Thị Lộ cải hóa vua Lê Thái Tông từ một đứa bé bất trị thành một minh quân
Ngày 1/ 9/ 1442, vua Lê Thái Tông, đi duyệt võ ở Chí Linh, trên đường về ghé vào Côn Sơn thăm Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi có một người vợ lẽ là Nguyễn Thị Lộ vừa đẹp vừa hay chữ, từng được Thái Tông vời vào triều phong chức Lễ Nghi học sĩ giữ công việc dạy cung nữ và giảng sách cho vua. Trước khi Thái Tông đến Côn Sơn, Thị Lộ đã về đấy thăm Nguyễn Trãi. Lúc vua rời Côn Sơn, Thị Lộ được lệnh theo nhà vua về triều.
Ngày 7/ 9, xa giá Thái Tông đến Lệ Chi viên (tục gọi là Trại Vải) ở làng Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Đêm ấy, vua bị cảm, đến sáng thì mất. Các quan hộ giá giữ kín, đến ngày 9/ 9/ 1442 mới rước linh cữu vua về Thăng Long, rồi báo tin cho nhân dân cả nước biết. Ngay sau đó, Thị Lộ bị bắt. Nguyễn Trãi đang đi kiểm tra ở Đông Bắc, được tin Thái Tông mất, vội trở về Triều cũng bị bắt và bị buộc tội đồng mưu với Thị Lộ để giết vua.
Ngày 19/ 9/ 1442, Thị Lộ và Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc (a). Sử thần Ngô Sĩ Liên ghi rằng: "Vì yêu Thị Lộ mà Thái Tông bị thiệt thân".
Chú thích - (a) Tru di tam tộc: giết ba họ (họ cha, họ mẹ, họ vợ).
Vậy, tông tích Thị Lộ - Nguyễn Trãi thế nào? Có phải Thị Lộ thật sự đã giết Thái Tông, và đã có ảnh hưởng gì đến cuộc trị vì của nhà vua không?
Tông tích Nguyễn Thị Lộ (1390-1442)
Nguyễn Thị Lộ vốn là con nhà có học thức, quê làng Hải Triều, một làng làm chiếu có tiếng, nay thuộc xã Phạm Lễ xưa thuộc huyện Ngự Thiên, (Thái Bình).
Tương truyền, năm 1406, khi Nguyễn Trãi (26 tuổi) đang làm quan nhà Hồ, gặp Thị Lộ (16 tuổi) ở Vũ Lăng, thấy xinh đẹp, liền ứng khẩu:
Tương truyền, năm 1406, khi Nguyễn Trãi (26 tuổi) đang làm quan nhà Hồ, gặp Thị Lộ (16 tuổi) ở Vũ Lăng, thấy xinh đẹp, liền ứng khẩu:
Ả ở đâu mà bán chiếu gon,
Chẳng hay chiếu bán hết hay còn?
Xuân xanh nay độ bao nhiêu tuổi?
Đã có chồng chưa được mấy con?
Chẳng hay chiếu bán hết hay còn?
Xuân xanh nay độ bao nhiêu tuổi?
Đã có chồng chưa được mấy con?
Thị Lộ cũng ứng khẩu đáp lại:
Tôi ở Tây-hồ bán chiếu gon,
Cớ chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân xanh tuồi độ vừa đôi tám,
Chồng còn chưa có, có chi con!
Tôi ở Tây-hồ bán chiếu gon,
Cớ chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân xanh tuồi độ vừa đôi tám,
Chồng còn chưa có, có chi con!
Nguyễn Trãi yêu vì tài nên lấy làm thiếp. Thị Lộ không có con với Nguyễn Trãi, xin cháu của Ngô Từ là Ngô Chi Lan làm con nuôi. Ngô Chi Lan đổi tên là Nguyễn Hà Huệ, sau làm Lễ Nghi học sĩ trong cung Lê Thánh Tông, chồng là Phù Thúc Hoành, làm Bác sĩ giảng kinh sử Quốc Tử Giám. (1)
Lai lịch Nguyễn Trãi (1380-1442)
Nguyễn Trãi gốc làng Nhị Khê, tỉnh Hà Đông, sinh năm 1380 ở Thăng Long, tại nhà ông ngoại là quan Tư-đồ Trần Nguyên Đán. Nguyên Đán có hai gái là Thái và Thai, nuôi hai nho sinh là Nguyễn Ứng Long dạy Thái, và Nguyễn Hán Anh dạy Thai. Hai thầy gian díu với hai học trò. Thái có chửa, Ứng Long sợ bỏ trốn. Nguyên Đán gọi về, tha tội, và gả con cho. (2)
Sau hai người đều thi đỗ. Ứng Long, cha Nguyễn Trãi, đỗ bảng nhãn (1374)(3) mà Thượng hoàng Trần Nghệ Tông không cho làm quan, vì tội "thường dân mà thông dâm lấy con gái tông thất", nên phải về Nhị Khê sống nghề dạy học
Thời ấy, Lê Quí Ly, được Thượng-hoàng Nghệ Tông sủng ái, sàm tấu giết hại nhiều người, cả vua chúa vương thân cũng không trừ. Duy có Trần Nguyên Đán toàn gia được yên ổn, nhờ biết lo xa, kết thân gia với Lê Quí Ly.
Năm 1400, Quí Ly truất phế vua Trần Thiếu đế, chiếm ngôi, mở khoa thi Thái học sinh, Nguyễn Trãi thi đỗ ra làm quan, bổ làm Chánh chưởng đài Ngự sử. Năm 1402, Ứng Long đổi tên là Phi Khanh, cũng quan với nhà Hồ, với chức Hàn Lâm học sĩ.
Năm 1407, quân Minh mượn cớ phù Trần diệt Hồ để xâm chiếm nước ta. Hồ Quí Ly bị thua. Cuối tháng sáu năm 1407, giặc Minh bắt được cha con Hồ Quí Ly và một số quan, tướng trong đó có Phi Khanh, cha của Nguyễn Trãi, giải về Kim Lăng. Nguyễn Trãi theo cha đến điếm Vạn Sơn (tỉnh Hồ Bắc), rồi tuân lời cha trở về nước lo "trả thù nhà, rửa nhục nước", để em là Phi Hùng ở lại nuôi cha.
Theo Nhân Vật Chí của Phan Huy Chú, Trương Phụ ép Phi Khanh viết thư gọi con, Nguyễn Trãi bắt đắc dĩ phải ra trình diện. Trương Phụ dụ Nguyễn Trãi ra làm quan không được, muốn giết, Hoàng Phúc can và tha song buộc Nguyễn Trãi phải ở Đông Quan, là nơi có đại bản doanh của chúng. Sau khi thoát ra khỏi Đông Quan, sau đó, Nguyễn Trãi làm gì? ở nơi nào?
Mãi đến khoảng 1416/1417, có tin Lê Lợi ở Thanh Hóa chuẩn bị mộ quân đánh giặc Minh, Nguyễn Trãi và em họ, Trần Nguyên Hãn, đến ra mắt. Nhưng Hãn thấy Lê Lợi "có tướng như Việt vương Câu Tiễn, chỉ có thể giúp trong lúc hoạn nạn, không thể ở với nhau khi sung sướng", nên cả hai bỏ ra về. Trong chuyến nầy có Thị Lộ cùng đi, phong cách lúc nào cũng tươi cười, nhẫn nại, hoạt bát, đoan chính, được mọi người kính nể. (4)
Thời gian sau, có tin Lê Lợi đứng lên khởi nghĩa, Nguyễn Trãi và Nguyên Hãn vào Lỗi Giang tìm Lê Lợi lần nữa (1420). Lần nầy, Hãn "lén thấy Lê Lợi uy nghiêm, khí tượng thay đổi ", bấy giờ Hãn mới dâng kiếm báu của nội tổ là Trần Quang Khải, còn Nguyễn Trãi dâng Bình Ngô sách, chủ trương "đánh vào lòng người" cuối cùng sẽ thắng. Lê Lợi khen hay, dùng Nguyễn Trãi làm Hàn Lâm Thừa Chỉ, coi việc thảo văn thư, chiếu hịch, tham dự bộ tham mưu, và dùng Hãn làm quan võ.
Trong thời kháng chiến, Lê Lợi và các quan tướng thường đem vợ con theo, nên khi Nguyễn Trãi thảo thư từ, chiếu hịch đều có Thị Lộ bên cạnh giúp việc sửa chép. (5)
Năm 1428, kháng chiến toàn thắng, Nguyễn Trãi được tước hầu, làm Thượng thư bộ Lại (coi về nhân viên, quan lại). Nhưng năm sau vì liên can với Trần Nguyên Hãn, (bị vua nghi, sai người bắt giết, Hãn nhảy sông tự tử), nên Nguyễn Trãi bị tù. Nhờ các đại thần can thiệp, Trãi được tha ra, làm quan lại một thời gian, rồi xin nghỉ việc về Côn Sơn.
Năm 1433, Lê Lợi mất, Nguyên Long 10 tuổi, kế ngôi (Lê Thái Tông). Lê Sát làm đại tư đồ. Nguyễn Trãi được Thái Tông, theo di mệnh của Thái Tổ, gọi ra phụ chính, chức Gián nghị đại phu. (6)
Theo Toàn Thư tục biên, Lê Sát thấy Thái Tông còn nhỏ, thích chơi bời, lười biếng học tập, liền lập một ban văn thần, trong số đó có Nguyễn Trãi, để thay phiên vào tòa Kinh Diên dạy vua. Cả bọn đều bị Thái Tông đuổi về. Sau đó, Lê Sát bị khép vào tội lộng quyền, vua cho được tự tử tại nhà.
Trước tình trạng ấy, năm 1438, Thái-bảo Ngô Từ đưa ra ý kiến có lẽ Thị Lộ dịu dàng khéo léo, học giỏi, văn hay, may ra có thể giúp nhà vua chăm chỉ học hành. Sau khi hội ý với Nguyễn Trãi, Thị Lộ, Ngô Từ đưa Thị Lộ vào chầu Thái Tông, được vua nhận, phong làm Lễ Nghi học sĩ, ngày đêm kề cận tin dùng. (7)
Thời ấy, Lê Quí Ly, được Thượng-hoàng Nghệ Tông sủng ái, sàm tấu giết hại nhiều người, cả vua chúa vương thân cũng không trừ. Duy có Trần Nguyên Đán toàn gia được yên ổn, nhờ biết lo xa, kết thân gia với Lê Quí Ly.
Năm 1400, Quí Ly truất phế vua Trần Thiếu đế, chiếm ngôi, mở khoa thi Thái học sinh, Nguyễn Trãi thi đỗ ra làm quan, bổ làm Chánh chưởng đài Ngự sử. Năm 1402, Ứng Long đổi tên là Phi Khanh, cũng quan với nhà Hồ, với chức Hàn Lâm học sĩ.
Năm 1407, quân Minh mượn cớ phù Trần diệt Hồ để xâm chiếm nước ta. Hồ Quí Ly bị thua. Cuối tháng sáu năm 1407, giặc Minh bắt được cha con Hồ Quí Ly và một số quan, tướng trong đó có Phi Khanh, cha của Nguyễn Trãi, giải về Kim Lăng. Nguyễn Trãi theo cha đến điếm Vạn Sơn (tỉnh Hồ Bắc), rồi tuân lời cha trở về nước lo "trả thù nhà, rửa nhục nước", để em là Phi Hùng ở lại nuôi cha.
Theo Nhân Vật Chí của Phan Huy Chú, Trương Phụ ép Phi Khanh viết thư gọi con, Nguyễn Trãi bắt đắc dĩ phải ra trình diện. Trương Phụ dụ Nguyễn Trãi ra làm quan không được, muốn giết, Hoàng Phúc can và tha song buộc Nguyễn Trãi phải ở Đông Quan, là nơi có đại bản doanh của chúng. Sau khi thoát ra khỏi Đông Quan, sau đó, Nguyễn Trãi làm gì? ở nơi nào?
Mãi đến khoảng 1416/1417, có tin Lê Lợi ở Thanh Hóa chuẩn bị mộ quân đánh giặc Minh, Nguyễn Trãi và em họ, Trần Nguyên Hãn, đến ra mắt. Nhưng Hãn thấy Lê Lợi "có tướng như Việt vương Câu Tiễn, chỉ có thể giúp trong lúc hoạn nạn, không thể ở với nhau khi sung sướng", nên cả hai bỏ ra về. Trong chuyến nầy có Thị Lộ cùng đi, phong cách lúc nào cũng tươi cười, nhẫn nại, hoạt bát, đoan chính, được mọi người kính nể. (4)
Thời gian sau, có tin Lê Lợi đứng lên khởi nghĩa, Nguyễn Trãi và Nguyên Hãn vào Lỗi Giang tìm Lê Lợi lần nữa (1420). Lần nầy, Hãn "lén thấy Lê Lợi uy nghiêm, khí tượng thay đổi ", bấy giờ Hãn mới dâng kiếm báu của nội tổ là Trần Quang Khải, còn Nguyễn Trãi dâng Bình Ngô sách, chủ trương "đánh vào lòng người" cuối cùng sẽ thắng. Lê Lợi khen hay, dùng Nguyễn Trãi làm Hàn Lâm Thừa Chỉ, coi việc thảo văn thư, chiếu hịch, tham dự bộ tham mưu, và dùng Hãn làm quan võ.
Trong thời kháng chiến, Lê Lợi và các quan tướng thường đem vợ con theo, nên khi Nguyễn Trãi thảo thư từ, chiếu hịch đều có Thị Lộ bên cạnh giúp việc sửa chép. (5)
Năm 1428, kháng chiến toàn thắng, Nguyễn Trãi được tước hầu, làm Thượng thư bộ Lại (coi về nhân viên, quan lại). Nhưng năm sau vì liên can với Trần Nguyên Hãn, (bị vua nghi, sai người bắt giết, Hãn nhảy sông tự tử), nên Nguyễn Trãi bị tù. Nhờ các đại thần can thiệp, Trãi được tha ra, làm quan lại một thời gian, rồi xin nghỉ việc về Côn Sơn.
Năm 1433, Lê Lợi mất, Nguyên Long 10 tuổi, kế ngôi (Lê Thái Tông). Lê Sát làm đại tư đồ. Nguyễn Trãi được Thái Tông, theo di mệnh của Thái Tổ, gọi ra phụ chính, chức Gián nghị đại phu. (6)
Theo Toàn Thư tục biên, Lê Sát thấy Thái Tông còn nhỏ, thích chơi bời, lười biếng học tập, liền lập một ban văn thần, trong số đó có Nguyễn Trãi, để thay phiên vào tòa Kinh Diên dạy vua. Cả bọn đều bị Thái Tông đuổi về. Sau đó, Lê Sát bị khép vào tội lộng quyền, vua cho được tự tử tại nhà.
Trước tình trạng ấy, năm 1438, Thái-bảo Ngô Từ đưa ra ý kiến có lẽ Thị Lộ dịu dàng khéo léo, học giỏi, văn hay, may ra có thể giúp nhà vua chăm chỉ học hành. Sau khi hội ý với Nguyễn Trãi, Thị Lộ, Ngô Từ đưa Thị Lộ vào chầu Thái Tông, được vua nhận, phong làm Lễ Nghi học sĩ, ngày đêm kề cận tin dùng. (7)
Nguyên nhân sâu xa vụ án Lệ Chi viên
Trong số năm bà vợ của Thái Tông, có bà phi Nguyễn Thị Anh sinh ra Băng Cơ được phong làm thái tử. Bà phi Ngô Thị Ngọc Dao (con gái của Ngô Từ) đang có mang, chiêm bao thấy Ngọc Hoàng sai một vị tiên xuống đầu thai vào mình. Thị Anh sợ rằng một khi bà Ngọc Dao sinh quí tử, sẽ chiếm ngai thái tử của Băng Cơ, nên vu cho Ngọc Dao dính líu đến một việc bùa ngãi, xui vua Thái Tông khép Ngọc Dao vào tội "bị voi dày".
Nguyễn Trãi bảo Thị Lộ khuyên Thái Tông đừng nghe lời xúc xiểm mà làm việc thất đức. Vua đồng ý, cho phép Thị Lộ đem Ngọc Dao giấu ở chùa Huy Văn. Vài tháng sau, bà Ngọc Dao sinh ra một người con trai, vua đặt tên là Tư Thành (vua Lê Thánh Tông sau nầy). Để tránh khỏi Nguyễn Thị Anh mưu hại, Nguyễn Trãi đưa hai mẹ con bà Ngọc Dao ra An-bang (Quảng-ninh ngày nay).
Từ đấy bà Nguyễn Thị Anh thâm thù Nguyễn Trãi và Thị Lộ. Vừa xảy ra vụ Thái Tông đột ngột mất ở Lệ Chi viên, Băng Cơ mới 2 tuổi, nối ngôi (tức là Lê Nhân Tông), Thị Anh được ngồi sau rèm nhiếp chính, liền hùa với bọn gian thần ra lệnh tra tấn Thị Lộ cực kỳ dã man. Thị Lộ phải nhìn nhận đã cùng Nguyễn Trãi âm mưu giết vua. Cả hai cùng thân thuộc bị trảm quyết.
Sau có tin đồn trước đây Nguyễn Trãi dọn vườn có giết một bầy rắn con, nay rắn mẹ hiện hình thành Thị Lộ để báo oán, cũng như xưa, bên Tàu, sau khi giết Dương Quí Phi người ta cũng bảo Dương thị là một hồ ly tinh hiện hình lên báo hại vua Đường.
Ai đã giết Lê Thái Tông ?
Nguyễn Trãi bảo Thị Lộ khuyên Thái Tông đừng nghe lời xúc xiểm mà làm việc thất đức. Vua đồng ý, cho phép Thị Lộ đem Ngọc Dao giấu ở chùa Huy Văn. Vài tháng sau, bà Ngọc Dao sinh ra một người con trai, vua đặt tên là Tư Thành (vua Lê Thánh Tông sau nầy). Để tránh khỏi Nguyễn Thị Anh mưu hại, Nguyễn Trãi đưa hai mẹ con bà Ngọc Dao ra An-bang (Quảng-ninh ngày nay).
Từ đấy bà Nguyễn Thị Anh thâm thù Nguyễn Trãi và Thị Lộ. Vừa xảy ra vụ Thái Tông đột ngột mất ở Lệ Chi viên, Băng Cơ mới 2 tuổi, nối ngôi (tức là Lê Nhân Tông), Thị Anh được ngồi sau rèm nhiếp chính, liền hùa với bọn gian thần ra lệnh tra tấn Thị Lộ cực kỳ dã man. Thị Lộ phải nhìn nhận đã cùng Nguyễn Trãi âm mưu giết vua. Cả hai cùng thân thuộc bị trảm quyết.
Sau có tin đồn trước đây Nguyễn Trãi dọn vườn có giết một bầy rắn con, nay rắn mẹ hiện hình thành Thị Lộ để báo oán, cũng như xưa, bên Tàu, sau khi giết Dương Quí Phi người ta cũng bảo Dương thị là một hồ ly tinh hiện hình lên báo hại vua Đường.
Ai đã giết Lê Thái Tông ?
Năm 1459, Nhân Tông (Băng Cơ) và Từ Tuyên Thái hậu (Nguyễn Thị Anh) bị hoàng tử Nghi Dân giết để tiếm ngôi. Trong một bài chiếu, Nghi Dân có nói: "Trẫm là con trưởng của Thái Tông Văn hoàng Đế, trước đây đã được giữ ngôi chính ở Đông Cung. Chẳng may Tiên đế đi tuần về miền đông, bỗng băng ở bên ngoài. Nguyễn Thái hậu muốn giữ vững quyền vị, ngầm sai nội quan Tạ Thanh dựng Băng Cơ làm vua, bắt trẫm làm phiên vương. Sau Tạ Thanh tiết lộ việc ấy, lây đến Thái úy Trịnh Khả và Tư không Trịnh Khắc Phục, Thái hậu bắt giết cả để diệt hết người nói ra." (8)
(Tạ Thanh là một thái giám hộ giá Thái Tông trên đường về Thăng Long, tối hôm 9/ 9/ 1442. Thái Tông bị cảm, phải nghỉ lại Lệ Chi viên. Ngự y chưa tới kịp. Thị Lộ túc trực săn sóc vua. Bọn thái giám Tạ Thanh, Lương Dật chạy biến đi mất, nói là đi tìm thầy thuốc địa phương, sáng mới về, vua đã tắt thở. Sau đó, Tạ Thanh tố cáo Thị Lộ giết vua, và bắt giam. Rồi hai tướng Đinh Liệt và Trịnh Khả đứng lên tuyên bố Thái Tông đã lập Băng Cơ làm thái tử và ủy thác Trịnh Khả phụ chính.)
Đến năm 1464, đời Lê Thánh Tông, (1460-1497) vua xuống chiếu tẩy oan cho Nguyễn Trãi, truy phong chức Đặc tiến kim tử Vinh Lộc đại phu, tước Tán trù bá và cho người con duy nhất trốn thoát nạn là Nguyễn Anh Vũ làm tri huyện, và cấp cho họ Nguyễn một trăm mẫu ruộng để lo việc thờ cúng.
Nhưng không thấy vua ra lệnh truy lại xem ai đã giết Thái Tông. Có lẽ vì Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao khi thuật lại chuyện cũ, có dặn vua Thánh Tông rằng: "Chính Nguyễn Thị Anh đã ngầm sai Tạ Thanh bỏ thuốc độc cho Thái Tông chết, nhưng con nên giữ kín việc ấy". (9)
Ngày nay, Bùi Văn Nguyên trong "Con người Nguyễn Trãi", cũng cho rằng: "Bọn gian thần phía bà phi Nguyễn Thị Anh âm mưu giết hại Lê Thái Tông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ để giành ngôi vua cho Băng Cơ (Lê Nhân Tông) khỏi rơi vào tay của Tư Thành (tức sau là Lê Thánh Tông), người được Nguyễn Trãi và Thị Lộ ủng hộ. Đó chính là nguyên nhân sâu xa của vụ án Lệ Chi viên." (10)
Nguyễn thị Lộ cảm hoá Thái Tông
Được như thế, phải chăng là nhờ Thị Lộ thường xuyên nhắc nhủ Thái Tông về nhân nghĩa, mà Nguyễn Trãi đã có dịp trình bày với vua trong vụ xử bảy tên vị thành niên ăn trộm tái phạm, năm 1435, hình quan chiếu luật đáng tội chém. Thái Tông đem việc ấy hỏi Nguyễn Trãi. Trãi trả lời:
"Pháp lệnh không bằng nhân nghĩa, cũng rõ lắm rồi. Nay một lúc giết bảy người, e không phải là hành vi của bậc đại đức. Kinh Thư có câu: "An nhữ chỉ " (hãy yên với chỗ đứng của mình), sách Truyện có câu: "Tri chỉ nhi hậu hữu định" (biết dừng thì rồi mới vững). Thần xin thuật lại nghĩa của chữ "chỉ" để bệ hạ nghe: "Chỉ " có nghĩa là yên với chỗ đứng của mình, như trong cung là chỗ đứng của bệ hạ, thỉnh thoảng bệ hạ có ngự ra chỗ khác, cũng không thể ở đó mãi, phải trở về trong cung, thì mới yên chỗ đứng của mình được. Người làm vua đối với nhân nghĩa cũng vậy, phải để lòng nơi nhân nghĩa, coi nhân nghĩa là chỗ đứng của mình. Tuy có lúc ra oai giận dữ, nhưng không phải như thế mãi được, xin bệ hạ lưu ý những lời của thần." (12)
Vấn đề thân tình giữa Thái Tông và Thị Lộ
Nguyên năm 1425, trong thời gian đang đánh nhau với quân Minh, Lê Lợi nằm mộng thấy thần "Cá Quả" đến nói "Xin tướng quân cho một người thiếp thì nguyện giúp tướng quân đánh được giặc Ngô mà thành nghiệp đế". Ngày hôm sau, Lê Lợi gọi các thiếp đến hỏi ai bằng lòng làm vợ của thần "Cá Quả", ta được thiên hạ sẽ truyền cho con của người ấy làm vua. Bà Phạm thị Ngọc Trần (mẹ của hoàng tử Nguyên Long, nay là Thái tông, lúc đó mới 2 tuổi) thưa: "Nếu ngài giữ lời ước thì thiếp xin nhận. Ngày sau xin đừng phụ mẹ con thiếp" (13). Lê Lợi giao ước với các quan văn võ y như lời ấy. Ngày 24 tháng 3 âm lịch 1425, sai lập đàn tế thần, dâng bà phi họ Phạm làm tế vật. Bà phi mặc áo quần lộng lẫy, bịt mắt lại, lên ngồi trên chiếc thuyền nan bằng giấy. Thuyền được thả theo dòng sông Lam và chìm dần dần, trong tiếng nhị, tiếng sáo điệu Nam Ai sầu não, cùng trong tiếng khóc nức nở của các phi tần và của Nguyễn Thị Lộ, thiếp của Nguyễn Trãi. Về sau, giữ lời ước ấy, Lê Lợi truyền ngôi cho Nguyên Long, (tức là vua Lê Thái Tông).
Nguyên Long mồ côi mẹ từ lúc 2 tuổi, phải nhờ một bà phi chăm sóc, tất nhiên đã cảm thấy thiếu thốn, thèm khát tình "mẫu tử" từ lâu. Nay gặp được Thị Lộ cùng một lứa tuổi với mẹ mình (năm 1438, Thị Lộ 48, Thái Tông 15 tuổi), lại là một người đã quen biết, đã chung sống với mẹ mình, đã chứng kiến thảm cảnh mẹ mình hy sinh mạng sống để mình được lên ngôi vua ngày nay, tự nhiên cậu bé mồ côi mẹ kia không khỏi vô cùng xúc động. Thường tình, ở vào địa vị ấy, ai cũng phải tò mò muốn hỏi cho rành rọt về mọi việc liên quan đến mẹ mình. Tất cả tình thương đối với người quá cố, có lẽ nhà vua đã dồn hết vào Thị Lộ, coi như một bà dì ruột, vớt vát lại những gì đã mất mát từ thuở bé thơ. Còn về sau, khi Thái Tông đến tuổi 17, 18, sáng chiều nam nữ cận kề, thật cũng khó mà tránh khỏi bị tiếng đời dị nghị. Đó là điều mà Ngô Từ, cũng như Nguyễn Trãi, Thị Lộ cũng đã thấy trước rồi.
Nhận xét
Nhưng "ngộ biến phải tòng quyền". Theo Mạnh-tử, "quyền" là cân nhắc cho rõ nặng nhẹ, để lựa bên nào nặng, bên nào nhẹ mà xử trí cho đúng cân trung bình. Trong đạo quân tử, "tùy thời" thì cũng phải "tòng quyền": Một bên để vua ăn chơi thất học, trị vì vô đạo, cả nước sẽ bị nguy khốn, một bên tạo ra hoàn cảnh giúp vua học hỏi nhưng không khỏi khiến vua có thể bị mang tiếng có tư tình với vợ lẽ của bầy tôi. Nếu chỉ "chấp nhất" giữ cho đúng cái ta gọi là "đạo lý tầm thường" mà làm hư đại sự, thì Mạnh-Tử cho rằng "cách chấp nhất như thế là đáng ghét", vì nó làm cho hại mất chân đạo lý, chỉ là làm nổi một việc nhỏ mà bỏ hết trăm việc lớn." (14)
Cha con Nguyễn Trãi đã làm quan với nhà Hồ ngụy triều. Ông ngoại Nguyễn Trãi, tông thất nhà Trần mà phản lại nhà Trần, theo nhà Hồ, bị dư luận đương thời chê trách. Lê Lợi hẳn phải biết rõ lai lịch của Nguyễn Trãi, nhưng vẫn dùng. Nhà vua chủ trương thu nạp tất cả nhân tài, kể cả những người đã "làm phản". (15) Nguyễn Trãi dâng Bình Minh sách, Lê Lợi khen hay, dùng Nguyễn Trãi trong việc soạn thảo văn từ chiếu chỉ, nhưng trong bảy năm đầu (1418-1424) chiến lược "đánh vào lòng người" theo Bình Minh sách của Nguyễn Trãi, vẫn chưa hề giúp quân Lam Sơn đánh tiến xa ra khỏi vùng núi Chí Linh được lần nào. Phải đợi đến cuối năm 1424, tại hội nghị Lam Sơn, có tướng Nguyễn Chích trình bày "chiến lược hai hồi" (là vào đánh Nghệ An trước, rồi đánh ra Đông Quan sau), thì chừng đó Lê Lợi mới chuyển từ đại bại thành ra đại thắng. (16)
Nhờ bắt được một mật thư của Vương Thông gửi về vua Minh, ta biết được quân Minh ở thế phải cầu hòa. Các tướng sĩ xin Lê Lợi tấn công tận diệt địch để trả thù rửa hận. Nguyễn Trãi can không nên kết thù với nhà Minh quá sâu, thế nào chúng cũng sang đánh nữa, chiến tranh biết bao giờ cho dứt được. Tốt hơn là nên tìm cách dụ hàng để tiết kiệm sinh mạng của quân sĩ đôi bên. Ta sẽ mở đường cho Vương Thông rút quân mà y vẫn giữ được sĩ diện. Ta tuyên bố đã tìm được Trần Cảo con cháu nhà Trần làm vua. Vua Trần nầy sẽ sai sứ cầu phong, và xin thực hiện đúng theo lời hứa của vua Minh trước đây là: "phù Trần, diệt Hồ xong sẽ rút quân về Tàu". Trên lập luận ấy Nguyễn Trãi đã viết thơ chiêu dụ địch, cuối cùng Vương Thông mở cửa thành ra hàng dưới danh nghĩa giảng hòa, cùng quân ta uống máu ăn thề, rồi rút quân về nước.
Về sau, Trần Cảo sợ, bỏ trốn, bị bắt nên tự tử. Vua Minh đòi cho được con cháu nhà Trần làm vua, Lê Lợi trả lời tìm không còn ai. Mãi đến cuối năm 1431, nhà Minh mới nhận phong Lê Lợi làm vua.
Nguyễn Trãi sống trong hoàn cảnh nước nhà tam phân ngũ liệt, mà chính nghĩa, chính thống thay đổi tùy theo thế "được làm vua" hay "thua làm giặc". Vừa lớn lên thì nhà Trần bị mất, Nguyễn Trãi thi đậu ra làm quan với nhà Hồ. Quí Ly có một số sáng kiến cải thiện xã hội nhưng chưa kịp thực hiện, thì nước bị ngoại xâm. Trong thời gian quân Minh chiếm nước ta, Nguyễn Trãi không tham gia (đúng hơn là "không thể" tham gia) với nhóm khởi nghĩa nào, vì tất cả các nhóm ấy đều nêu danh nghĩa "phù Trần diệt Hồ" mà cả nhà Nguyễn Trãi đã làm quan và được hậu đãi dưới triều nhà Hồ, nên bị cho là thành phần "ngụy". Đến khi Lê Lợi khởi nghĩa xưng Bình Định vương ở miền Trung, không dính líu gì đến những biến cố xảy ra trong cung triều nhà Trần ngày trước ở miền Bắc, thì Nguyễn Trãi và em họ là Trần Nguyên Hãn, mới đến xin gia nhập vào nhóm khởi nghĩa Lam Sơn. Mặc dầu biết trước Lê Lợi là người "chỉ có thể giúp trong lúc hoạn nạn, không thể ở với nhau khi sung sướng", nhưng trước nạn ngoại xâm, cả hai thấy cần phải tham gia để kháng chiến giải phóng đất nước.
Bàn về các cách xuất xử của kẻ sĩ, Mạnh-tử nhận xét: Ông Bá Di, vua chẳng đáng thờ thì chẳng thờ, dân chẳng đáng trị thì chẳng trị. Ông Y Doãn cho rằng vua nào chẳng phải là vua mình phục sự? dân nào chẳng phải là dân mình sai khiến? Cái trách nhiệm mình đứng ra gánh vác thiên hạ nặng nề như thế! Ông Huệ xứ Liễu Hạ chẳng lấy làm xấu hổ mà phục sự một vua ô trược. Dẫu làm một chức quan nhỏ thấp, ông cũng chẳng chê. Ba ông tuy đi khác đường với nhau, nhưng mục đích vẫn là một. Đó là nói về lòng nhân vậy. Người quân tử chỉ chú mục điều nhân mà thôi. Còn về hành động cần chi phải giống nhau. (17)
Vì chú mục đến điều "nhân" nên Nguyễn Trãi "phá chấp tòng quyền", đưa Thị Lộ vào cung giảng sách cho Thái Tông, cảm hoá một thiếu quân hung hăng thành một minh quân khoan từ, để mình phải chịu tai tiếng với đời. Vì chú mục đến đức "hiếu sinh", nên khi quân ta đã nắm chắc phần thắng lợi, Nguyễn Trãi đề nghị với Lê Lợi chấm dứt chiến tranh bằng ngoại giao, tiết kiệm sinh mạng cho quân sĩ đôi bên. Và vì chú mục đến đức "hiếu sinh", Nguyễn Trãi và Thị Lộ đứng lên cứu mạng mẹ con hoàng tử Tư Thành (sau là Lê Thánh Tông), gây thù oán với bà phi Nguyễn thi Anh, sinh ra vụ án Lệ Chi Viên, để rồi ba họ mình phải bị trảm quyết.
Nếu Nguyễn Công Trứ hết lòng giúp vua, Cao Bá Quát đòi giết bạo chúa để tôn minh quân, Nguyễn Khuyến rút lui không thờ vua nô lệ ngoại bang, thì Nguyễn Trãi tùy thời phá chấp, gặp vua đa nghi thì nhẫn nại đưa vua vào đường nhân nghĩa, gặp vua hung hăng thì phá chấp (dùng Thị Lộ) cảm hóa thành một vua khoan từ, hiếu sinh.
Bốn danh Nho trên đây, tuy cùng chú mục đến đức nhân của Khổng-tử, nhưng trong hành động, lại xuất xử và thực hành khác nhau, vì lẽ thời thế, địa vị, chính kiến của các vị có phần không giống nhau.
Nhưng với giá nào?
Nhờ bắt được một mật thư của Vương Thông gửi về vua Minh, ta biết được quân Minh ở thế phải cầu hòa. Các tướng sĩ xin Lê Lợi tấn công tận diệt địch để trả thù rửa hận. Nguyễn Trãi can không nên kết thù với nhà Minh quá sâu, thế nào chúng cũng sang đánh nữa, chiến tranh biết bao giờ cho dứt được. Tốt hơn là nên tìm cách dụ hàng để tiết kiệm sinh mạng của quân sĩ đôi bên. Ta sẽ mở đường cho Vương Thông rút quân mà y vẫn giữ được sĩ diện. Ta tuyên bố đã tìm được Trần Cảo con cháu nhà Trần làm vua. Vua Trần nầy sẽ sai sứ cầu phong, và xin thực hiện đúng theo lời hứa của vua Minh trước đây là: "phù Trần, diệt Hồ xong sẽ rút quân về Tàu". Trên lập luận ấy Nguyễn Trãi đã viết thơ chiêu dụ địch, cuối cùng Vương Thông mở cửa thành ra hàng dưới danh nghĩa giảng hòa, cùng quân ta uống máu ăn thề, rồi rút quân về nước.
Về sau, Trần Cảo sợ, bỏ trốn, bị bắt nên tự tử. Vua Minh đòi cho được con cháu nhà Trần làm vua, Lê Lợi trả lời tìm không còn ai. Mãi đến cuối năm 1431, nhà Minh mới nhận phong Lê Lợi làm vua.
Nguyễn Trãi sống trong hoàn cảnh nước nhà tam phân ngũ liệt, mà chính nghĩa, chính thống thay đổi tùy theo thế "được làm vua" hay "thua làm giặc". Vừa lớn lên thì nhà Trần bị mất, Nguyễn Trãi thi đậu ra làm quan với nhà Hồ. Quí Ly có một số sáng kiến cải thiện xã hội nhưng chưa kịp thực hiện, thì nước bị ngoại xâm. Trong thời gian quân Minh chiếm nước ta, Nguyễn Trãi không tham gia (đúng hơn là "không thể" tham gia) với nhóm khởi nghĩa nào, vì tất cả các nhóm ấy đều nêu danh nghĩa "phù Trần diệt Hồ" mà cả nhà Nguyễn Trãi đã làm quan và được hậu đãi dưới triều nhà Hồ, nên bị cho là thành phần "ngụy". Đến khi Lê Lợi khởi nghĩa xưng Bình Định vương ở miền Trung, không dính líu gì đến những biến cố xảy ra trong cung triều nhà Trần ngày trước ở miền Bắc, thì Nguyễn Trãi và em họ là Trần Nguyên Hãn, mới đến xin gia nhập vào nhóm khởi nghĩa Lam Sơn. Mặc dầu biết trước Lê Lợi là người "chỉ có thể giúp trong lúc hoạn nạn, không thể ở với nhau khi sung sướng", nhưng trước nạn ngoại xâm, cả hai thấy cần phải tham gia để kháng chiến giải phóng đất nước.
Bàn về các cách xuất xử của kẻ sĩ, Mạnh-tử nhận xét: Ông Bá Di, vua chẳng đáng thờ thì chẳng thờ, dân chẳng đáng trị thì chẳng trị. Ông Y Doãn cho rằng vua nào chẳng phải là vua mình phục sự? dân nào chẳng phải là dân mình sai khiến? Cái trách nhiệm mình đứng ra gánh vác thiên hạ nặng nề như thế! Ông Huệ xứ Liễu Hạ chẳng lấy làm xấu hổ mà phục sự một vua ô trược. Dẫu làm một chức quan nhỏ thấp, ông cũng chẳng chê. Ba ông tuy đi khác đường với nhau, nhưng mục đích vẫn là một. Đó là nói về lòng nhân vậy. Người quân tử chỉ chú mục điều nhân mà thôi. Còn về hành động cần chi phải giống nhau. (17)
Vì chú mục đến điều "nhân" nên Nguyễn Trãi "phá chấp tòng quyền", đưa Thị Lộ vào cung giảng sách cho Thái Tông, cảm hoá một thiếu quân hung hăng thành một minh quân khoan từ, để mình phải chịu tai tiếng với đời. Vì chú mục đến đức "hiếu sinh", nên khi quân ta đã nắm chắc phần thắng lợi, Nguyễn Trãi đề nghị với Lê Lợi chấm dứt chiến tranh bằng ngoại giao, tiết kiệm sinh mạng cho quân sĩ đôi bên. Và vì chú mục đến đức "hiếu sinh", Nguyễn Trãi và Thị Lộ đứng lên cứu mạng mẹ con hoàng tử Tư Thành (sau là Lê Thánh Tông), gây thù oán với bà phi Nguyễn thi Anh, sinh ra vụ án Lệ Chi Viên, để rồi ba họ mình phải bị trảm quyết.
Nếu Nguyễn Công Trứ hết lòng giúp vua, Cao Bá Quát đòi giết bạo chúa để tôn minh quân, Nguyễn Khuyến rút lui không thờ vua nô lệ ngoại bang, thì Nguyễn Trãi tùy thời phá chấp, gặp vua đa nghi thì nhẫn nại đưa vua vào đường nhân nghĩa, gặp vua hung hăng thì phá chấp (dùng Thị Lộ) cảm hóa thành một vua khoan từ, hiếu sinh.
Bốn danh Nho trên đây, tuy cùng chú mục đến đức nhân của Khổng-tử, nhưng trong hành động, lại xuất xử và thực hành khác nhau, vì lẽ thời thế, địa vị, chính kiến của các vị có phần không giống nhau.
Nhưng với giá nào?
Từ thời Trung cổ, Nho giáo đã giúp cho dân Hoa, Việt sớm tiến lên trình độ một xã hội có văn hiến, nhưng vì bị bọn hủ Nho xuyên tạc các lời dạy của Khổng Mạnh để phục vụ quyền lợi vua chúa, nên về sau Nho giáo đã hóa thành một trở ngại cho bước tiến chung của xã hội. Thời quân chủ xưa, (cũng như ở các chế độ phát xít), vận mệnh của đất nước, nhân dân tùy thuộc vào ý muốn của một cá nhân. Khiến cho cuối cùng Nguyễn Trãi, Thị Lộ là những người có công với đất nước, nhân dân, lại phải hóa thành nạn nhân thê thảm trong lịch sử ta. Thảm nạn, mà chỉ có cách thay đổi cơ cấu chính trị, bắt buộc nhà cầm quyền phải làm theo đúng hiến pháp, luật lệ, mới mong tránh khỏi được mà thôi.
Tóm lại, Nguyễn Trãi là kẻ sĩ phóng khoáng tùy thời phá chấp, đã hy sinh thực hành cho đúng với tôn chỉ của đạo Nho. Trong bức thư chiêu hàng gửi cho Thái Phúc, tướng của nhà Minh, Nguyễn Trãi đã xác nhận: "Kể ra kẻ sĩ cốt ở chổ gặp thời hay không, đạo xử thế cốt ở thực hành được hay không." Nhưng thực hiện được với giá nào?
Ngày xưa, trước hiện tượng bế tắc ấy, có lẽ Nguyễn Trãi đã từng ký gửi tâm sự mình vào bài "Tự thán" (tương truyền chính ông là tác giả) sau đây:
Ngày xưa, trước hiện tượng bế tắc ấy, có lẽ Nguyễn Trãi đã từng ký gửi tâm sự mình vào bài "Tự thán" (tương truyền chính ông là tác giả) sau đây:
Chiếc thuyền lơ lửng bên sông,
Biết đem tâm sự ngỏ cùng ai hay.
Chắc chi thiên hạ đời nay,
Mà đem non nước làm rầy chiêm bao !
Biết đem tâm sự ngỏ cùng ai hay.
Chắc chi thiên hạ đời nay,
Mà đem non nước làm rầy chiêm bao !
HUYỀN SỬ ĐÃ XA
Mỗi khi em bước qua đường
Anh bỗng nhớ về huyền sử
Chẳng biết ngày xưa Thị Lộ
Tóc thề bay lộng như em
Bâng khuâng thả mượt vai mềm
Cho bát ngát hương vườn vải
Câu thơ xiêu lòng Nguyễn Trãi
Để không qua được phận người
Cuộc tình trở lại đôi mươi
Và cũng thành ra vụ án
Muôn thuở triều đình ân oán
Sắp bày những chuyện ly tan
Anh hùng gánh vác giang san
Cũng đến một ngày oan khuất
Để lại một trang u uất
Ngàn sau ẩn ức lòng người
2.
Em anh bé bỏng nụ cười
Đi trong giấc mơ huyền sử
Thấy chuyện ngày xưa Thị Lộ
Quên luôn gánh chiếu Tây Hồ
Qua đường em đứng bơ vơ
Biết nẻo đâu về vườn vải
Câu thơ ngày xưa để lại
Mà hồn Nguyễn Trãi ngàn xa
Sáu trăm năm ấy đã qua
Vẫn mơ giấc mơ vườn vải
Hương đã thơm hồn nhân loại
Bên trời rạng mãi sao Khuê
Ức Trai riêng cõi đi về
Cũng không qua vòng hệ lụy
Tìm đâu lại người tri kỷ
Khóc người giọt Lệ chi viên
3.
Câu chuyện ngày xưa oan khiên
Bây giờ chắc không trở lại
Chắc cũng không còn Nguyễn Trãi
Một thời huyền sử đã xa...
TRẦN VIỄN THÔNG
“Ngoài chăng mọi chốn đều thông hết
Duy một lòng người cực hiểm thay”
(Thơ Nguyễn Trãi, “Mạn thuật 4” Quốc Âm Thi Tập)
Ba trang máu thấm
(Chuyện hư cấu dù dựa trên vài dữ kiện lịch sử, mọi trùng hợp đều là việc ngẫu nhiên)
Chúng tôi ngồi chuyện vãn với nhau đã được chừng hơn một tiếng, ba người Việt xa quê, có muốn tránh cũng không thể không đề cập đến chuyện quê hương. Người trẻ tuổi nhất trong bọn là một em mới được học bổng qua Úc du học, mặt mày khôi ngô, lời nói nhỏ nhẹ. Từ nãy đến giờ, em rất ít xen vào câu chuyện, trọng người lớn chăng? hay còn dè dặt với người lạ?. Nhân bàn về chuyện Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa, nước Việt từ đó thật sự bành trướng về phương Nam, mở dần lãnh thổ cho đến khi biển cả ngăn lại, nghe một lúc em lên tiếng hỏi
- Hai anh có thể cho em biết từ khi nào sự phân tranh Nam Bắc ở nước ta có mặt không?
Câu hỏi lớn làm cho hai chúng tôi bỡ ngỡ, không chuẩn bị kịp để trả lời ngay. Anh bạn tôi lên tiếng trước
- Em muốn hỏi về Nam Bắc nào, vì thật ra danh từ Nam Bắc thưở phân tranh Trịnh Nguyễn làm gì đã phổ thông. Ngày đó người dân quen gọi là đàng trong và đàng ngoài . Theo sử, khi con thứ của An Thành Hầu Nguyễn Kim vì tránh họa anh rể là Trịnh Kiểm, nên phải xin với chị là Ngọc Bảo, nói khéo với chồng để vào trấn ở miền đất mới, cùng một số bà con, họ hàng và 1 số binh sĩ vốn quê trước kia ở Thanh Nghệ, lũ lượt kéo vào Nam chiếm cứ và đóng ở Ải Tử, xã Triệu Phong (thuộc huyện Đăng Xương) Quảng Trị. Lúc đó bắt đầu nhân gian đã đồn đại câu ca dao tuyên truyền cho sự Nam tiến này:
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Ai vô xứ Nghệ thì vô
- Dạ em muốn nói là từ đâu mà lòng người Việt có sự cách ngăn Nam-Bắc, nếu mà danh từ Nam Bắc trước đó chưa có, thì có thể sự phân cách này, nói theo tiếng lúc đó là đàng trong và đàng ngoài, là vì mối thù của hai họ Trịnh-Nguyễn hay sao hở các anh?
Anh bạn tôi đăm chiêu một lúc rồi nói
- Có thể cho là như vậy cũng được, nhưng thật ra cái nguyên nhân của sự ly thân dân tộc nó sâu xa hơn. Vì khó mà tin rằng các anh hùng, hào kiệt thưở đó chỉ vì mối thù Trịnh-Nguyễn mà rời quê cha đất tổ vào Nam.
- Có thể lắm chứ anh - tôi chen vào câu chuyện - vì cứ xét trên tiểu sử các công thần đã đi cùng Hạ Khê Hầu Nguyễn Hoàng, thì hầu hết đều là quê ở Thanh Hóa cả, chắc họ bực tức vụ Trịnh Kiểm vô ơn giết con trai lớn của cựu chủ (vừa là bố vợ), nên chấp nhận vào Hoành Sơn dung thân. Này là Đào Duy Từ, người làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, nọ là Nguyễn hữu Tiến , viên Chưởng cơ đã có dạo cùng tướng Nguyễn Hữu Dật vượt sông Linh Giang (sông Gianh) Bắc tiến, chiếm 7 huyện phía Nam Lam Giang . Họ đều là người cùng quê với Nguyễn Hoàng cả đấy.
Em kia là dân Huế, nên coi bộ hiểu rạ chuyện, em nói
- Thế nhưng Đào Duy Từ lúc đầu cũng đã muốn làm quan cho triều Lê, nhưng vì là dòng dại xướng ca, nên không được đi thi, vì phẫn chí, ông ấy mới bỏ Đông Quan mà vào Bình Định, được chúa Sãi (Nguyễn phúc Nguyên con của Nguyễn Hoàng) dùng làm Nội Tán. Nếu mà ông ta không bị vụ này, đâu đã chắc ông ấy vào Nam mà lập lũy thày để mà lập an giúp cho chúa Nguyễn bình trị đàng trong
Nhớ anh em cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang
Phá Tam Giang giờ này đã cạn
Truông nhà Hồ, Nội Tán cấm nghiêm
Anh bạn tôi đồng ý
- Đúng như vậy, sự hục hặc của gia đình con cô, con cậu Trịnh-Nguyễn, chỉ là giọt nước cuối làm tràn ly nước đầy. Hơn nữa, thật ra chữ Nam-Bắc không phải từ vụ Nguyễn Hoàng vào Nam, mà từ khi Trịnh Kiểm mang tiếng phù Lê, trấn từ Thanh Hóa trở xuống, sử gọi là Nam Triều, từ Sơn Nam trở ra thuộc về con cháu của Mạc Đăng Dung, trước đây đã cướp ngôi nhà Lê, gọi là Bắc Triều. Tục truyền rằng, sau này Trịnh Kiểm muốn chiếm ngôi nhà Lê, nhưng còn lưỡng lự, sai người ra Hải Dương vấn kế Trạng Trình. Trước mặt sứ giả, ông Nguyễn Bỉnh Khiêm không nói gì cả, chỉ quay qua mà bảo đầy tớ rằng: “Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ”. Nói rồi, lại sai đầy tớ ra chùa nhắn với chú tiểu rằng phải quét dọn chùa và đốt hương, rồi cùng sứ giả, ông ra viếng chùa, không một tiếng nào khác để trả lời câu hỏi của Trịnh Kiểm, ông chỉ bảo với chú tiểu: ỘGiữ chùa thờ Phật thì được ăn oảnỘ. Sứ giả về tâu lại, Trịnh Kiểm hiểu ý, từ đó mới kiếm con cháu nhà Lê về thờ. Ngay cả khi nhà Mạc đã bị đánh tan bởi tướng Đinh văn Tả, mà nhà Trịnh vẫn phải để vua Lê làm vì, chỉ dám xưng là chúa Bắc Hà thôi .
Chúng tôi lại châm thêm một bình trà, rồi cùng nhau đi ngược dòng lịch sử hơn 300 năm về trước. Tôi tiếp chuyện
- Chuyện Trịnh Kiểm vấn kế Trạng Trình, tôi đã được nghe, nhưng nghĩ lại, thấy vẫn lấy làm lạ, vì cũng có tích là khi thấy anh mình là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm ám hại, Nguyễn Hoàng bối rối không biết xử trí ra sao, mới sai người ra Hải Dương vấn kế cụ Trạng Trình, lại chính cụ khuyên ông này rằng: ỘHoành sơn nhất đái vạn đại dung thân Ộ (một dẫy Hoành Sơn kia có thể yên thân được muôn đời). Như vậy, chẳng lẽ cụ lại bầy kế cho Nam-Bắc bày cuộc tương tàn, vì một mặt cụ khuyên chúa Trịnh phò nhà Lê, diệt họ Mạc, chiếm Bắc Triều, một mặt cụ chỉ đường cho Nguyễn Hoàng vào Quảng Trị, thật sự tạo thế lực muôn đời cho miền Nam à?
Anh bạn tôi châm một điếu thuốc, người bạn trẻ nhón lấy cái bánh chuối rồi nói
- Em thì em thấy chưa chắc hai truyền thuyết kia là thật, mà nếu là thật, và nếu chúng ta đồng ý cho rằng cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà tiên tri đại tài của dân tộc, thì cụ chỉ làm một công việc thuận ý trời thôi. Cụ biết nhà Lê đằng nào cũng bị suy, mà cụ lại thấy thế lực của Nguyễn Hoàng còn yếu, do đó, cụ mới dùng con bài Trịnh Kiểm đánh nhà Mạc, và xui đường cho Nguyễn Hoàng vào Nam chiêu binh mãi mã, hòng sẽ đánh lại Trịnh sau này .
Anh bạn tôi khoái chí
- Thế thì cụ Trạng đâu có xài tài tiên tri, vì nếu cụ đã nhìn thấy trước mọi chuyện thì cần gì phải khuyên với bảo . “Nhất ẩm nhất trác giai do tiền định”, thì cứ việc nằm chờ thì chuyện khắc đến. Hay nếu lý luận kiểu ba phải thì cụ vừa dùng tài quân sự, suy đoán thời thế vừa dùng Thái Ất thần kinh kiểm chứng. Cụ là một nho gia, nặng lòng trung quân nên mới xui nhà Trịnh phò nhà Lê, ngoài ra cụ biết Nguyễn Hoàng là con tướng Nguyễn Kim, cháu Nguyễn Hoằng Dụ, mấy đời ăn lộc nhà Lê, cụ muốn dành ông ta như một con bài tẩy để sau này về lật chúa Trịnh, mà cụ biết là kẻ tham quyền, phản bội. Hơn nữa, nhờ có lời khuyên này của cụ, mà nước Việt nam nay mới có lãnh thổ đến tận mũi Cà Mau.
Tôi bàn
- Tôi chẳng biết cụ có thể tiên kiến được mọi chuyện hay không? Nhưng cứ suy từ việc cụ có thể làm việc, phục vụ đất nước với cả hai triều nhà Mạc, và nhà Trịnh, lại đào tạo ra những công thần tài trí lỗi lạc cho nhà Lê trung hưng, như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh mà không bị hại đến thân, thì quả cụ quá là tài tình. Thương là thương cho những nho sĩ khác, chỉ vì lòng trung với vua mà bị hại đến cả ba họ như quan Hành Khiển Nguyễn Trãi. Cảnh oan trái của Nguyễn Trãi khiến tôi chán mấy triều đại phong kiến và tinh thần Khổng Mạnh xưa kia quá đi thôi . Mấy ông vua có quá nhiều quyền hành, gặp phải vua tốt thì không sao, gặp phải tên bạo chúa, hay nghe theo lời dèm pha, thì hắn ta muốn giết ai thì giết, muốn trảm ai thì trảm. Cái chế độ phong kiến đó coi người dân như nô lệ. mặc dầu lúc nào cũng hô hào “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Quý cái gì khi có những hình phạt như tru di tam tộc, cấm con nhà xướng ca đi thi ...
Anh bạn tôi cười
- Cậu bồng bột thật, cậu đang ở cuối thế kỷ 20 mà lại đem con mắt hiện đại mà suy xét cổ nhân, thì lầm to. Ngày xưa nếu cậu không dùng thuyết ông Khổng, ông Mạnh thì dùng thuyết nào trị quốc, an dân bây giờ? Mà hai ông đó nào có cho ra cái hình phạt tru di tam tộc hồi nào đâu nè? Nhưng mà ta đi lạc đề rồi, mình đang bàn việc Nam-Bắc phân tranh cơ mà?
Tôi vẫn chưa chịu, nói tiếp
- Chuyện tôi nói cũng liên quan đến việc Nam-Bắc đấy chứ hai bạn. Này nhé, cái chuyện Nam Bắc Triều trấn bởi hai nhà Lê-Mạc dó chỉ là chuyện cướp ngôi lẫn nhau mà làm khổ dân, không phải là sự khác biệt chính kiến lớn lao. Sự chia cách lòng người, gây thù cốt nhục chính là từ khi chúa Trịnh và chúa Nguyễn lấy sông Gianh làm biên giới, mà chia hai thiên hạ. Những kẻ anh hùng, hào kiệt chán ghét sự thủ cựu của sĩ phu ngoài Bắc, mới bỏ vào miền đất mới. Tôi chẳng hiểu sao, chứ coi như cái nhà Lê mà cụ Trạng Trình đòi trung hưng, nếu mà họ có bị họa Mạc Đăng Dung thì cũng chỉ là ác giả ác báo mà thôi. Ai đời khi Lê Lợi khởi nghĩa lúc chưa gặp Nguyễn Trãi thì đâu có thế lực gì, sau có Nguyễn Trãi lặn lội vào, dâng kế bình Ngô, lận đận 10 năm kháng Minh, bao lần thuyết giặc, biết bao công trạng. Thế mà sau này khi lên ngôi, Lê Lợi lại làm nhiều việc thất đức, như giết Trần Cao, dòng giại nhà Trần, và sát hại công thần như Phạm văn Xảo và Trần Nguyên Hãn, quên lời thề Lũng Nhai và biếm Nguyễn Trãi (ông chỉ được chức công thần bậc trung, và sau chỉ được xưng vào đợt ba), để đến vụ Thị Lộ, bị ông vua con Lê Lợi là ông Lê Thái Tông tham mê gái đẹp, tửu sắc đến độ chiếm cung phi của Nguyễn Trãi, chẳng may bị chết, thế là lũ quần thần thủ cựu dám bầy đặt chuyện để tru di tam tộc nhà Nguyễn Trãi. Cái oan ức ngàn đời này làm sĩ phu không còn phục vào chính quyền nữa . Có thể từ đó mà đã có sự phân chia, ngăn cách trong tư tưởng rồi chăng?
- Cậu chỉ đúng một phần, cái tàn ngược của chế độ phong kiến quả là có, nhưng từ đó suy ra rằng hào kiệt bỏ vào Nam vì bất phục xã hội Bắc Hà thì sai . Vì lúc đó, họ bỏ vua này để phò chúa khác, cùng là phong kiến cả thôi. Chỉ có sau này chúa Nguyễn và quần thần quả có gờm dân Bắc Hà thật, nhưng có lẽ chỉ vì sự khác biệt quyền lợi chính trị giữa dân đàng trong, và sĩ tử Bắc Hà mà thôi. Nhưng thật ra, chẳng có chứng cớ gì về việc triều Nguyễn gờm dân Bắc Hà đâu, chỉ là những điều đồn đại vô căn cứ.
- Thế tại sao nhà Nguyễn lại di đô vào Thuận Hóa, mà không đóng đô tại Thăng Long như xưa. Triều đình nằm giữa hai đầu, một phần đất Nam mới với đám cư dân mới, phần đông đi từ miền Trung hoặc từ Trung Hoa, một phần đất Bắc dân cũ còn lòng hoài cựu nặng. Có phải vì vậy mà sau này sĩ tử Bắc Hà không phục mà nổi loạn như trường hợp Cao bá Quát hay chăng? Và cũng vì thế, mà sau này Francis Garnier đánh thành Thăng Long quá dễ dàng vì dân ngoài Bắc không hẳn phục triều đình Huế ?
Từ sau sự bất đồng ý kiến này, hai chúng tôi đã bắt đầu dần đi đến những bất đồng khác, may quá cậu em đã can thiệp khéo léo
- Xin hai anh, bây giờ em đã hiểu cái vấn đề Nam-Bắc nó phức tạp như thế nào rồi, nhất là sau khi Pháp chiếm được Việt Nam, chia nước ta ra ba kỳ: Nam Kỳ bị chiếm trước, bị trở thành thuộc địa Pháp hoàn toàn, Bắc Kỳ thuộc quyền Bảo Hộ, và Trung Kỳ tự trị.
Điều này thì cả hai chúng tôi đều đồng ý và thêm chi tiết
- Đúng đó, nhất là sau hiệp định Genève, Pháp và Việt Minh đều hội ý để chia hai miền Nam-Bắc, lấy vỹ tuyến 17 làm ranh giới . Ngoài Bắc dưới quyền đảng Cộng Sản Việt Nam, miền Nam được sự ủng hộ của Mỹ, và có vị tổng thống đầu tiên là ông Ngô Đình Diệm. Đến ngày 30-04 thì miền Nam thất trận, và bây giờ Việt Nam đã thống nhất. Nhưng chưa chắc lòng người đã hoàn toàn thống nhất, nhưng đó lại là chuyện khác. Thôi trễ rồi, chúng mình phải chia tay đi ngủ, mai còn phải dậy sớm mỗi người mỗi việc .
0o0
Tuy là nói như vậy, nhưng tối đó, tôi còn một vài chuyện để lo, về đến nhà đã trễ ăn vội bát mì gói rồi lên giường. Trằn trọc vì nhớ mãi nỗi oan Nguyễn Trãi, tôi ra ngoài bếp, mở quyển Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim ra đọc, được một lúc thì thiếp đi.
Nửa tỉnh nửa mơ, tôi thấy một lão ông tóc bạc trắng đứng ngay cạnh bàn, ông ăn mặc bình thường nên tôi nghĩ là một người nào đó đi lạc vào nhà. Ông nói ngay, không kịp để tôi hỏi:
- Già thấy ông thắc mắc về quan Hành Khiển nên ghé đây nói cho ông biết vài chuyện. Thứ nhất là vụ Thị Lộ mà người đời cho là hồn rắn đã nhập vào để làm hại quan Hành Khiển là sai lầm. Thật ra, đó là vì đám quần thần đã bàn mưu thâm kế độc từ lâu . Vì khi vua Thái Tông lên ngôi năm 1434, vua còn quá trẻ, mọi việc đều do ở quan Phụ Chính là Lê Sát quyết định. Đại Tư Đồ Lê Sát là một người ít học, nhưng nhờ có công phò đức Thái Tổ mà được quyền hành nhất nước. Ông rất đa sát và chuyên quyền. Trước đây dưới triều Thái Tổ, gặp thời hạn hán khó khăn, nhà vua lại tin dị đoan ra lệnh xây cất chùa lớn. Quan Tư Đồ đã sai giết một người thợ sơn tên Cao Sư Đãng, vì Đãng bị triều đình bắt làm công việc cực nhọc lúc dựng chùa Bảo Thiên, Đãng nói lén rằng : Thiên tử thì không có đức, để đến hạn hán, đại thần thì ăn của đút, cứ dùng người vô công, có gì là thiện đâu mà làm chùa to thế ? Sau khi chém Đãng, trời mưa vài trận nhỏ, quan Tư Đồ bảo trong triều : “Nếu nghe lời can gián không giết tên Đãng thì làm gì có trận mưa ấy”. Xem thế đủ biết sự ngu dốt và háo sát của Lê Sát. Quan Hành Khiển Nguyễn Trãi đã không đồng ý với quan Tư Đồ Lê Sát từ lâu, cho đến tháng 5 năm Giáp Dần (1434), quan Tư Đồ Lê Sát lại có chuyện tức bực vì quan Hành Khiển Nguyễn Trãi đã chửi lũ hạ thần của Lê Sát là : “Bọn các ngươi là bầy tôi vét thuế, gặp đại hạn này đều do các người mà nên cả”. Từ đó sự thù ghét ngấm ngầm của bè phái quan Tư Đồ đối với quan Hành Khiển càng tăng thêm. Sau này lại thêm vụ đức Thái Tông cho giết quan Tư Đồ Lê Sát, thì phe của quan Tư Đồ lại càng thâm thù quan Hành Khiển thêm, vì họ cho rằng nhà vua đã nghe theo lời quan Hành Khiển mà làm. Mặc dù vào năm Kỷ Mùi, quan Hành Khiển đã về ở núi Côn Sơn, không còn màng chuyện triều chính, mà lũ bè phái của Lê Sát vẫn không tha, chúng thừa dịp đức Thái Tông cưỡng bắt cung phi Thị Lộ mà ám sát vua, rồi phao tin là quan Hành Khiển toa rập cùng cung phi Thị Lộ thí quân, thật là kế độc, một hòn đá chết hai con chim. Nhân chuyện đó đám vạ quan đã vì hận với vị quan văn Nguyễn Trãi từ lâu nên sai bắt quan Hành Khiển và thân nhân làm tội, mà không chịu điều tra kỹ lưỡng.
Tôi định hỏi vài câu thắc mắc, nhưng lạ thay mồm cứng đơ, không thể thốt nên lời. Nhưng cụ già kia như hiểu điều tôi muốn hỏi
- Tôi được biết chuyện vì tôi chính là dòng giõi của quan Tả Tướng Quốc Trần Nguyên Hãn, hơn nữa tôi có trong tay ba trang giấy mà cung phi Thị Lộ đã dùng máu đầu ngón tay để kể rõ sự tình. Nhân gian không hiểu chuyện nên đã loan truyền huyễn hoặc chuyện ba trang máu thấm từ con rắn trả thù. Nhờ bởi ba trang giấy này được lén mang về Chí Linh kịp, mà một số con cháu của quan Hành Khiển đã chạy thoát được vào tới Thanh Hóa. Và đây là điều ông nói gần đúng, vì chán ghét sự thủ cựu bất công của xã hội phong kiến nhà Lê, và sự xu thời của một số sĩ phu Bắc Hà, mà con cháu của quan Hành Khiển đã luôn mở đường Nam tiến. Từ Chiêu-Vũ-Hầu Nguyễn Hữu Dật đến quan Hắc Hổ Nguyễn Hữu Cảnh, vị tướng đầu tiên đã khai khẩn thành Sài Gòn, và đã được đặt tên cho cù lao tại Rạch Giá là cù lao ông Chưởng, rồi cho đến Nguyễn Hữu Quynh đều là từ dòng quan Hành Khiển Nguyễn Trãi mà ra. Như vậy dòng giõi quan Hành Khiển đã luôn luôn không ngừng đóng góp cho dân Việt. Từ quê hương ngoài Bắc, tại Hải Dương, cho đến Thuận Hóa, giữ vững miền Trung, qua đến công trình chinh phục và khai khẩn miền Nam. Oan thù, nghiệp chướng đã quá nhiều để xây dựng núi sông. Tôi nay xin vâng lời quan Hành Khiển, về đây đốt ba trang giấy máu này để giải nguyền những giòng máu đã đổ trên giải đất oan khiên ba miền Nam-Trung-Bắc. Từ đây cho một thống nhất muôn đời.
Cụ già nói xong lấy trong túi ra ba trang giấy cổ, trên đó tôi thoáng thấy những hàng chữ Nôm màu nâu đen xậm, rồi một ngọn lửa xanh kỳ bí đã bay đến thiêu hủy những trang giấy đó, thành khói biến tan đi cùng bóng cụ già.
Khi tôi giật mình thức giấc, ngoài hiên vọng đến vài tiếng mưa rơi nhẹ chớm đông. Và nước mắt tôi đã rơi khi nào nhạt nhoè trên trang giấy sử.
Phạm thế Định
------------------
(24/06/95)
Tượng đồng Nguyễn Trãi
Một số nhân vật lịch sử được coi là có liên hệ với Nguyễn Trãi:
Nguyễn Kim: (còn gọi là Nguyễn Hoằng Kim) Một công thần đời nhà Lê, có công giúp vua Lê Trang Tôn đánh nhà Mạc giành được nghiệp đế. Ông người làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn thuộc tỉnh Thanh Hóa . Con của An Hỏa Hầu Nguyễn Hoằng Dụ, người có công cầm quân bảo vệ kinh đô Thăng Long, khi Trần Cao khởi loạn.
Khi Mạc Đăng Dung soán ngôi vua Lê, bấy giờ Nguyễn Kim đang giữ chức Hữu Vệ Điện Tiền Chỉ Huy Sứ (Tướng Quân), tước phong An Thành Hầu. Ông liền bỏ kinh thành sang tị nạn ở vương quốc Ai Lao, được vua xứ này là Xạ Đẩu cho đến ở xứ Sầm Châu, thuộc Trấn Nam Phủ, tỉnh Thanh Hóa. Ông thu dụng nghĩa sĩ, hào kiệt, được mấy ngàn người. Năm Canh Dần, 1530, ông tiến quân về Thanh Hóa tiêu diệt quân của Mạc Đăng Doanh, giết được tướng nhà Mạc là Lê Bá Li. Năm 1532 (Nhâm Thìn) (có sách chép là 1533, Quý Tị) ông rước người con út của Lê Chiêu Tôn là Lê Duy Ninh lập lên ngôi vua Lê Trang Tôn. Ông được phong chức Thượng Phụ, Thái Sư, Hưng Quốc Công, coi mọi việc trong triều . Nguyễn Kim có người con rể là Trịnh Kiểm (chồng Nguyễn Thị Ngọc Bảo), 1 vị tướng đại tài. Khởi binh từ 1540, Nguyễn Kim thâu hoạch nhiều thắng lợi vẻ vang. Sau khi đánh chiếm Nghệ An, ông đáng chiếm Thanh Hóa vào năm 1542. Năm 1543, thâu phục Tây Đô, tướng nhà Mạc bấy giờ là Dương Chấp Nhất xin hàng. Năm 1545, ông tiến quân về Sơn Nam, nhưng đến làng Yên Mô bị hàng tướng là Dương Chấp Nhất bỏ thuốc độc giết chết. Nguyễn Kim là vị thân sinh của Nguyễn Hoàng, vị tổ đã khai sáng ra nhà Nguyễn.
Cổ thành Quảng Trị
Nguyễn Hoàng: (1534-1613) Người huyện Tống Sơn, Thanh Hóa, con thứ của An Thành Hầu Nguyễn Kim. Tục gọi là Chúa Tiên. Miếu Hiệu Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế. Tránh họa bởi anh rể là Trịnh Kiểm (Đô tướng gia phong Lượng Quốc Công), Nguyễn Hoàng xin chị là Ngọc Bảo xin vào trấn thủ Thuận Quảng . Năm Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng cùng một số bà con, họ hàng và 1 số binh sĩ vốn quê trước kia ở Thanh Nghệ, lũ lượt kéo vào Nam chiếm cứ và đóng ở xã Ải Tử, Triệu Phong (thuộc huyện Đăng Xương) Quảng Trị.
Giòng họ Nguyễn, từ thời Nguyễn Hoàng Dụ, đến hai con là Nguyễn Uông (Lang Xuyên Hầu), Nguyễn Hoàng (Hạ Khê Hầu) đã được người đời liệt kê vào hạng anh hùng thời đại. Đây là câu ca dao tuyên truyền cho nhà Lê khi họ Nguyễn mới nổi ở vùng Thanh Nghệ:
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Ai vô xứ Nghệ thì vô
Năm Canh Ngọ 1570, Trịnh Tùng (con Trịnh Kiểm) vào đánh úp, nhằm tiêu diệt lực lượng non trẻ của ông, nhưng với khả năng và chí thông minh của mình ông đã khiến quân Trịnh thảm bại . Kể từ đó hai họ Trịnh Nguyễn trở nên thâm thù tuy trên danh nghĩa vẫn tôn phù vua Lê và bà con cô cậu .
Trong dời ông việc quân sự, nội trị ngoại giao đều phát triển, nhân dân sống tương đối ấm no dù ở khu vực mới mở mang. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết : Đoan Quận Công vũ trị vài mươi năm, chính trị khoan hòa, thường ra ân huệ, dùng pháp luật công bằng, răn giới bản bộ, cầm trấp kẻ hung dữ, dân hai trấn cảm ân mến đức, chợ không hai giá, dân không ăn trộm, cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến buôn bán, quân lệnh nghiêm túc, mọi người đều cố gắng làm việc. Vì vậy không ai dám dòm ngó, dân trong xứ đều được an cư lạc nghiệp.
Năm Quý. Sửu (1613), ông bịnh nặng, trước khi mất di chúc lại các con cháu và các cận thần:
Đất Thuận, Quảng phía Bắc có núi Hoành Sơn, sông Linh Giang hiểm trở, phía Nam có núi Hải Vân, núi Thạch Bi vững bền, núi sinh vàng sắt, biển có cá muối. Thiệt là đất dụng võ của các bậc anh hùng. Nếu biết dậy dân luyện binh để chống với họ Trịnh thì đủ xây dựng được sự nghiệp muôn đời.
Ông ở ngôi được 56 năm, thọ 89 tuổi, an táng ở núi Thạch Hãn (thuộc Quảng Trị), thụy là Gia Vũ Vương, nhân dân gọi là chúa Tiên.
Nguyễn Hoàng là người đặt nền tảng cho việc mở mang bờ cõi vào phương Nam.
Nguyễn Hữu Dật:
Công thần đời Nguyễn sơ được phong tước Chiêu-Vũ-Hầu. Nguyên người làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn thuộc tỉnh Thanh Hóa . Vốn dòng dõi của Nhị Khê Hầu Nguyễn Trãi, đệ nhất công thần của nhà Lê. Thân sinh là cụ Nguyễn Triều Văn, tước Triều Văn Hầu nhà Lê. Ông tài kiêm văn võ, có tài hùng biện. con thứ ba của ông tên là Nguyễn Hữu Kính (có bảng chép là Nguyễn Hữu Cảnh).
Nguyễn Hữu Dật đã giúp chúa Nguyễn chống lại chúa Trịnh và bảo toàn được phần đất miền Nam. Dưới đây là những chiến công của Nguyễn Hữu Dật:
-Năm 1627 (Đinh Mão), Nguyễn Hữu Dật vâng lệnh của chúa Sải cùng với Nguyễn Phước Vệ chống lại quân của Trịnh Tráng, tại sông Linh Giang. Ông dùng kế phao truyền tin thất thiệt rằng Trịnh Gia và Trịnh Nhạc ở miền Bắc sắp dấy loạn, khiến Trịnh Tráng lo sợ phải rút quân về.
- Năm 1633 (Quí Dậu), Trịnh Tráng kéo đại quân vào đóng ở cửa Nhật Lệ, Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn văn Thắng đem quân ra chống lạị Trịnh Tráng thua phải rút về.
-Năm 1655 (Ất Hợi), Nguyễn Hữu Dật cùng Nguyễn Hữu Tiến vâng lệnh chúa Hiền, đem quân vượt Linh Giang để mở cuộc Bắc Tiến. Thắng trận ở Hà Trung, quân nhà Nguyễn tấn công vào cửa Kỳ La, đuổi được chiến thuyền của quân Trịnh ở cửa Châu Nhai, rồi lại tiến chiếm đồn Lạc Xuyên, thâu được 7 huyện ở phía Nam sông Lam Giang (sông Cả).
-Năm 1656 (Bính Thân), Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tiến lại đem quân đến núi Hồng Lĩnh, cả phá thủy quân của Trịnh, rồi tiến đánh hai làng Minh Lương và Bình Lang. Quân Trịnh chỉ huy bởi Đào Quang Nhiêu thua to, Trịnh Tráng liền sai người con út là Ninh quận công Trịnh Toàn vào làm thống lĩnh đất Nghệ An. Dật và Tiến liền đem cả hai đạo quân Thủy bộ tấn công quân Trịnh và chiếm được hơn 30 chiến thuyền. Đào Quang Nhiêu bị vây khổn ở Hương Bộc. Trịnh Toàn đem quân đi cứu viện bị chận đánh ở Tam Lộng, chạy về An Tràng. Đang lúc quân Nguyễn thắng thế, vì Nguyễn Hữu Tiến nghi kỵ Nguyễn Hữu Dật, quân Nguyền lại phải rút quân về, 7 quận vùng Lam Giang lại thuộc về đất Bắc của chúa Trịnh.
-Năm 1661 (Tân Sửu), Trịnh Tạc liền đem vua Lê và cử đại quân Nam tiến. Nguyễn Hữu Dật được cử làm Trấn Thủ Nam Bố Chính, đóng quân tại làng Phúc Lộc: chia quân ra đắp lũy giữ vững mọi nơị Quân Trịnh đánh mãi không thắng nổi, năm 1662 (Nhâm Dần) phải rút quân về. Quân của Nguyễn Hữu Dật truy kích đến tận sông Linh Giang.
-Năm 1672 (Nhâm Tý) Trịnh Tạc lại đem quân vào Nam. Nguyễn Hữu Dật hết sức chống đỡ, quân Trịnh không làm gì nổi phải rút về Bắc Bố Chính, rồi cuối cùng phải rút luôn về Bắc.
Ở nhà Thái Miếu bên phía tả gọi là Tả Tòng Tự, nơi thờ các vị khai quốc công thần, giòng giõi tôn thất. Bên phía hữu gọi là Hữu tòng tự, nơi thờ các vị công thần, xuất thân hàng dân giả, đã giúp mấy đời chúa Nguyễn chống Trịnh, chống Tây Sơn và dẹp Miên.
Ở Hữu Tòng Tự có tất cả là 7 bài vị, bài vị của Nguyễn Cư Trinh (1716-1767, con ông Nguyễn Đăng Đệ, tổ tiên vốn ở huyện Thiên Lộc, thuộc tỉnh Nghệ An, viễn tổ là Trịnh Cam, làm quan dưới triều Lê đến chức Binh Bộ thượng thư, sau khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, vào năm 1527, ông liền vào đất Thuận Hóa, mất ở đó. Con cháu di cư vào ở xã An Hòa, huyện Hương Trà thuộc tỉnh Thừa Thiên) định là cái thứ sáu, sắp đồng bàn với bài vị của ông NH Dật, người có công phò Định Vương vào Nam, lánh quân Tây Sơn, theo đường biển, và dọc đường lo ngăn cứu Định Vương nên đã bỏ mình ở giữa biển.
Như vậy những công thần từ thời Võ Vương (Nguyễn Phước Khoát mất năm 1765 thọ 52 tuổi) chỉ có một mình Nguyễn Cư Trinh, là được thờ ở nhà Thái Miếu.
Năm người kia là: 1/ Nguyễn Ư Kỷ (Nguyễn Ủ Dĩ), đại tướng đã nuôi nấng chúa Nguyễn Hoàng từ thưở nhỏ, và lập nhiều công trận cho nhà Nguyễn, được thờ 1 bài vị ở bàn trước hết. 2/ Đào Duy Từ, một khai quốc công thần thời chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên, và Nguyễn Hữu Tiến, rể của Dào Duy Từ, một bậc công thần dưới hai triều chúa Sãi và chúa Thượng (hai bài vị này thờ chung ở bàn thứ nhì). 3/ Nguyễn Hữu Dật và con là Nguyễn Hữu Cảnh, hai vị công thần dưới thời chúa Sãi, chúa Thượng, chúa Hiền, và Quốc chúa.
Nguyễn Hữu Kính (Nguyễn Hữu Cảnh)
Người làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn tỉnh Thanh Hóa. Con thứ ba của Nguyễn Hữu Dật. Nguyễn Hữu Kính làm quan dưới thời chúa Nguyễn phước Chu. Người đương thời đặt cho Nguyễn Hữu Kính danh hiệu là Hắc hổ.
-Năm 1693 (Quí Dậu) Hữu Kính đem quân chinh phạt nước Chiêm Thành bắt được vua của xứ này là Bà Tranh, chiếm đất Chiêm Thành cho chúa Nguyễn.
-Năm 1698 (Mậu Dần) được cử làm Kinh Lược xứ Chân Lạp, Nguyễn Hữu Kính gia công khai thác đất Đông Phố (SàiGòn hiện nay), lập phủ Gia Định. Một năm sau ông trở về Kinh.
-Năm 1699 (Kỷ Mão) vì vua xứ Chân Lạp là Nặc Ông Thu đem quân chống chúa Nguyễn. Nguyễn Hữu Kính được lệnh chúa Nguyễn cử sang Nam Vang hỏi tội. Nặc Ông Thu chống không nổi phải bỏ kinh thành chạy trốn. Sau lại xin triều cống như xưa. Nguyễn Hữu Kính lại rút quân về.
Nhờ lập được nhiều công trận, Nguyễn Hữu Kính được phong chức Chưởng Binh, Lễ Thành Hầu và đuợc tùng tự tại Thái Miếu, nơi thờ các Tiên Vương nhà Nguyễn.
Hầu hết công tác bình định, khai hoang lập ấp ở miền Nam vào gia đoạn này đều do công của ông. Đương thời đồng bào Nam Bộ có lập đền thờ ông ở nhiều nơi như Biên Hoà, Long Xuyên, Châu Đốc... Ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang có một cù lao được nhân dân địa phương địa phương đặt tên là Cù Lao Ông Chưởng và một con rạch lớn đặt tên là rạch Lòng Ông Chưởng. Ở thủ đô Nam Vang của Campuchia cũng có đền thờ ông.
Nguyễn Hữu Quynh: Cùng một dòng dõi với vị danh tướng đời Nguyễn sơ là Nguyễn Hữu Dật. Nguyễn Hữu Quýnh sinh năm 1880 (Canh Thân), ông theo phò chúa Nguyễn Phúc Ánh, và được cử về chiêu tập những nhà chí sỹ và những nghĩa quân trung kiên để chờ cơ hội khởi binh đánh Tây Sơn. Hữu Quynh được thăng chức Vệ Úy. Vốn là người theo đạo Thiên Chúa, khi có lệnh của vua Minh Mạng cấm ngặt việc theo đạo, ông cương quyết không theo lệnh của nhà vua, nên bị giết. Về sau ông được giáo hội Thiên Chúa phong Á Thánh.
Ở trước mộ ông, ở xứ Kim Sen tỉnh Quảng Bình, có câu đối được dịch nghĩa như sau:
Nghĩa khí nêu cao trên đất nước,
Oai linh phù hộ khắp non sông.
Nguyễn Hữu Tiến: Người làng Vân Trai, huyện Ngọc Sơn, tỉnh Thanh Hóa, sau rời vào ở huyện Bồng Sơn tỉnh Bình Định. Vào năm 1631, Nguyễn Hữu Tiến xin yết kiến quan Nội Tán Đại Thần là Đào Duy Từ, và được tiến cử lên chúa Sãi. Nhận thấy ông là người thông minh đĩnh ngộ có chí lớn, Đào Duy Từ liền gả con gái cho ông. Trước tiên Nguyễn Hữu Tiến được phong chức đội trưởng trông nom thuyền Nội thủy dịch cần, kế được thăng Cai Đội, rồi lần lượt được thăng đến chức Chưởng Cơ. Năm 1648 (Mậu Tý), Nguyễn Hữu Tiến chống lại quân Trịnh ở cửa Nhật Lệ, chém được hơn 10 tướng của Trịnh và bắt sống binh sĩ rất đông. Năm 1655 (Ất Hợi), cùng Nguyễn Hữu Dật vượt Linh Giang Bắc Tiến, nhưng vì bất đồng ý kiến với Nguyễn Hữu Dật nên Nguyễn Hữu Tiến lui binh về đóng tại cửa Nhật Lệ. Nguyễn Hữu Tiến mất năm 1666 (Bính Ngọ), được truy tặng chức Tiết Chế Thuận Quận Công. Thời Gia Long, được tùng tự tại Thái Miếu, thời Minh Mạng được truy tặng tước Anh Quốc Công và tùng tự tại Võ Miếu.
Phạm thế Định