Sunday, 16 February 2014

Operation Babylift: Chuyện bây giờ mới kể

Trong những ngày đầu tháng 4 năm 1975, Sài Gòn có quá nhiều biến cố: dòng người di tản từ cao nguyên, từ miền Trung dồn dập đổ về thủ đô trong khi quân đội VNCH ngày càng co cụm để bảo vệ Sài Gòn trước làn sóng tràn ngập của lực lượng miền Bắc. Người ta hầu như chỉ nghĩ đến bản thân và gia đình của mình trước đại họa đất nước nên có rất ít người chú ý đến một tin thuộc loại “chấn động” (shock news) nếu như trong thời bình.

Khoảng 4 giờ chiều, Thứ Sáu, ngày 4/4/1975, một chiếc phi cơ vận tải quân sự C-5A Galaxy của Hoa Kỳ mang ký hiệu 68-0218 cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất trực chỉ Clark Air Base tại Phi Luật Tân. Đó là chuyến bay quân sự đầu tiên di tản các trẻ em mồ côi Việt Nam sang Mỹ trong sứ mạngOperation Babylift do đích thân Tổng thống Gerald Ford tuyên bố một ngày trước đó.

Tin “chấn động” vì chiếc C-5A Galaxy, phi cơ vận tải quân sự lớn nhất của không Hoa Kỳ vào thời điểm 1975, đã bị trục trặc kỹ thuật và rơi trong khi cố quay lại đường băng 25L Tân Sơn Nhất. Tai nạn xảy ra khiến 138 hành khách bị thiệt mạng, trong đó có 78 trẻ mồ côi người Việt và 35 nhân viên Văn phòng Tùy viên Quốc phòng (Defense Attache Office – DAO) người Mỹ tháp tùng.
Phi cơ vận tải C-5A Galaxy cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất

Người ta kể lại, khoảng 12 phút sau khi cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất, một tiếng nổ phát ra từ phía đuôi của chiếc Galaxy, tạo ra một lỗ hổng lớn. Áp suất trong phi cơ thay đổi đột ngột và phi hành đoàn quyết định bay trở lại hướng Tân Sơn Nhất. Nhưng đã không kịp.

Phi cơ phải đáp khẩn cấp bằng bụng, trượt dài hàng trăm mét trên một ruộng lúa, đụng vào bờ đê và cuối cũng vỡ thành 4 mảnh. Một cột khói cao ngất xuất hiện trên bầu trời gần phi trường trước khi lực lượng tiếp cứu có mặt tại địa điểm xảy ra tai nạn.

Cột khói bốc lên sau khi chiếc Galaxy gặp nạn

Trực thăng cấp cứu bay đến An Phú Đông (nay thuộc quận 12), nơi phi cơ bị rớt. Đây là một khu vực ruộng lúa ngập nước và chỉ khoảng phân nửa số hành khách được cứu sống. Những người ngồi ở phần đuôi máy bay đều bị thiệt mạng. Thân thể họ nằm vương vãi trên một diện tích rộng hằng trăm mét vuông.

Xác của chiếc Galaxy tại khu vực An Phú Đông


Trực thăng cứu nạn chỉ bay lơ lửng trên đầu vì không thể đáp xuống ruộng lúa ngập nước. Những người sống sót, gồm phi hành đoàn, y tá và nhân viên thiện nguyện, phải lội ruộng, trên tay bồng những trẻ sơ sinh giữa những cơn gió xoáy của cánh quạt trực thăng.

Những trẻ mồ côi sống sót sau tai nạn

Nhưng rồi họ cũng chuyển được một số trẻ em lên trực thăng. Người ta vẫn tự hỏi, biết đâu tại nơi xảy ra tai nạn cũng còn những em thoi thóp nhưng người cứu nạn không nhìn thấy. Số phận của những trẻ mồ côi này cũng được coi như đã chết như những bạn đồng trang lứa vắn số khác. Đó là nghịch cảnh của chiến tranh. Khoảng cách giữa sự sống và cái chết rất mong manh.

Một thành viên Babylift năm xưa từ Mỹ trở về đốt nhang tưởng niệm những người bạn đã tử nạn tại An Phú Đông(Ảnh Michvet3, http://www.flickr.com/photos/12989792@N00/404564686/)

Bà Allison Martin [*] kể lại: “Ở phần đuôi máy bay đa số là trẻ em dưới 2 tuổi và có 7 nhân viên tình nguyện người Mỹ. Trong số những người sống sót, có đến 170 người bị thương tích nặng, trong đó có một cô bé sau này được báo chí nhắc đến qua tên Melody khi tài tử nổi tiếng Yul Brynner đã nhận làm con nuôi”.

Theo kế hoạch do Tổng thống Gerald Ford công bố, Operation Babylift sẽ sử dụng khoảng 30 chuyến bay - cả phi cơ quân sự lẫn dân sự - để di tản 70.000 trẻ mồ côi ra khỏi Việt Nam vào tháng 4/1975. Kế hoạch được tài trợ một ngân khoản 2 triệu đô-la từ quỹ hỗ trợ đặc biệt của chính phủ Hoa Kỳ.

Ông Gerald Ford đã xuất hiện trên truyền hình Mỹ khi đích thân đến phi trường San Francisco đón một trong những chuyến bay chở trẻ mồ côi từ Việt Nam đến. Trong mắt người dân Hoa Kỳ, hình ảnh ông bồng một đứa trẻ từ trên máy bay xuống đã vớt vát phần nào thể diện của một vị tổng thống trước biến cố 30/4/1975. 

Tổng thống Gerald Ford đón trẻ mồ côi tại phi trường San Francisco

Tuy nhiên, có thể nói, Operation Babylift đã diễn biến không theo đứng kịch bản mà chính phủ Mỹ đã phác họa. Chiến dịch chỉ có thể di tản khoảng hơn 3.000 cô nhi thì phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích và cuộc chiến Việt Nam đã chấm dứt vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Tại Mỹ, tin tức về thảm họa Galaxy được coi là điềm xấu báo trước một biến cố còn nhiều kịch tính hơn nữa đối với miền Nam khi bị hoàn toàn sụp đổ. Thế nhưng, vào thời điểm 1975, người Mỹ không có cách nào khác hơn là tiếp tục chiến dịch Babylift trước tình hình chiến sự ngày càng nguy ngập.

Tân Sơn Nhất không còn thời gian để tưởng niệm những hành khách đi trên chiếc Galaxy định mệnh. Chỉ một ngày sau tai nạn, Operation Babylift được tiếp tục tiến hành. Một chiếc Boeing 747 được thuê từ hãng hàng không Pan American Ariways để chở 409 trẻ em và 60 nhân viên chăm sóc. Và cứ thế, các chuyến bay thuê với các hãng hàng không khác như United Airways, World Airways, Air America… liên tục bốc trẻ mồ côi ra khỏi Sài Gòn.
Làm thế nào để vận chuyển một số lượng khổng lồ hành khách gồm toàn trẻ em trong đó có cả trẻ sơ sinh là cả một vấn đề đối với các nhân viên di tản. Trong cuốn This Must be my Brother, Leann Thieman kể lại:

“Chúng tôi không có thì giờ cho các em ăn… đồng loạt bấy nhiêu cái miệng đều cất tiếng khóc… Cuối cùng, một sáng kiến được đưa ra: cứ 3 em được đặt trong thùng giấy carton và mỗi em có một bình sữa đặt trên vai người bạn nằm cùng thùng. Với cách này, có em bú thoải mái nhưng cũng có em gặp khó khăn khi bình sữa rơi khỏi miệng…

Tôi đặt một em bé gái trên đùi để em bú bình sữa còn tay kia cầm bình sữa cho một em khác nằm trong hộp nhưng hình như em không đủ sức để bú nên cuối cùng tôi phải dùng tay bóp vào núm vú cho sữa chảy mạnh…”   

Trên chiếc Galaxy đầu tiên rời Sài Gòn ngày 4/4/1975 những hành khách nhỏ tuổi nhất đều nằm trong hộp, được chằng bằng dây đai an toàn. Những “hộp người” đó nằm giữa lòng phi cơ. Những em lớn hơn ngồi trên hai hàng ghế bằng nhôm dọc theo thân tàu… Người lớn đi theo gồm nhân viên phi hành đoàn và những người tình nguyện làm việc một cách vất vả trong một trạng thái tinh thần căng thẳng khi tiếng súng đã vọng về từ các vùng lân cận quanh thủ đô.

“Hành khách” sơ sinh được để trong hộp carton

Miriam Vieni, một người hoạt động xã hội người Mỹ và cũng là mẹ nuôi của một trẻ mồ côi người Việt, nhớ lại:

“Sáng hôm nghe tin chuyến bay di tản đầu tiên bị rớt, một số bạn bè tụ họp tại nhà tôi để chờ nghe tin tức. Bỗng điện thoại reo liên tục, người ta hỏi thăm về thủ tục nhận con nuôi. Họ biết được số điện thoại của tôi qua một bài báo trên Newsday. Không chỉ qua điện thoại, có người còn đến tận nhà để lấy thông tin…

Người ta phấn khởi khi biết họ có thể nhận nuôi những trẻ Việt sẽ sang Mỹ một cách hợp pháp qua Operation Babylift và như thế là họ làm thủ tục nhận nuôi dù khi đó các em còn chưa lên máy bay rời khỏi Việt Nam.”

Cặp vợ chồng Pat và Dave Palmer từ Iowa kể lại việc làm thủ tục nhận con nuôi: “Khi nộp đơn xin con nuôi, chúng tôi phải tiến hành thủ tục một cách mau lẹ vì tình hình chính trị ở Việt Nam lúc đó quá rối ren. Rất khó có thể liên lạc bằng điện thoại với cơ quan FCVN [Friends of Children of Viet Nam] vì đường dây luôn bị nghẽn mạch. Chúng tôi phải dùng đến điện tín để liên lạc và kết quả là chúng tôi có một cậu con nuôi 1 tuổi. Không phải chỉ cuộc đời cháu bé mà chính cuộc đời chúng tôi cũng đã thay đổi từ đó”.

Tại Úc, trong bản báo cáo về tình trạng nhận con nuôi qua Operation Babylift, Ian Harvey cho biết:“Tháng 4/1975, khi có tin nước Úc sẽ tiếp nhận trẻ mồ côi Việt Nam làm con nuôi, một số gia đình người Úc đã vội vã nộp đơn. Riêng tại bang New South Wales là nơi đến của 14 trẻ Việt nhưng số đơn xin nhận con nuôi đã vượt con số 4.000”.

Theo báo cáo Ian Harvey, có trên 90% gia đình Úc có con nuôi người Việt ghi nhận sự thành công của việc họ nhận con nuôi. Tuy nhiên, đối với những gia đình tiếp nhận con nuôi từ 4 tuổi trở lên gặp khó khăn hơn những người khác vì càng lớn trẻ mồ côi càng khó thích nghi hơn với cuộc sống mới.    

Trẻ mồ côi đến Úc trong chuyến di tản ngày 17/4/1975

Ngay từ đầu tháng 4/1975, hàng loạt các tổ chức từ thiện trong đó có Holt International Children’s ServicesFriends of Children of VietnamCatholic Relief ServiceInternational Social Services,International Orphans và Pearl S. Buck Foundation thỉnh nguyện chính phủ Hoa Kỳ di tản trẻ mồ côi bị lưu lạc từ các trại mồ côi tại miền Trung đang bơ vơ giữa Sài Gòn hỗn loạn.

Cho đến bây giờ, vẫn chưa có con số chính xác trẻ mồ côi được di tản khỏi Sài Gòn vì tình hình rối ren lúc đó. Có khoảng 2.000 trẻ được đưa sang Hoa Kỳ và khoảng 1.300 trẻ được di tản đến Canada, Âu châu và Úc. Ngoài những chuyến bay chính thức, hằng ngày từ 4 đến 7 chuyến, còn có những chuyến bay bằng phi cơ nhỏ qua các hợp đồng kéo dài suốt tháng 4.

Những “hành khách” trên chuyến bay di tản

Dư luận Mỹ bị phân hóa vì những quan điểm đối chọi nhau về Operation Babylift. Thậm chí trên báo còn có những câu hỏi nhức nhối: Babylift or babysnatch?, tạm dịch là Di tản trẻ em hay giành dựt trẻ em? và The Orphans: Saved or Lost? (Trẻ mồ côi: Cứu giúp hay Mất mát).

Trần Tương Như, một trong số ít người Việt sống tại Mỹ từ trước 1975 và cũng là một thành viên hỗ trợ đắc lực cho Operation Babylift tại San Francisco lúc đó. Bà Như và một số người tình nguyện khác đã khám phá một sự thật ngay từ những ngày đầu của Operation Babylift: một số nhỏ trẻ mồ côi được di tản sang Mỹ thực sự không phải là cô nhi, chúng được các gia đình khá giả gửi theo để được di tản sang Mỹ một cách an toàn. 
   
Sau này, đã có những vụ kiện tại Mỹ về những trường hợp trẻ em bị đưa khỏi Việt Nam “ngoài ý muốn của cha mẹ chúng”. Dĩ nhiên những người khởi kiện chính là các gia đình người Việt hiện định cư tại Mỹ.

Người ta cũng không loại trừ trường hợp trong tình trạng hỗn loại vào tháng 4/1975 nhiều gia đình bằng mọi cách gửi con đi theo chiến dịch di tản trẻ mồ côi và thời gian sau lại kiện các gia đình Mỹ đã nhận con cái của họ làm con nuôi như bà Như đã phát hiện từ đầu.

Một số người cho rằng việc di tản trẻ mồ côi Việt Nam, trong đó có cả những đứa con lai do hậu quả của chiến tranh, sẽ đem lại cho các em một cuộc sống tốt đẹp hơn so với nơi các em ra đời. Họ cũng cảm thấy Operation Babylift là nguồn an ủi tinh thần mang tính cách nhân đạo trước những hậu quả tàn khốc của cuộc chiến tranh Việt Nam.

Ngược lại, có dư luận cho rằng Operation Babylift là một chiến dịch hoàn toàn vì mục đích chính trị, thậm chí còn là “đòn chính trị cuối cùng” của chính phủ Mỹ trước khi rời khỏi Việt Nam.

Cảnh di tản chụp từ trong máy bay

Bà Miriam Vieni giải thích về những ý kiến tương phản nhau trong việc Operation Babylift đưa trẻ mồ côi người Việt sang Mỹ:

“Một số người cho rằng đưa trẻ em ra khỏi quốc gia nơi các em sinh sống là sự vi phạm quyền thiêng liêng của con người khi các em chưa đủ trí khôn để chọn lựa và quyết định. Một số người lại nghĩ những trẻ mồ côi người Việt phải được chính người Việt giải quyết. Trên TV, một số khác không ủng hộ việc chọn con nuôi khác nguồn gốc chủng tộc, họ còn đưa ra trường hợp tại sao không chiếu cố đến một số trẻ mồ côi người Mỹ gốc Phi còn đang chờ các gia đình Mỹ nhận nuôi”.   

Về phía các gia đình Mỹ nhận con nuôi người Việt cũng có những suy nghĩ cho rằng những đứa con mà họ nuôi nấng và dạy dỗ bấy lâu nay vẫn còn một hố sâu ngăn cách vô hình. Một cuộc khảo sát cho thấy những trẻ mồ côi có một cuộc sống khá đầy đủ trong suốt thời kỳ thơ ấu tại Mỹ. Đến gia đoạn trưởng thành, những đứa trẻ mồ côi ngày nào sẽ có những suy nghĩ và sự dằn vặt về cội nguồn của mình.
Chú Sam bồng một trẻ Việt (Chiến tranh Việt Nam) Nữ thần Tự do bồng một trẻ Triều Tiên (Chiến tranh Triều Tiên)

Thân phận của 3.000 trẻ em ngày đó đã và đang sống ra sao tại nước ngoài? Đó là câu hỏi ít khi người ta nghĩ đến. Nguyễn Thị Thanh Trúc là một trẻ thuộc Viện Mồ côi Ghềnh Ráng, Quy Nhơn. Năm 1975 Thanh Trúc được Operation Babylift bốc sang Mỹ và làm con nuôi một gia đình người Mỹ tại Seattle, tiểu bang Washington.

Với tên Julie, Thanh Trúc được nuôi dạy và lớn lên như bất kỳ một đứa trẻ nào trên đất Mỹ. Khác biệt duy nhất là Julie có vóc người châu Á nhỏ bé hơn so với các bạn bè đồng trang lứa. Hiện nay Julie đã lập gia đình với Brad Davis và trở thành bà Julie Davis.

Lần đầu tiên trở về Việt Nam cùng chồng trong nửa tháng trời, Julie kể lại: “Chuyến bay từ Mỹ về ViệtNam kéo dài hơn 20 giờ mà tôi có cảm tưởng dài đến 20 năm… Khi phi cơ đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, Brad vỗ vai tôi, ý nhị: ‘Chúng ta đã đến nơi. Em đã về nhà’… Sau khi đi thăm Sài Gòn, Đồng bằng sông Cửu Long, chúng tôi về lại Quy Nhơn và đến tận Viện Mồ côi Ghềnh Ráng để thăm lại nơi xuất xứ của tôi…”

Cô nhi viện Ghềnh Ráng tọa lạc trong khuôn viên một nhà thờ và do các nữ tu phụ trách. Qua người thông dịch, Julie tìm lại được bà sơ Emilienne, người đứng tên trên giấy khai sinh của Thanh Trúc. Người nữ tu chỉ biết mẹ của Thanh Trúc đã qua đời ngay sau khi sinh con nên bà đứng tên trên giấy khai sinh cũng họ Nguyễn như bà. Cội nguồn của Julie chỉ có thế nhưng cũng đủ để cô tìm hiểu về quá khứ của mình.

Cuộc hội ngộ nào rồi cũng đến lúc chia tay. Julie viết: “Cuộc hành trình ngắn ngủi để tìm lại quá khứ của tôi đã chấm dứt nhưng dư âm của nó vẫn còn vĩnh viễn đọng lại trong tôi. Giờ thì tôi tự hào là người có gốc, cho dù nguồn gốc đó cách nơi tôi sinh sống đến nửa vòng trái đất”.

Các “Babylift” tại phi trường Tân Sơn Nhất năm 2005(Ảnh của tác giả,http://www.flickr.com/photos/nguyen_ngoc_chinh/3620171685/)

Tháng 4/2005, một đoàn du khách Mỹ gồm 38 người đã đến Việt Nam trong một chuyến du lịch được mệnh danh là “Operation Babylift—Homeward Bound 2005”. Điểm đặc biệt đoàn du khách này có 21 người trước đây là trẻ mồ côi trên các chuyến bay di tản, số còn lại là những người có liên quan đếnOperation Babylift. Đặc biệt hơn nữa, trong số trẻ mồ côi ngày nào trở về quê hương có 3 em đã từng được cứu sống sau tai nạn của chuyến bay khởi đầu Operation Babylift.

Chuyến Hành trình về nguồn được hãng hàng không World Airways (WA) bảo trợ. WA, một trong những hãng hàng không đã tham gia Operation Babylift, đã liên lạc được với 21 trong số 57 trẻ mồ côi được WA chuyên chở khi rời Sài Gòn vào năm 1975 và đưa họ trở về thăm quê hương đúng 30 năm sau ngày được di tản.

Những hành khách đặc biệt này ngày nay đã thuộc lứa tuổi trên 30, đa số đã lập gia đình và có một cuộc sống ổn định như bao thanh niên trên đất Mỹ. Khác chăng chỉ là họ có một mối liên hệ từ tuổi ấu thơ với Việt Nam và khi trở về quê hương họ đã là những người trưởng thành.

Chuyến về Sài Gòn chỉ kéo dài 2 ngày (15 và 16/4/2005). Nhưng có điều chắc chắn chuyến trở về mang nhiều ý nghĩa đối với những người lúc ra đi chỉ là những đứa trẻ còn khóc oe oe trên các chuyến bay bão táp, thậm chí có trẻ còn nằm lọt thỏm trong hộp giấy. Trên chuyến trở về họ là những hành khách như bao hành khách khác nhưng mang một tâm trạng “hồi cố hương” sau 30 năm xa cách.

Câu chuyện Babylift mang âm hưởng một chuyện cổ tích giữa đời thực với đầy đủ “Hỷ - Nộ - Ái - Ố”.Tuy nhiên, câu chuyện có đoạn kết “có hậu”, rất hiếm gặp giữa đời thường.

Safi Thi-Kim Dub và Emma McCrudden đã may mắn sống sót trong chuyến bay ngày 4/4/1975
(Ảnh My Lăng chụp năm 2005 trong chuyến “Hành trình về nguồn” thăm lại nơi xảy ra tai nạn)

***

[*] Allison Martin, Chủ tịch hiệp hội Families with Children from Vietnam (Gia đình có những trẻ em Việt Nam), mở một website http://www.adoptvietnam.org/ trong đó có rất nhiều bài viết về chiến dịch Babylift của các gia đình Mỹ cũng như các thành viên Babylift. Gia đình Martin có 3 người con, trong đó người nhỏ nhất là con nuôi từ Việt Nam năm 1997.

(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 4: Thời quân ngũ)
Nguyễn Ngọc Chính