Trong những ngày đầu Tháng Tư dương lịch, 2014 vừa qua, trên báo chí và qua các điện thư được phổ biến, người đọc có nhận được một bản tự khai viết từ năm 1977 của Tiến Sĩ Nguyễn Nhã, một “trí thức” từ trong nước được gửi ra hải ngoại từ nhiều năm qua để diễn thuyết về vấn đề các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bài “tự khai” này cho thấy là đương sự đã nằm vùng và hoạt động cho Cộng Sản ngay từ năm 1966 khi ông làm công việc nhận thư từ bài vở cho tờ Tập San Sử Địa do Nhóm Sinh Viên Sử Địa Đại Học Sư Phạm Saigon chủ trương với sự bảo trợ về ấn loát của Nhà Sách Khai Trí. Vì là một nhân viên của Ban Giảng Huấn của trường Đại Học Sư Phạm Saigon và là một người luôn luôn đọc và theo dõi Tập San Sử Địa, tôi thấy trong bản tự khai này ông Nguyễn Nhã đã đưa ra nhiều điểm sai lầm cần phải được làm sáng tỏ, đặc biệt là những gìông tự nhận là đã làm trong những ngày đầu sau năm 1975 có phương hại tới danh dự của Đại Học Sư Phạm, trường tôi đã giảng dạy.
Tiến sĩ Nguyễn Nhã
Mở đầu tôi sẽ nói tới tiểu sử của ông Nguyễn Nhã do chính ông ghi ra và phổ biến trong cuốn Những Bằng Chứng Về Chủ Quyền Của Việt Nam Đối Với Hai Quần Đảo Hoàng Sa, Trường Sa do Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam xuất bản năm 2013 và những sự bất thường của bàn tiểu sử này. Tiếp theo là chuyện ông Nhã tiếm danh Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút của Tập San Sử Địa mà nhiều người đã nêu ra và sau đó là những công lao ông tự nhận là đã làm trong thời gian từ năm 1966 đến năm 1975 như một người nằm vùng trong tờ Sử Địa.
Cuối cùng là chuyện tại sao Nguyễn Nhã lại cho phổ biến bản tự khai ông viết từ năm 1977 vào thời điểm 2014 này, cũng như Nguyễn Nhã muốn gì khi làm việc phổ biến này?
Và nhà cầm quyền Cộng Sản muốn gì khi để Nguyễn Nhã làm công việc này?
Cá nhân Nguyễn Nhã: Trong bản tiểu sử ghi trên bìa sau của sách viết về hai quần đảo Hoàng Sa,Trường Sa kể trên, Nguyễn Nhã khai là Tốt nghiệp Trường Quốc gia Sư phạm Saigon (1962-1965). Cử nhân Văn khoa Saigon (1966). Cao học giáo dục Saigon (khóa 1). Tiến Sĩ Sử Học (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2003).
Đọc bản tiểu sử này, những ai đã biết ông thời trước năm 1975 đều có ngay nhận xét là ông đã ghi sai tên của trường ông đã theo học ba năm (1962-1965) và tốt nghiệp từ đó, vì tên chính thức của trường này là Đại Học Sư Phạm Saigon, trường đào tạo giáo sư trung học, chứ không phải là Quốc Gia Sư Phạm, vì Quốc Gia Sư Phạm, trường kế bên của trường Đai Học Sư Phạm, là trường đào tạo giáo viên tiểu học.
Tại sao lạo có sự lầm lẫn vô cùng tệ hại như vậy?
Có ba lý do:
- Thứ nhất, Nguyễn Nhã đã không biết hay đã quên tên trường mình đã trải qua cả ba năm theo học;
- Thứ hai, Nguyễn Nhã đã cố tình chối bỏ nền giáo dục mà ông đã nhận được trong thờii còn đi học ở miền Nam trước đó, mà sau này trong bản tự khai ông đã mạt sát lên án;
- Thứ ba, Nguyễn Nhã cố tình thêm hai chữ “quốc gia” với ý nói là trường này là trường nhà nước mà không biết là còn có trường kế bên mang tên này.
Tại sao Nguyễn Nhã lại thêm hai chữ quốc gia như vậy?
Lý do là vì Nguyễn Nhã muốn nói trường ông tốt nghiệp có tầm vóc quốc gia khác với các trường Đại Học Sư Phạm khác, giống như trường sau này ông lấy bằng tiến sĩ (Đại Học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh) để lòe bịp người không biết.
Nhưng dù vì lý do nào đi chăng nữa cả ba đều không thể chấp nhận được nếu người ta dùng chúng để định giá bản tự khai viết năm 1977 của Nguyễn Nhã, vì nó chứng tỏ sự vừa tối dạ, vừa kém trí nhớ, vừa gian trá, lừa đảo, khôn mà không ngoan và thiếu lương thiện của nhân vật này.
Tất cả làm cho những gì ông viết trong bản tự khai của ông trở thành bất khả tín, từ đó vô giá trị, coi khinh người đọc, trong đó có những cán bộ Cộng Sản cao cấp. Đó là chưa kể tới văn bằng Cử Nhân Văn Khoa của ông, vì muốn được bằng này ông phải lấy bốn chứng chỉ kể từ năm ông học năm thứ hai ĐHSP vì một sinh viên xuất sắc học hai trường một lúc mỗi năm học và đậu thêm một chứng chỉ ở trường kia là rất giỏi. Sau đó, năm 1965, khi ra trường rồi, vừa đi dạy toàn thời gian, vừa đi học, Nguyễn Nhã, như một sinh viên sức học tầm thường, ngoại ngữ kém, khó có thể lấy hai chứng chỉ để được cấp bằng Cử Nhân Văn Khoa được.
Vì vậy chuyện ông có bằng Cử Nhân Văn Khoa cũng là nhiều điều cần phải được phối kiểm.
Cũng nên để ý là việc thi Tú Tài của Nguyễn Nhã rất trắc trở. Ông phải thì rớt Tú Tài I rồi Tú Tài II rất nhiều khóa (mỗi năm hai khóa) nên mãi đến năm 1962 ông mới vào được ĐHSP (Nguyễn Nhã sinh năm 1939, mãi đến năm 1962 mới đỗ Tú Tài II và thi tuyển vào trường Đại học Sư Phạm Saigon). Học lực kém, trí nhớ không tốt hay thiếu lương thiện là ba yếu tố khiến người ta không thể tin vào lời khai của Nguyễn Nhã được. Đó là chưa kể tới những lỗi lầm sơ đẳng về văn phạm mà ông mắc phải khi liệt kê các tác phẩm bằng ngoại ngữ trong tác phẩm về Hoàng Sa và Trường Sa mà ông rất hãnh diện. Chỉ có việc chép tên tác giả và nhan đề sách thôi mà Nguyễn Nhã còn làm không xong thì nói chi đến chuyện đọc và hiểu các văn bản, nói riêng, nội dung của tác phẩm, nói chung cũng như chuyện ông khoe làm Chủ Bút Tập San Sử Địa từ năm 1966, năm ông mới ra trường mà ta sẽ bàn ở phần dưới.
Tiếm nhận vai trò Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút Tập San Sử Địa:
Trong lời tự khai cũng như trong video riêng của mình và ở nhiều nơi, Nguyễn Nhã luôn luôn tự nhận mình là Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút Tập San Sử Địa, một tập san do các sinh viên ĐHSP Saigon thực hiện với sự cố vấn của các giáo sư trường này và các học giả nổi tiếng đương thời, dưới sự bảo trợ ấn loát của Nhà sách Khai Trí, ngay từ năm 1965-1966, lúc ông mới có 26 tuổi. Điều này hoàn toàn không có vì nhiều lý do:
Thứ nhất: Trong phần liệt kê nhân sự của tờ báo in ở trang sau, bìa trước, Nguyễn Nhã không có tên trong danh sách Ban Chủ Biên và những người cộng tác, Ông chỉ có tên trong Ban Trị Sự và là người liên lạc (Thư từ, bài vở, ngân chi phiếu, xin đề: NGUYỄN NHÃ). Không có tên trong Ban Biên Tập, Nguyễn Nhã không thể là Chủ Bút được. Lý do là vì chủ bút phải rành về chuyên môn và bài vở, người không đủ hiểu biết để đọc và định giá trị tài liệu, bài vở không thể làm được. Còn danh vị Chủ Nhiệm, tên Nguyễn Nhã có ghi một cách kín đáo ở mặt trong bìa sau.Điều này có thể được vì tờ báo cần có người đứng tên để xin phép và lo những chuyện ngoài chuyên môn và bài vở.
Thứ hai: Nguyễn Nhã lúc đó mới ra trường, học lực không được là bao làm sao dám nhận là Chủ Bút khi ban biên tập gồm có những học giả lão thành như các Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Khắc Kham hay các thày dạy của chính ông Nguyễn Nhã như các Giáo Sư Nguyễn Thế Anh, Lâm Thanh Liêm, Bửu Cầm… Không những thế, ngay trong danh sách ban biên tập và cộng tác viên, Nguyễn Nhã cũng không dám ghi tên mình vào giống như các bạn cùng lớp thời đó như Trần Anh Tuấn, Trần Quốc Giám…
Thế nhưng, trong lời tự khai năm 1977 và luôn luôn trong những năm sau này, Nguyễn Nhã không những đã khai hay tự nhận là Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút mà còn giải thích thêm “tức là Tổng Biên Tập” của Tập San Sử Địa để loè bịp người các cán bộ Cộng Sản một cách thiếu lương thiện.
Nguyễn Nhã khoe khoang và kể công những gì với “Cách Mạng” trong bản tự khai 1977?
Ngoài chuyện khoe khoang bằng cấp và chức vị Chủ Nhiệm kiêm Chủ bút Tập San Sử Địa một cách hồ đồ, thiếu thận trọng đến nỗi để lộ chân tướng của mình như trên, Nguyễn Nhã còn khoe và kể công với “Cách Mạng” nhiều thành tích khác khiến những ai quen hay biết ông thời trước phải nhăn mặt. Chỉ cần đọc sơ qua bàn tự khai năm 1977 của ông mà ông mới cho phổ biến, người ta có thể thấy ngay chân tướng của một kẻ nằm vùng của ông, một chân tướng chưa chắc đã có thật.
Xin đan cử:
Thứ nhất: Với tư cách góp phần làm Tập San Sử Địa, Nguyễn Nhã đã được móc nối và hoạt động cho Mặt Trận từ rất sớm, từ năm 1965-66, đã mời GS. Tôn Thất Dương Kỵ, người đã bị Chính Phủ VNCH bắt và tống xuất qua Sông Bến Hải vì tội thân Cộng làm Chủ Bút cho tờ Tập San Sử Địa. Nguyên văn lời Nguyễn Nhã:“Về chủ biên, lúc đầu nhờ giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ phụ trách chủ bút, nhưng báo chưa ra, thì giáo sư Dương Kỵ bị chính phủ Sài Gòn trục xuất ra Miền Bắc và tham gia cách mạng”
Thứ hai: Nguyễn Nhã đã can đảm nhận và giữ hàng ngàn tài liệu cộng sản ở trong nhà bất chấp sự thắc mắc của cán bộ Việt Cộng . Nguyên văn lời Nguyễn Nhã: “Tôi cũng đã trao đổi tư tưởng, chủ yếu là phạm vi văn hóa với Ông Đông Tùng, một người được phái khiến vào Nam hoạt động năm 1954, bị bắt đến năm 1963 được thả ra, tiếp tục hoạt động cách mạng. Chính tôi đã tàng trữ nhiều tài liệu về lịch sử cách mạng (hàng ngàn trang đánh máy/) do Ông Đông Tùng trao, cũng như tôi cũng từng cho ông mượn các sách xuất bản ở Miền Bắc do tôi mua được từ Paris. Vào năm 1974, tôi đã trao một số thuốc men cho ông khi Ông từ biệt tôi vào khu giải phóng một thời gian lâu mà ông nói về Bắc”.
Thứ ba: Nguyễn Nhã đã đăng thơ của Hồ Chí Minh trên Tập San Sử Địa. Nguyên văn lời Nguyễn Nhã:“Khi sửa soạn số 16, đặc khảo về Việt Kiều tại các lân bang Miên Thái Lào, ông Đông Tùng đưa đăng một số bài, trong đó ông cho biết có đoạn kể chuyện và trích thơ của Hồ Chủ Tịch (dưới bí danh Tín Thầu ở Thái Lan), nếu tòa báo sợ liên lụy thì cứ đục bỏ. Tôi (Nguyễn Nhã) đã quyết định giữ đăng đoạn đó (Sử Địa số 16, trang 333)”.
Thứ tư: Nguyễn Nhã đã khóc khi thấy bộ đội chết nhiều trong Tết Mậu Thân. Nguyên văn lời Nguyễn Nhã: “Tôi đã xúc động không cầm được nước mắt khi thấy xót xa nhục nhã, khi lần đầu tiên thấy nhiều xác chết của bộ đội giải phóng hồi tết Mậu Thân, tôi cũng không cầm được nước mắt.”
Thứ năm: Nguyễn Nhã làm Trưởng Ban Ủy lạo đón tiếp các chiến sĩ cách mạng của tập thể giáo sư ĐHSP Saigon. Nguyên văn lời Nguyễn Nhã: “vào những ngày đầu tiên Miền Nam hoàn toàn giải phóng, tôi đã phấn khởi và hoạt động tích cực trong chức vụ Trưởng Ban ủy lạo đón tiếp các chiến sĩ cách mạng của tập thể giáo sư Đại học Sư Phạm Sài Gòn”. ( Xin nhớ: Nguyễn Nhã không phải là nhân viên của Đại học Sư Phạm Sài Gòn, mà chỉ là giáo sư trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức, được trình diện tại Trường Đại học Sư Phạm Saigon để “học tập chính trị” )
Thứ sáu: Khi ra Tập San Sử Địa số 29 về Hoàng Sa - Trường Sa, Nguyễn Nhã đã lái cho tập san này có chủ trương gần với CS Hà Nội hơn, không chống lại Trung Quốc, từ đó khác với chủ trương của Chính Phủ VNCH, chống lại Trung Quốc. Nguyên Văn lời Nguyễn Nhã: