều đặn gây chú ý”, nhằm đe dọa Bắc Kinh ở những vùng biển gần Trung cộng, sẽ thậm chí tạo ra nhiều khả năng hơn, khơi mào cho những cuộc xung đột lớn, mặc dù ngoài ý muốn.
Giáo sư Klare cho rằng với khả năng chiến tranh với Triều Tiên phai mờ dần sau hội nghị thượng đỉnh Singapore gần đây, một điều chắc chắn Bộ Tư lệnh Ấn Độ -Thái Bình Dương mới của Mỹ sẽ chỉ tập trung cho những ưu tiên quan trọng hơn. Đó là chuẩn bị cho một cuộc xung đột với Trung cộng. Các chỉ huy của INDOPACOM nhấn mạnh rằng Mỹ không tìm kiếm một cuộc chiến như vậy, nhưng tin tưởng sự chuẩn bị của họ, bằng cách chứng minh sức mạnh và quyết tâm của Mỹ, sẽ ngăn chặn Trung cộng thách thức uy thế của Mỹ.
Tuy nhiên, theo giáo sư Klare điều đó chỉ là một sự tưởng tượng. Trên thực tế, một chiến lược tiến hành các hoạt động hải quân “đều đặn gây chú ý”, nhằm đe dọa Bắc Kinh ở những vùng biển gần Trung cộng, sẽ thậm chí tạo ra nhiều khả năng hơn, khơi mào cho những cuộc xung đột lớn, mặc dù ngoài ý muốn.
Ngay bây giờ, một cuộc chiến tranh Trung – Mỹ nghe có vẻ như tình tiết của một cuốn tiểu thuyết viễn tưởng còn non nớt, thiếu kinh nghiệm. Thật không may, xem xét chiều hướng mà cả 2 quốc gia đang hướng đến, chiến tranh có thể trở thành một thực tế nghiệt ngã, trong tương lai tương đối gần, giáo sư Klare kết luận.