Friday 16 March 2018

KHƯỚC TỪ MỘT BẢN ÁN TỬ HÌNH - Mạnh Kim

Trong hình ảnh có thể có: 1 người
Stephen Hawking, một trong những nhân vật ngoại hạng vĩ đại nhất thế giới, vừa từ trần ở tuổi 76. Sinh ngày 8-1-1942 (300 năm sau cái chết của Galileo) tại Oxford (Anh), Hawking là bậc thầy về vật lý vũ trụ. Một trong những khám phá quan trọng ban đầu của Stephen Hawking là các lỗ đen không hoàn toàn đen mà chúng phát ra phóng xạ rồi cuối cùng “bốc hơi” và biến mất. Tuy bệnh tật trầm trọng, Hawking đã viết nhiều công trình nghiên cứu vĩ đại mà “Brief history of time” là tác phẩm nổi tiếng nhất. Sống trọn đời trên chiếc xe lăn, Hawking đã chứng minh rằng nghị lực phi thường có thể vượt qua tất cả. Hawking đã bộc bạch về một phần của đời mình và những vất vả mà ông lướt qua. Ông kể…
Người ta thường hỏi rằng tôi có tâm trạng như thế nào khi sống với căn bệnh teo cơ ALS (amyotrophic lateral sclerosis). Chẳng có gì nhiều để trả lời. Tôi cố sống như bình thường, không nghĩ về tình trạng bệnh tật và quên đi những rào cản mà căn bệnh đưa đến.
Tôi thật sự bị choáng khi biết rằng mình mắc phải chứng bệnh liên quan đến tế bào thần kinh vận động. Hồi nhỏ, thể lực tôi đã không được khỏe. Tôi không thể chơi tốt các môn thể thao, còn chữ viết thì lúc nào cũng làm thầy cô khó chịu. Tuy nhiên, những điều này đã thay đổi khi tôi vào Đại học Oxford. Tôi tham gia vào trò chèo thuyền và thậm chí còn thi đấu ở các giải liên trường. Năm thứ ba đại học, tôi bắt đầu nhận thấy đầu mình hay bị choáng. Tôi gần như không thể kiểm soát sự vận động của mình, bởi thế có khi tự nhiên tôi ngã. Năm sau, bố đưa tôi đi chẩn đoán, vài ngày sau lần sinh nhật thứ 21 của tôi. Hai tuần liên tiếp tại một bệnh viện, tôi trải qua nhiều cuộc xét nghiệm. Người ta lấy cơ từ tay, gắn điện cực vào người và chích một thứ chất lỏng vào cột sống tôi. Bác sĩ chẳng nói rõ cho tôi biết mình mắc bệnh gì. Tuy nhiên, tôi đoán rằng tình trạng bệnh tật mình rất xấu và họ không thể làm gì để chữa trị, trừ việc cho tôi vài viên vitamin.

Khi linh cảm mình mắc phải chứng bệnh vô phương cứu chữa, tôi có cảm giác như mình đang chết lần mòn. Làm thế nào chuyện như thế lại xảy ra và tại sao tôi không thể thoát khỏi nó? Nỗi buồn ám ảnh như bóng ma, cho tới một hôm, khi tôi thấy một cậu bé đang hấp hối vì bệnh bạch cầu, nằm đối diện giường tôi. Đó là cảnh tượng thật đáng thương. Rõ ràng, có nhiều người khác còn kém may mắn hơn mình. Dù sao, căn bệnh ALS không làm cho tôi đau đớn nhiều. Từ đó về sau, cứ mỗi lần tư tưởng bi quan xuất hiện thì lập tức tôi nghĩ đến cậu bé đó. Ít lâu sau, bác sĩ cho tôi xuất viện và nói rằng cứ tiếp tục nghiên cứu những đề tài về vũ trụ còn dang dở. Tôi tiến triển chậm trên con đường nghiên cứu vì thiếu nền tảng toán học…

Giấc mơ về cuộc đời tôi lúc còn trẻ rất mơ hồ. Trước khi được chẩn đoán mắc bệnh, tôi cảm thấy không hứng thú với cuộc sống. Dường như chẳng có gì đáng để làm. Rồi sau khi xuất viện, tôi thấy như mình sắp bị hành hình. Bỗng nhiên lúc đó tôi nhận ra rằng có rất nhiều điều đáng để thực hiện nếu bản án tử hình của tôi được hoãn lại. Như thế, dù sao, tôi cũng làm được gì đó cho cuộc sống trước khi mình chết. Cảm giác ham sống tràn ngập tim tôi và công trình nghiên cứu bắt đầu tiến triển nhanh hơn. Tôi càng cảm thấy ham sống khi đính hôn với cô gái mà tôi đã gặp vào thời điểm căn bệnh được phát hiện. Cuộc đính hôn với Jane Wilde làm thay đổi cuộc đời tôi. Tôi nộp đơn gia nhập hội đồng nghiên cứu thuộc Đại học Caius (Cambridge). Thật ngạc nhiên, đơn xin của tôi được chấp thuận.

Tôi chọn vật lý lý thuyết vì ngành này phù hợp với tình trạng bệnh tật của mình. Các đề tài của tôi ngày càng gây tiếng vang và đó cũng là lúc bệnh tình mỗi lúc mỗi xấu. Sau khi lập gia đình, chúng tôi rất vất vả trong việc tìm nhà ổn định chỗ ở vì lý do tài chính. Cuối cùng, với sự giúp đỡ của bố mẹ tôi, chúng tôi cũng mua được một căn hộ. Trước năm 1974, tôi vẫn còn tự ăn uống được và có thể lên xuống giường mà không cần ai giúp đỡ. Tuy nhiên, càng về sau, chứng teo cơ ngày càng phát triển mạnh. Cái nhìn về tương lai tôi lại nhuốm màu đen. Tuy nhiên, Jane đã an ủi tôi rất nhiều. Cô ấy là nguồn động viên cho tôi sinh lực sống. Tôi lại nhỏm dậy và lao hết mình vào các công trình nghiên cứu. Những đêm buồn bã đã trở thành những đêm tràn ngập các con số và bài toán. Công việc của Jane bận rộn nhiều hơn khi chúng tôi có con. Cuối cùng, gia đình tôi phải nhờ sự giúp đỡ của các sinh viên. Chúng tôi cung cấp cho họ chỗ trọ và họ giúp tôi làm việc nhà. Năm 1980, gia đình tôi thuê một số y tá tư, đến giúp việc một hay hai giờ vào buổi sáng và buổi chiều. 5 năm sau, tôi bị bệnh phổi và phải chịu ca phẫu thuật thông khí quản. Sau đó, tôi buộc phải chịu sự chăm sóc 24/24 vì không thể tự làm bất cứ chuyện gì, kể cả việc bước lên giường.

Trước ca phẫu thuật thông khí quản, tôi bắt đầu gặp trở ngại với việc phát âm. Chỉ có những người rất thân và gần gũi mới hiểu được tôi nói gì. Dù sao, tôi cũng còn giao tiếp được. Tôi soạn tài liệu khoa học bằng cách đọc cho một cô thư ký viết lại. Tôi diễn giảng thông qua một “thông dịch viên” và người đó đọc lại các câu nói của tôi với giọng rõ ràng hơn. Sau ca phẫu thuật, tôi không thể nói được nữa. Phương pháp giao tiếp và truyền đạt duy nhất trong thời gian này là tôi “đánh vần” từng từ, bằng cách nhướng chân mày khi thư ký chỉ đúng vào mẫu tự trên tấm bảng chữ cái. Thật khó có thể giao tiếp bằng lối này và càng khó khăn bội phần khi muốn viết tài liệu khoa học. Tôi không thể không nghĩ đến đám mây đen che phủ cuộc đời mình. Định mệnh cay độc dường như không chịu buông tha tôi.

Tuy nhiên, cứ mỗi lần định mệnh giáng một cú đấm đau điếng xuống đời tôi, thần may mắn lại giang tay giúp đỡ. Một chuyên gia về máy tính tên Walt Woltosz đã gửi cho tôi chương trình máy tính gọi là Equalizer, cho phép tôi chọn từ trên màn hình bằng cách nhấn nhẹ vào cái nút cầm ở tay. Chương trình này cũng được điều khiển bằng một cái nút khác, hoạt động khi cảm nhận sự chuyển động của chân mày hay cái gật đầu. Khi thiết dựng xong những gì cần nói, tôi có thể gửi câu hay cụm từ này sang một máy phân tích âm điệu. Thoạt đầu, tôi chỉ có thể điều khiển chương trình Equalizer trên một cái máy tính để bàn.

Sau này, David Mason – chuyên gia về kỹ thuật thông tin thuộc hãng Cambridge Adaptive Communication – đã gắn một máy tính xách tay và bộ phân tích âm điệu vào ngay cái xe lăn của tôi. Việc này đem lại tiện lợi và tôi có thể giao tiếp dễ dàng hơn trước nhiều. Tôi có thể “nói” đến 15 từ trong một phút. Tôi có thể “nói” hoặc “viết” bằng bộ thiết bị trên rồi lưu vào đĩa mềm để có thể in ra giấy. Tôi đã viết sách bằng cách này. Tôi rất hài lòng với thiết bị phân tích âm điệu của hãng Speech Plus, chỉ duy có điểm là nó làm cho tôi nói bằng giọng Mỹ chứ không phải giọng Anh! (Người vợ thứ hai Elaine của Hawking là vợ cũ của David Mason)…

Tôi đã mắc một chứng bệnh khiến tế bào thần kinh vận động không làm việc, trong suốt cuộc đời mình. Tuy nhiên, căn bệnh đã không thể ngăn tôi được chuyện có một gia đình hạnh phúc và không thể cản trở tôi trên bước đường nghiên cứu khoa học một cách thành công. Tôi cảm ơn vợ tôi, các con tôi và rất nhiều cá nhân cũng như tổ chức. Điều đó cho tôi thấy rằng người ta không nên từ bỏ hy vọng quá sớm. Định mệnh có thể bước sang lối đi khác, sáng sủa hơn, khi chúng ta không vội vã bi quan trước những rào cản cuộc đời.

Để hình dung cuộc đời ngoạn mục của một người phi thường hơn cả phi thường như Hawking, xin xem lại kiệt tác điện ảnh “The Theory of Everything” với diễn xuất xuất sắc của tài tử Eddie Redmayne.
Nguồn: FB Mạnh Kim

Chuyện tình đầy cảm động của nhà vật lý thiên tài Stephen Hawking

Chuyện tình hợp - tan, tan - hợp đầy cảm động của nhà vật lý thiên tài Stephen Hawking

Ra đi  tui 76, nhà vt lý hc thiên tài Stephen Hawking đ li cho nhân loi nhng công trình nghiên cu đ s và mt chuyn tình đã đi vào lòng người qua b phim "The Theory of Everything".

Cách đây vài tiếng, thông tin "ông hoàng Vt lý" Stephen Hawking qua đi, hưởng th 76 tui đã được toàn b các mt báo đưa tin và bày t s tri ân ti huyn thoi ca gii khoa hc gia thế k 21.
Ông ni tiếng vi hai đi công trình nghiên cu là "Lược s thi gian" và "Hc thuyết vn vt" - ti mc nhiu người đã không ngn ngi coi ông là Einstein ca thế k 21.

Không ch được ghi nhn bi nhng đóng góp vĩ đi v mt khoa hc, ông còn được thế gii ngưỡng m bi hai th khác.
Mt là ý chí và ngh lc phi thường đã giúp Hawking vượt qua bnh tt đ tiếp tc sng và theo đui đam mê nghiên cu và hai, chính là câu chuyn tình cm đng gia ông và người v Jane Wilde.
Câu chuyn cm đng này đã tr thành hình mu cho b phim "The Theory of Everything" tng ly đi nước mt ca hàng triu khán gi trên thế gii.
 tui 22, Stephen Hawking mc phi căn bnh nghit ngã ASL, mt căn bnh v thn kinh vn đng liên quan ti hi chng teo cơ bên.
Ông đón nhtin t thn ngay sau sinh nht 21 ca mình, và căn bnh tai ác din biến nhanh ti mc các bác sĩ cho rng ông s không th sng quá 25 tui.
Bnh tp ti vào thi đim ông còn quá tr, còn quá nhiu th đ làm, ngun đc lc đ giúp ông bước tiếp rcc li đến tmt người mà chính bn thân ông cũng không th ng ti - Jane Wilde, cô n sinh cùng trường đam mê văn chương và vô cùng tôn sùng Thiên Chúa.
Chuyện tình hợp - tan, tan - hợp đầy cảm động của nhà vật lý thiên tài Stephen Hawking - Ảnh 2.
nh cưới ca Stephen Hawking và cô n sinh Jane Wilde vào năm 1965.

Cm phc trước tài năng và xót thương cho căn bnh ca Hawking, cô đã ha hn s chăm sóc ông "vào ngày nng cũng nhưngày mưa, lúc mnh khe cũng như khi bnh tt".
"Jane Wilde và tình yêu thương không điu kin ca cô y đã thay đi cuc đi tôi. Nó đã cho tôi ngun sc mnh đ tiếp tc sng".
Nh có Jane Wildes, Hawking đã vượt qua trm cm và tiếp tc các công trình nghiên cu ca mình. Vào năm 1965, vi nàngJane Wilde sát cánh, Hawking đã công b lun án tiến sĩ ca mình và được Cambridge vinh danh.
Tác phm ca ông đã to ra mt s ngưỡng m thun khiết vi khoa hc gia toàn thế gii, nht là nhng người làm vic và nghiên cu trong ngành Vũ tr hc, đng thi đt nn móng vng chc cho s nghip ca Hawking.
Ngay sau khi nhn bng tiến sĩ, Hawking đã làm được thêm hai vic ln trong cuc đi người đàn ông gn như ngay lp tc: mt công vic tt và mt người v hin. Ông kết hôn vi Jane Wilde tng mt hôn l vui v và đm năm 1965.

Chuyện tình hợp - tan, tan - hợp đầy cảm động của nhà vật lý thiên tài Stephen Hawking - Ảnh 3.
Stephen Hawking cùng v Jane Wilde và con trai Tim, nh chp sau khi ông nhn bng danh d t Đi hc Cambridge.

Trong nhng năm tiếp theo đó, Stephen Hawking và v tiếp tc cuc sng gia đình viên mãn và có vi nhau ti 3 mt con. Bnh tt dường như đã được đy lùi khi Stephen Hawking nh nhàng bước qua sinh nht ln th 25.
Đã có nhng lúc, cuc hôn nhân ca hai người gp phi nhng trc trc - thiên tài Vt lý thì cũng có nhng vn đ như người bình thường.
Đó là khi Jane trót có nhng phút ngã lòng trước Jonathan Hellyer Jones, mt nhc công nhà th, đng thi cũng là mt người bn ca gia đình Hawking.
S quan tâm gn gũi ca người đàn ông này đã khiến Jane có nhng giây phút ngã lòng, và thay vì tc gin, Stephen Hawking hiu và tôn trng nhng gánh nng mà người v ca mình gp phi khi phi gánh nng trên vai nhng gì mà ông không th san s vi vai trò mt người cha, người chng.
May mn thay, ti nhng phút cui cùng, Jane vn là mt người ph n chung thy, bà đã quyết đnh chn người chng 20năm gn bó và tiếp tc duy trì mt tình bn trong sáng vi người bn nhc công, không hơn, không kém.

Chuyện tình hợp - tan, tan - hợp đầy cảm động của nhà vật lý thiên tài Stephen Hawking - Ảnh 4.
Tri qua nhiu biến c, Hawking và Wilde đã có vi nhau 3 người con và mt cuc sng gia đình viên mãn.

Chuyện tình hợp - tan, tan - hợp đầy cảm động của nhà vật lý thiên tài Stephen Hawking - Ảnh 5.
Stephen Hawking chăm chú chơi c vua vi con trai Tim.

Đã có nhng lúc bnh tình ca Stephen Hawking chuyn xu ti mc các bác sĩ đã đ ngh Jane ngưng các thiết b tr sinh đông có th ra đi bt đau đn.
Thế nhưng, vi tình yêu mãnh lit ca mt người v, Jane Wilde đã kiên quyết yêu cu các bác sĩ tiếp tc cu cha chng mình và kết qu, như ai cũng đã thy, Stephen Hawking đã có mt cuc đi dài ti 76 năm hnh phúc bên v và các con - chng còn điu gì đ hi hn.
Tuy nhiên, th thách gia đình li mt ln na xy ra khi chính bn thân Stephen Hawking cũng ny sinh tình cm vi mt y tá thân cn tên Elaine Mason.
Mi chuyn tiến trin quá nhanh, khiến ông ri b gia đình và v con vào năm 1990 đ dn ti sng cùng Manson, đ ri ti năm 1995 thì hai người ly d, kết thúc 30 năm chung sng bên nhau.
Người ta nói rng, nhng ai yêu nhau tht lòng ri s li v vi nhau. Ch sau mt thi gian ngn, Stephen Hawking đã nhn ra mình chng th yêu ai nhiu hơn Jane Wilde.
Vào năm 2006, ông li v vi Jane Wilde và các con, chm dt cuc hôn nhân không my hnh phúc vi Elaine Manson.
T đó, Stephen Hawking và Jane Wilde li càng yêu thương nhau nhiu hơn, đ ri ông được sng 12 năm cui đtrong vòng tay ca người v yêu thương hết mc cùng ba người con nay đu đã khôn ln, trưởng thành.

Chuyện tình hợp - tan, tan - hợp đầy cảm động của nhà vật lý thiên tài Stephen Hawking - Ảnh 6.
Mt trong nhng hình nh đp gia Stephen Hawking và v Jane Wilde.

Chuyn tình đp như mơ mà cũng không kém phn truân chuyên ca hai người đã tr thành kch bn ca b phim "The theory of everything", ra mt vào năm 2014. B phim đã khiến nhiu người thêm tin vào tình yêu đích thc s vượt qua và chiến thng tt c.
Stephen Hawking qua đi vào ngày 14/3/2018, kết thúc mt cuc đi dài đy biến đng, và tt c nhng gì người ta s mãi nhv Hawking có l s là câu chuyn tình yêu vi Jane Wilde, bên cnh nhng công trình nghiên cu khoa hc ca ông.


Chuyện về con gái nuôi người Việt của nhà bác học Stephen Hawking


Qua đời ở tuổi 76, nhà khoa học vĩ đại người Anh, Stephen Hawking đã khiến nhiều người tiếc thương. Cuộc đời của ông là một tấm gương về nghị lực và lòng yêu đời. Ít ai biết rằng, Stephen Hawking đã từng nhận một cô bé mồ côi người Việt Nam làm con nuôi tại làng trẻ em SOS.
Cuộc gặp gỡ ngọt ngào
Vào năm 1989, cha mẹ của cô bé Nguyễn Thị Thu Nhàn đã qua đời sau một vụ lật thuyền. Được biết, Nhàn là con thứ 2 trong gia đình có 4 người con. Em được đưa về làng trẻ em SOS Hà Nội.
Tại đây, những đứa trẻ đều được lập hồ sơ để gửi về trụ sở của SOS ở Vienna, Áo. Những hồ sơ này sẽ được chuyển tới ngẫu nhiên những gia đình muốn nhận con nuôi trên toàn thế giới. Và cô bé Nguyễn Thị Thu Nhàn đã ngẫu nhiên trở thành con gái nuôi của nhà bác học nổi tiếng Stephen Hawking.
Chuyện ít biết về con gái nuôi người Việt của nhà bác học Stephen Hawking - Ảnh 1.
Stephen đến làng SOS thăm con nuôi.
Sau khi được nhận nuôi, Thu Nhàn thường xuyên viết thư liên lạc với bố mẹ nuôi của mình. Vào năm 1997, Stephen đã bí mật sang Việt Nam thăm con gái cùng với người vợ của mình, bà Elaine Mason.
Lần đầu tiên, sau nhiều năm chỉ trao đổi qua những bức thư đầy yêu thương, cô bé Thu Nhàn cuối cùng cũng được gặp gỡ cha mẹ nuôi ngoài đời. Trong suốt quãng thời gian chỉ vẻn vẹn có 3 ngày, Stephen luôn quan tâm đến cô con gái nuôi của mình và Nhàn cũng thường xuyên tự nấu những món ăn ngon cho người bố nuôi.
Chuyện ít biết về con gái nuôi người Việt của nhà bác học Stephen Hawking - Ảnh 2.
Thu Nhàn luôn nhận được sự quan tâm yêu thương từ bố nuôi.
Cả gia đình cũng thường xuyên đi dạo phố cùng nhau. Dù đôi tay bị biến dạng vì liệt nhưng ông vẫn luôn nắm chặt lấy tay con gái nuôi.
Trước khi rời Việt Nam, Stephen đã mua tặng cho con gái nuôi một bộ áo dài vì ông tin khi Thu Nhàn khoác lên tà áo dài truyền thống sẽ vô cùng xinh đẹp. Hiện nay, món quà này đã trở thành vật kỷ niệm mà Thu Nhàn trân trọng nhất.
Có lần, Stephen Hawking từng nói rằng nhận Thu Nhàn làm con nuôi là điều ngẫu nhiên, nhưng ông hạnh phúc vì điều ngẫu nhiên này khiến cô không khỏi xúc động.
Những ký ức không thể quên
Vào tháng 7/2000, Nhàn được qua Anh sống cùng với cha nuôi của mình trong khoảng thời gian 1 tháng. Stephen đã quyết định nghỉ phép chỉ để chào đón cô con gái nuôi từ xa xôi đến thăm mình.
Ông không bao giờ để Thu Nhàn cảm thấy lạ lẫm trong gia đình mình ở Anh. Mỗi buổi sáng, Nhàn luôn cùng ăn sáng với Stephen và gia đình ông. Ông luôn cố gắng tạo ra bầu không khí gần gũi và ấm cúng, để cô có thể cảm nhận được ông yêu thương cô nhiều như thế nàò.
Chuyện ít biết về con gái nuôi người Việt của nhà bác học Stephen Hawking - Ảnh 3.
Tấm ảnh đầu tiên Nhàn chụp chung với bố Stephen sau khi qua Anh.
Chuyện ít biết về con gái nuôi người Việt của nhà bác học Stephen Hawking - Ảnh 4.
Thu Nhàn đã có quãng thời gian ấm áp bên cạnh gia đình cha nuôi.
Với Thu Nhàn, Stephen Hawking là một người cha hết lòng yêu thương con gái. Những ngày sống ở Anh, Thu Nhàn được cha mẹ đăng kí cho một khóa học tiếng Anh tại Oxford. Stephen luôn nhắc nhở con gái học hành vào mỗi tối. Bên cạnh đó, ông cũng thường nhắc con đi ngủ từ 9h tối để đảm bảo sức khỏe và không quên dành nụ hôn chúc ngủ ngon cho Thu Nhàn trước khi cô chìm vào giấc ngủ.
Thu Nhàn thường cùng bố mẹ nuôi ngồi hàng giờ đồng hồ để trò chuyện hay đi dạo cùng nhau. Những ngày cuối cùng Thu Nhàn ở Anh, Stephen Hawking thường tự mình đưa con gái đi mua sắm. Cho đến bây giờ, Thu Nhàn vẫn luôn nhung nhớ những ngày cả gia đình đi dã ngoại, mọi người cùng đi thuyền, vẽ tranh và trò chuyện.
Sau này, vì điều kiện không cho phép nên Thu Nhàn không thể quay lại Anh thăm gia đình. Mặc dù vậy, cô vẫn thường xuyên liên lạc với mẹ Elaine để nắm được tình hình sức khỏe của cha. Khi biết tin sức khỏe của cha ngày một yếu, Thu Nhàn đã buồn rất nhiều.
Chuyện ít biết về con gái nuôi người Việt của nhà bác học Stephen Hawking - Ảnh 5.
Thu Nhàn cùng với chồng và con trong buổi ra mắt bộ phim "The Theory of Everything" kể về cuộc đời của nhà vật lý học Stephen Hawking ở Hà Nội.
Dù không ở bên chăm sóc được cho cha nuôi nhưng Thu Nhàn vẫn cố gắng viết những bức thư thật dài về cuộc sống của mình cũng như chụp những bức ảnh thật đẹp của các con để gửi cho bố nuôi Stephen.

Đối với Thu Nhàn, Stephen Hawking không chỉ là một nhà khoa học vĩ đại mà ông còn là một người cha sâu sắc với trái tim ấm áp, giản dị và tấm lòng yêu thương con gái vô hạn.