Thursday, 14 November 2013

Trước nguy cơ xâm lược và chủ nghĩa bá quyền của Trung Cộng, Khối Người Việt Quốc Gia phải làm gì để cứu nước? - Phạm Quang Trình

Năm 1962, khi Chính Đề Việt Nam ra đời và khi miền Nam chưa bị CSBV thôn tính, ông Ngô Đình Nhu chủ trương: ”Vị vậy cho nên, sự mất còn của miền Nam, ngày nay, lại trở thành một sự kiện quyết định sự mất còn trong tương lai của dân tộc. Do đó, tất cả nỗ lực của chúng ta trong giai đoạn này phải dồn vào sự bảo vệ tự do và độc lập, và sự phát triển cho miền Nam để duy trì lối thoát cho miền Bắc và cứu dân tộc khỏi ách thống trị một lần nữa (Trung Cộng). (tr. 302)
 
Nay thì sự thể đã khác. Miền Nam đã bị CSBV thôn tính. Cả nước đã bị đặt dưới ách thống trị của tập đoàn Cộng Sản Việt gian, tay sai của Bắc kinh. Nhưng lại có may mắn là sự hình thành Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại với dân số hơn 3 triệu người trên khắp thế giới mà chủ yếu là Bắc Mỹ (Hoa Kỳ, Canada), Âu Châu (Pháp, Đức, Anh, Thụy Sĩ, Hòa Lan, Na Uy, Đan Mạch, vân vân) và Úc châu. Khối dân số 3 triệu này có một tiềm năng to lớn về tài sản vật chất cũng như tinh thần tức là chất xám, lại được sống trong những quốc gia tự do, dân chủ, được học hỏi nên rất am tường và đã thấm nhuần đời sống văn minh, tiến bộ. Tất nhiên Khối Người Việt Quốc Gia chống Cộng quyết liệt này là sự hỗ trợ cần thiết cho Đại Khối Dân Tộc ở Quốc Nội, trong một Mặt trận “Ba Mũi Giáp Công”, đó là Quốc Nội, Quốc Ngoại và Quốc Tế liên kết chặt chẽ với nhau để giải thế chế độ Cộng Sản.
 
Vậy nếu như ông Ngô Đình Nhu đã nói khi trước “còn miền Nam thì phải giữ miền Nam để cứu miền Bắc”; nhưng nay miền Nam đã mất thì còn Hải Ngoại phải giữ Hải Ngoại để cứu Việt Nam khỏi ách thống trị của Cộng Sản và nguy cơ xâm lược của Trung Cộng.
 
Vậy thế nào là giữ Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại?  Đó là bảo vệ độc lập và tự do của khối Người Việt Quốc tại Gia Hải Ngoại bằng những phương cách sau đây:
 
1. - Ngăn chận không cho CS xâm nhập phá hoại Cộng Đồng NVHN. Vì Khối NVQG Hải Ngoại có một tiềm năng to lớn nên CSVN ra sức tuyên truyền, dùng đủ mọi mánh khỏe tranh thủ để lấy hậu thuẫn và bòn rút của cải. Chúng dành ngân khoản cả hằng trăm triệu và ra sức dụ dỗ, tuyên truyền xâm nhập, cố len lỏi đưa người của chúng ra nắm vai trò lãnh đạo các Hội đoàn, Đoàn thể. Những phần tử nhẹ dạ ham lợi sẽ dễ dàng bị chúng rủ rê, dụ dỗ, mua chuộc làm tay sai cho chúng. 
 
2. - Cô lập và vô hiệu hóa bọn Việt gian, tay sai Cộng Sản nằm vùng trong mọi lãnh vực, đặc biệt là Truyền thông, Báo chí, các cơ sở Thương mại, và các Hội đoàn của Người Việt Quốc Gia.
 
3. - Cô lập và vô hiệu hóa những “Hội Việt Kiều Yêu Nước” do Cộng Sản và tay sai nằm vùng của chúng dựng nên.
 
4. - Yểm trợ tối đa cho các Ưng cử viên Người Việt Quốc Gia vào các chức vụ Dân cử của nước mình đang định cư.
 
5. - Cực lực tố cáo với Chính quyền địa phương mình cư ngụ, dồng thời tố cáo trước dư luận Quốc Tế những đàn áp và vi phạm Nhân quyền và các quyền Tự do tại Việt Nam.
 
6. - Thực thi dân chủ trong mọi tổ chức Cộng đồng để tạo sự đoàn kết và rèn luyện lãnh đạo cho giới trẻ. Sống ở nước văn minh, người Việt Quốc Gia mình nên học hỏi lề lối thực thi Dân Chủ của họ. Bản chất của Dân chủ là đoàn kết để có sức mạnh, chớ không phải là ai muốn làm gì thì làm. Như ở Mỹ trong mỗi lần bầu cử, họ tranh đấu kịch liệt, kể cả tố cáo nhau bằng nhiều mánh khóe, thủ đoạn. Nhưng khi bầu cử đã đã xong thì người thua cuộc luôn tuyên bố ủng hộ người thắng cử chớ không chống đối phá hoại. Bởi đó, kinh nghiệm cho biết trong khi thực thi dân chủ, xã hội sẽ dễ dàng tạo ra được lớp người lãnh đạo có khả năng.
 
7. - Cộng Đồng NVQG mỗi nơi theo sáng kiến địa phương tích mà cực tham gia vào Phong Trào Tố Cộng và Bài Cộng tại địa phương mình cũng như liên kết với các Cộng Đồng người Việt tại địa phương khác trong những công tác tương tự cần liên kết để tạo thành tiếng nói chung và mạnh mẽ.
 
8. - Yểm trợ tối đa cho Phong Trào Dân Chủ Quốc Nội, nhất là các tầng lớp Thanh Niên nam nữ, Sinh Viên, Học Sinh, Tri thức, các nhân vật Lãnh đạo Tinh thần các Tôn giáo trong tiến trình giải thể chế độ Cộng Sản và Dân chủ hoá đất nước.
 
9. - Cảnh giác đồng bào Quốc Nội về âm mưu xâm lược “gậm nhấm” của tập đoàn Cộng sản Bắc Kinh.
 
10. - Cực lực tố cáo trước dư luận quốc tế mọi tham vọng và chủ nghĩa bá quyền của tập đoàn Cộng Sản Bắc Kinh trong âm mưu xâm lược Việt Nam dưới bất cứ hình thức nào.
 
11. - Sử dụng tối đa và tích cực mọi phương tiện Truyền Thông để “chuyển lửa về quê hương” nhằm đả thông, giáo dục, kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân tham gia Phong Trào Giải Thể chế độ Cộng Sản Dân Chủ Hóa đất nước.
 
12. - Thực hiện “Chiến Dịch Chiêu Hồi” các Đảng viên CSVN trở về với Chính Nghĩa Quốc Gia Dân Tộc bằng mọi cách nhất là bằng phương tiện truyền thông như Điện Thoại, Diễn Đàn Internet, vân vân để họ cùng góp sức vào việc giải thể chế độ Cộng sản và Dân chủ hóa đất nước.
 
13. - Vận động Quốc Tế, nhất là tại những Quốc Gia mình đang cư ngụ để tìm hậu thuẫn trong công cuộc đấu tranh giành lại Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền cho Việt Nam.
 
14. - Vận động Quốc Tế nhất là các nước trong khối ASEAN và các Siêu cường về một giải pháp hợp lý hợp tình cho những tranh chấp tại Biển Đông trên căn bản đa phương. Bước đầu làm thế nào để Việt Nam và Philippines hợp tác tích cực với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ tạo thành một gọng kìm, cắt ngang lưỡi bò của Trung Cộng. Sau đó vận động tích cực những quốc gia phía Nam như Brunei, Indonesia, Singapore trong hối ASEAN hợp tác chặt chẽ để cùng ngăn chặn tham vọng bành trướng và chủ nghĩa bá quyền của Trung Cộng.
 
15. - Việc giải thể chế độ CSVN và Dân chú hóa Đất Nươc để có đủ sức mạnh chống giặc Ngoại Xâm sẽ phải đi qua ít là 3 giai đoạn: (01)Xây dựng và củng cố Khối Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại. (02) Giải thể chế độ Cộng Sản và Dân Chú Hóa Đất Nước. (03) Hiện đại hóa Đất Nước. (trong CĐVN, Ông Ngô Đình Nhu gọi là Tây phương hóa)  
 
17. - Các tổ chức và đoàn thể chính trị của Khối NVQG trong và ngoài nước hãy tích cực hoàn thành sứ mạng của mình qua các chương trình cụ thể và thích hợp để Giải thể chế độ Cộng Sản và Dân chủ hóa Đất Nước thay vì chờ đợi những Đảng Đối Lập từ trong nước do các Cựu Đảng viên Cộng Sản đề ra, trong đó coi chừng có thứ “Đảng Đối Lập Cuội” do chính CSVN tạo ra để đánh lừa dư luận và quần chúng.  Cũng nên biết rằng CSVN là loại lưu manh và thủ đoạn có hạng, là bọn lừa bịp dối trá có hạng. Từ lâu nay chúng đã dựng nên nhiều tổ chức chính trị mang tên những tổ chức của NVQG ngay tại Quốc Nội để lừa những kẻ ngây thơ, dễ tin vào cái bẫy để chúng “bắt trọn ổ”. Chúng sẵn sàng đưa ra những nhân vật, những chiêu bài “ăn khách” làm con mồi cho mưu toan của chúng. Không riêng gì ở Quốc Nội, mà ngay tại Hải Ngoại, chúng (CSVN) cố tìm cách len lỏi, xâm nhập vào các Hội đoàn, Đoàn thể, và các Chính Đảng của NVQG để lèo lái theo chiều hướng làm lợi cho chúng.
 
18. - Đoàn kết Cộng Đồng: Phải xây dựng sự đoàn kết Cộng Đồng. Đoàn kết để có sức mạnh. Hợp quần gây sức mạnh. Một người không đủ sức làm thì muôn người sẽ đủ sức hành động. Trong Quốc sách Ấp Chiến Lược, ông Ngô Đình Nhu đã nêu ra 3 thứ giặc luôn liên kết với nhau để phá hoại Quốc gia, đó là: Giặc chậm tiến, Giặc chia rẽ và Giặc Cộng Sản. Ngày nay ở Hải Ngoại, Khối NVQG cũng đang phải đương đầu với ba thứ giặc này dưới những hình thức khác. Giặc chia rẽ là thứ giặc đầu tiên đang hoàng hành, làm nát bấy Cộng Đồng. Giặc này phát sinh do hai thứ giặc Chậm tiến và Cộng Sản mà ra. Vì chậm tiến nên dù sống ở xứ văn minh nhưng đầu óc nhiều người trong chúng ta vẫn thủ cựu, vẫn suy tư theo lề lối cũ, vẫn kèn cựa tranh chấp nhau. Cộng Sản lợi dụng vào những thứ đó tìm cách xâm nhập phá hoại. Chúng biết rằng Khối Người Việt Hải Ngoại có một tiềm năng lớn lao, sẽ có tiếng nói rất mạnh trên trường Quốc Tế, nên nếu như chúng không lợi dụng được thì chúng phải tìm cách phá bằng cách gây chia rẽ, tranh chấp với nhau. Cho nên ta phải tỉnh táo, đề cao cảnh giác về ba thứ giặc này.
 
Để có sự đoàn kết thì trước hết phải tiêu diệt Giặc chia rẽ, trước hết bằng những biện pháp tiêu cực: chấm dứt đả kích lẫn nhau trên các phương tiện truyền thông để tạo hòa khí đồng thời kêu gọi mọi người đề cao cảnh giác về mọi âm mưu chia rẽ của Cộng Sản. Sau là những biện pháp tích cực: xây dựng Cộng Đồng, Đoàn Thể, và Hội Đoàn bằng những việc làm cụ thể thích hợp, khuyến khích những người thiện chí và giới trẻ dấn thân. Nên lưu ý điểm này: cơ thể không ăn, không thở, con người sẽ chết. Đoàn thể không sinh hoạt cũng tự động chết. Sinh hoạt bên bối thì chết thê thảm hơn.  Cho nên phải biết nuôi dưỡng Hội đoàn, Đoàn thể bằng những sinh hoạt khoa học để hoàn thành mục tiêu đề ra.
 
19. Đẩy mạnh công tác dạy Việt Ngữ và Lịch sử Việt Nam để hun đúc tinh thần Dân Tộc cho giới trẻ hải ngoại. 
 
20. Muốn làm Cách Mạng phải có tổ chức Cách Mạng. Tổ chức Cách Mạng quy tụ những Cán bộ Cách Mạng có phẩm chất cao nghĩa là có Lập trường Cách Mạng vững chắc được xây dựng trên nền tảng Dân Tộc, có Đạo đức Cách Mạng, có trình độ nhận thức chính trị, có trình độ Văn hóa và nắm vững Kỹ thuật Công tác. 
 
 Khi Cộng Đồng Hải Ngoại đủ mạnh thì có thể giúp Mặt Trận Quốc Nội hoàn tất công cuộc Giải thế chế độ Cộng Sản và Dân chủ hóa Đất Nước một cách hữu hiệu.
 
Làm sao chống ngoại xâm?
 
Nhìn lại dòng lịch sử Dân Tộc trên bốn ngàn năm, nưóc Việt Nam luôn luôn phải đương đầu với giặc ngoại xâm, nhất là giặc phương Bắc. Dù là triều đại nào: Hán, Tống, Minh, Nguyên, Thanh, tham vọng cố hữu của Tầu là xâm chiếm và đồng hóa nước ta. Việt Nam đã bao nhiêu lần bị Tàu đưa quân sang chiếm, rồi nhờ tinh thần bất khuất mà Tổ Tiên ta đã chiến đấu giành lại Độc Lập cho nước nhà. Giai đoạn bị đô hộ lâu dài nhất hơn một ngàn năm từ 111 trước Tây Lịch đến 939 sau Thiên Chúa Giáng Sinh, tưởng chừng như Việt Nam đã bị xóa bỏ hoàn toàn khỏi bản đồ thế giới. Vậy mà thời cơ đến, anh hùng Ngô Quyền đã đánh đuổi quân Nam Hán giành lại độc lập cho Dân Tộc. Phải nói đó là một phép lạ, một đại kỳ công, nhờ vào dũng khí của Tiền nhân, cũng như tinh thần bất khuất của Dân Tộc Việt Nam.
 
Trên thế giới này, có lẽ chỉ có hai Dân tộc bị giặc ngoại xâm đô hộ lâu dài nhất là dân tộc Do Thái và dân tộc Việt Nam, vậy mà cả hai đã vùng lên giành lại được nền Độc Lập và Tự Chủ.
 
Việt Nam bị đô hộ hơn một ngàn năm như đã nói trên. Còn Do Thái bị phân tán rải rác khắp hoàn cầu ròng rã gần 20 thế kỷ (70 năm trước Tây Lịch đến 1948 sau Thiên Chúa Giáng Sinh). Vậy mà nhờ nỗ lực của nòi giống, họ đã biết duy trì bản sắc Văn hóa cá biệt, nên gặp kỳ Đại Chiến thứ 2, khi Đức Quốc Xã thi hành chính sách tiêu diệt Do Thái thì nhờ các nước Đồng Minh đã đưa dân Do Thái trờ về vùng Palestine và từ đó có cơ hội thành lập nhà nước Israel. Nói như thế có nghĩa là “Tinh thần Dân Tộc” là yếu tố quyết định cho sự thành hay bại, tồn tại hay bị diệt vong. Cho nên, mất đất, bị chiếm làm nô lệ chưa hẳn đã tiêu diệt được Dân tộc một  khi Dân tộc còn giữ được bản sắc, còn duy trì được tinh thần bất khuất, còn biết rèn luyện lãnh đạo, còn biết nuôi chí phục thù thì việc phục quốc vẫn còn cơ mayNhìn lại dòng Lịch sử Dân Tộc nhất là bao phen bị Tầu đô hộ mà Tổ Tiên ta vẫn anh dũng vùng lên đánh đuổi quân xám lược phương Bắc giành lại Độc Lập Tự Chủ cho Đất Nước chứng tỏ rằng dòng máu anh hùng bất khuất của Tiền Nhân vẫn còn luân lưu trong huyết quản mỗi người Việt Nam chúng ta dù ở phương trời nào, thời gian nào. Thật không phải vì chủ quan mà dựa vào chứng liệu Lịch Sử Dân Tộc, nên Cụ Nguyễn Trãi đã viết trong Bình Ngô Đại Cáo: “Tuy cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt thời nào cũng có.”
 
Việt Nam là một nước nhỏ lại ở sát cạnh một anh khổng lổ, đất rộng dân đông là Trung Hoa đầy tham vọng. Về địa lý, Việt Nam lại là bao lơn trông ra Thái Bình Dương, cho nên luôn luôn là đối tượng mà giặc ngoại xâm dù là phương Bắc hay phương Tây nhòm ngó. Bởi đó, công việc chống ngoại xâm là mối lo hàng đầu và triền miên của Dân Tộc. Hiện nay, Trung Cộng đã trở thành một cường quốc hùng mạnh trên thế giới với sự gia tăng dân số khủng khiếp nên mộng bành trướng lãnh thổ lại càng gia tăng, không phải chỉ nhắm xuống vùng Đông Nam Á mà còn muốn nhòm ngó sang tận cả Phi Châu và Nam Mỹ. Những hành động bành trướng của Trung Cộng hiện nay đã là mối đe dọa cho thế giới, như ông Ngô Đình Nhu đã viết:  
 
“Không phải tình cờ mà ông Paul Reynaud, cựu Thủ Tướng Pháp trong cuộc viếng thăm nước Nga đã long trọng tuyên bố với Thủ Tướng Khrushhev. “ Nếu các ông tiếp tục viện trợ cho nước Tàu, trong vài mươi năm nữa, một tỷ dân Trung Hoa sẽ đè bẹp các ông và Âu Châu”. (tr. 222). 
Thật ra thì Trung Hoa cũng có nhiều phen yếu đuối, bị Nhật Bản và Tây phương lấn áp, đè bẹp. Nay dù có hùng mạnh, nhưng dân số quá đông, đất đai hạn hẹp, lại duy trì chế độ độc tài độc đảng, nội bộ cũng có những bất đồng xáo trộn. Mỗi lần thay đổi lãnh đạo là một lần đổ máu công khai hay âm thầm, nên đó cũng là nhược điểm. Vả lại thời đại thông tin điện tử hôm nay, thời đại được mệnh danh là Toàn Cầu Hóa, nên chưa chắc gì Trung Hoa có thể lấn áp thế giới, muốn làm gì thì làm. Tuy là tiến bộ hơn 50 năm trước nhưng về khoa học, kỹ thuật, Trung Cộng vẫn còn thua Tây phương, nhất là Hoa Kỳ hàng vài chục năm.  Ngay Trung Hoa Quốc Gia tức Đài Loan là một phần lãnh thổ của Trung Hoa, vậy mà trên 60 năm nay (1949-2013), Trung Cộng đâu dám dùng võ lực để thống nhất. Thực tế, Hoa Kỳ bắt buộc phải bảo vệ Đài Loan, nếu không Trung Cộng sẽ làm mưa làm gió ở Biển Đông và Đông Á, Nhưng chính Đài Loan và Nhật Bản cũng lại là mối đe dọa cho Trung Cộng.
 
Trở lại công cuộc chống ngoại xâm của Dân Tộc, ông Ngô Đình Nhu nhận xét:  
 
Cái họa ngoại xâm đối với chúng ta hiển nhiên và liên tục như vậy. Vì sao những biện pháp cổ truyền, của các nhà lãnh đạo của chúng ta trước đây, thành công phân nửa, trong công cuộc chống ngoại xâm Trung Hoa, nhưng thất bại trong công cuộc chống ngoại xâm Tây phương? 

Trước hết, các biện pháp cổ truyền đã đặt vấn đề ngoại xâm của Trung Hoa là một vấn đề chỉ liên quan đến hai nước: Trung Hoa và Việt Nam. So sánh hai khối Trung Hoa và Việt Nam, và như thế, đương đầu phải là mục đích đương nhiên, thì chúng ta đã thất bại rồi. Những sự thần phục và triều cống chỉ là những biện pháp hoãn binh. Và vấn đề chống ngoại xâm chưa bao giờ được các triều đại Việt Nam đặt thành một chính sách đương nhiên và nguyên tắc, đối với một nước nhỏ, như nước chúng ta. Vì thế cho nên, những biện pháp cần được áp dụng, như biện pháp ngoại giao, đã không hề được sử dụng khi Tây phương xâm chiếm nước ta. 
 
Lý do thứ hai, là công cuộc chống ngoại xâm chỉ được chuẩn bị trên lĩnh vực quân sự. Nhưng, nếu chúng ta không thể phủ nhận tính cách cần thiết và thành quả của các biện pháp quân sự trong các chiến trận chống các triều đại Trung Hoa: nhà Tống, nhà Nguyên cũng như nhà Minh, nhà Thanh, chúng ta phải nhìn nhận rằng nỗ lực quân sự của chúng ta rất là giới hạn. Và ngày nay, độc lập rồi, thì nỗ lực quân sự của chúng ta chắc chắn cũng rất là giới hạn. 
 
Như vậy, đối với một nước nhỏ, trong một công cuộc chống ngoại xâm, biện pháp quân sự không thể làm sao đủ được. Trên kia, chúng ta có đề cập đến những biện pháp ngoại giao, đặt trên căn bản khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc để bảo vệ độc lập cho chúng ta. 

Tuy nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc. Đồng thời, áp dụng một chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt. 
 
Nếu ý thức quốc gia và dân tộc được ăn sâu vào tâm não của toàn dân, và độc lập và tự do được mọi người mến chuộng, thì các cường quốc xâm lăng, dầu có đánh tan được tất cả các đạo quân của chúng ta và có thắng chúng ta trong các cuộc ngoại giao đi nữa, cũng không làm sao diệt được ý chí quật cường của cả một dân tộc. 
 
Nhưng ý chí quật cường đó đến cao độ, mà không người lãnh đạo thì cũng không làm gì được đối với kẻ xâm lăng. Vì vậy cho nên, đồng thời với những biện pháp quần chúng nói trên, cần phải áp dụng những biện pháp giáo dục, làm cho mỗi người dân đều quen biết với vấn đề lãnh đạo, và, điều này còn chính yếu hơn nữa, làm cho số người thấu triệt vấn đề lãnh đạo quốc gia càng đông bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Bởi vì, có như thế, những người lãnh đạo mới không bao giờ bị tiêu diệt hết được. Tiêu diệt người lãnh đạo là mục đích đầu tiên và chính yếu của các cường quốc xâm lăng. 
 
Nhân đề cập đến vấn đề chống xâm lăng trên đây, lý luận đã dẫn dắt chúng ta đến một vấn đề vô cùng quan trọng. 
 
Trước tiên chúng ta nhận thức rằng đối với một nước nhỏ như chúng ta, họa xâm lăng là một đe dọa thường xuyên. 
 
Để chống xâm lăng, chúng ta có những biện pháp quân sự và ngoại giao. Nhưng hơn cả các biện pháp quân sự và ngoại giao, về phương diện hữu hiệu và chủ động, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, phát huy ý thức quốc gia và dân tộc, và mở rộng khuôn khổ giới lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt. 
 
Sự thể đã như vậy, thì đương nhiên một chính thể chuyên chế và độc tài không làm sao đủ điều kiện để bảo vệ quốc gia chống ngoại xâm được. Bởi vì bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là tiêu diệt tận gốc rễ tinh thần tự do và độc lập trong tâm não của mọi người, để biến mỗi người thành một động cơ hoàn toàn không có ý chí, dễ điều khiển dễ đặt để, và dễ sử dụng như một khí cụ. 
 
Bản chất của môt chính thể chuyên chế và độc tài là giữ độc quyền lãnh đạo quốc gia cho một người hay một số rất ít người, để cho sự thấu triệt các vấn đề căn băn của quốc gia trở thành, trong tay họ, những lợi khí sắc bén, để củng cố địa vị của người cầm quyền. 
 
Hơn nữa, giả sử mà chính thể chuyên chế hay độc tài chưa tiêu diệt được hẳn tinh thần tự do và độc lập trong ý thức của mọi người, thì, tự nó, một chính thể chuyên chế hay độc tài cũng là một lợi khí cho kẻ ngoại xâm. Bởi vì, dưới một chế độ như vậy, nhân dân bị áp bức, sẽ đâm ra oán ghét người lãnh đạo họ, và hướng về, bất cứ ai đánh đổ người họ oán ghét, như là hướng về một người giải phóng, mặc dầu đó là một kẻ xâm lăng. Lịch sử xưa nay của các quốc gia trên thế giới đều xác nhận điều này: Chỉ có những dân tộc sống tự do mới chống được ngoại xâm. 
 
Riêng về dân tộc chúng ta, chắc chắn rằng sự kháng cự của chúng ta đối với sự xâm lăng của Tây phương sẽ mãnh liệt hơn bội phần nếu trước đó, nhà Nguyễn, thay vì lên án tất cả những người bàn về quốc sự, đã nuôi dưỡng được tinh thần tự do và độc lập của mỗi người và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc trong nhân dân. 
 
Ngược lại, mấy lần dân tộc thắng được ngoại xâm, từ nhà Trần đánh đuổi Mông Cổ, đến nhà Lê đánh quân Minh và Quang Trung chiến thắng Mãn Thanh, đều nhờ ở chỗ các nhà lãnh đạo đã khêu gợi được ý chí tự do và độc lập của toàn dân. 
 
Và vấn đề vô cùng quan trọng mà chúng ta đã nêu ra trên kia là vấn đề chính thể của nước Việt Nam. Vì những lý do trình bày trên đây, chính thể thích nghi cho dân tộc chúng ta, không phải định đoạt do một sự lựa chọn căn cứ trên những lý thuyết chính trị, hay là những nguyên nhân triết lý, mà sẽ được qui định một cách rõ rệt bởi hoàn cảnh địa dư và lịch sử của chúng ta, cùng với trình độ phát triển của dân tộc. 
 
Nếu bây giờ chúng ta chưa có ý thức rõ rệt chính thể ấy phải như thế nào, thì ngay bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng chính thể đó không thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được. Đó là một thái độ rất rõ rệt. (tr.245)
 
Thay Lời Kết:
 
Với những nhận định như trên của ông Cố vấn Ngô Đình Nhu, nhìn vào tình hình Việt Nam từ trên nửa thế kỷ nay khi CSVN vì ngu muội đã rước tà thuyết Mác-Lê vào nhà và tự nguyện làm tay sai cho Đế Quốc Đỏ mà nay là quan thầy Bắc Kinh quả là một sai lầm tệ  hại. Bắc Kinh với chủ nghĩa bá quyền và bành trướng đã dương Gọng Kìm Hán Tộc ra kềm kẹp Việt Nam thì làm sao tập đoàn CS Hà Nội đủ sức mà chống chọi. Ngược lại, chúng đã cam tâm làm tay sai, làm chư hầu cho quan thầy thì sớm muộn gì cũng dâng nốt lãnh thổ cho Trung Cộng như chúng đã từng lén lút làm trong thời gian nửa thế kỷ qua. Mạnh được yếu thua là quy luật đấu tranh. Muốn thắng, muốn tồn tại thì phải mạnh. CSVN đã không đủ mạnh, lại tự nguyện làm tay sai, rước giặc vào nhà thì thua là cái chắc.
 
Từ ngày thôn tính được miền Nam đến nay, tập đoàn CSVN chỉ lo vơ vét cho đầy túi, không màng gì đến nguyện vọng và hạnh phúc của nhân dân. Chúng có hô hào đổi mới nhưng chỉ nhằm để cứu Đảng trong cơn nguy khốn vì những thất bại ê chề về Kinh Tế. Sau một thời gian cởi trói, chúng liền trở lại bài bản cũ là xiết chặt cái hầu bao và trí tuệ của đồng bào. Nói khác, chúng không dám đổi mới toàn diện để dân giàu nước mạnh. Ngược lại, chúng bám chặt vào Trung Cộng, coi quan thầy của chúng là khuôn mẫu. Quan thày làm gì thì chúng rập khuôn bắt chước làm theo để bảo vệ đặc quyền đặc lợi. Yêu nước chỉ là cải vỏ bề ngoài. Thực tâm, chúng chỉ lo bảo vệ phe Đảng, coi quyền lợi của Đảng, của phe nhóm trên quyền lợi của Tổ Quốc. Yêu ghế trước, yêu nước sau là châm ngôn cùa chúng. Tinh thần bất khuất của Dân Tộc là bửu bối cuối cùng để cứu nước và giữ nước được thể hiện qua lớp Thanh niên Sinh viên trẻ trung thì tập đoàn CSVN lại nghe  lệnh của quan thầy dùng bạo lực và Công An đàn áp.
 
Nói tóm lại, về quân sự Cộng Sản Việt Nam đã không đủ mạnh. Ý chí lại hèn kém, chúng không biết và cũng không dám khai thác những mâu thuẫn giữa các cường quốc và các thế lực liên minh khu vực như ASEAN hay khối Liên Hiệp Âu Châu. Tất cả những điều đó chứng minh chúng đang cố tình làm suy yếu sức mạnh của Dân Tộc để trở thành miếng mồi ngon cho âm mưu “xâm lược gậm nhấm” của giặc phương Bắc.
 
Cho nên, còn đường duy nhất để cứu nước, cứu dân tộc thoát khỏi hoạ diệt vong vì giặc ngoại xâm, đó là: xây dựng và củng cố Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại để cùng với Phong Trào Dân Chủ Quốc Nội giải thể chế độ Cộng sản và Dân chủ hóa đất nước.
 
Cứu nước thoát khỏi ách thống trị của Cộng Sản rồi tất nhiên Việt Nam phải ra sức Tây Phương hóa tức là Hiện đại hóa đất nước để có đủ sức mạnh (khoa học, kỹ thuật, tổ chức, quân sự, kinh tế, vân vân) chống ngoại xâm và tồn tại trên bản đồ thế giới.
 
San Jose 2-11-2013
 
Nhân Giỗ lần thứ 50 ngày Tổng Thống NGÔ ĐÌNH DIỆM
và Cố vấn NGÔ ĐÌNH NHU bị thảm sát 2-11-1963
 

Phạm Quang Trình