Kính thưa
liệt quý vị,
Kính thưa
quý chiến hữu các cấp của QLVNCH,
Thưa quý
bạn trẻ,
Trong gian phòng ấm cúng hôm nay
chúng ta tưởng niệm các anh hùng vị quốc vong thân và đặc biệt là kỷ niệm lần
thứ 33 húy nhật của thiếu tướng Nguyễn khoa Nam . Vói vô vàn xúc động, tôi linh
cảm anh linh của các vị quá vãng phảng phất đâu đây mặc dầu chúng ta không
trông thấy, như thi hào Victor Hugo có nói “Les morts sont des invisibles mais non
des absents.”
Gần gủi hơn, bên kia đường Bellaire,
đài kỷ niệm chiến sĩ Việt Mỹ và quân cán chính bỏ mình vì tổ quốc đang chứng
giám.
Câu nói đầu tiên của tôi là tôi xin
cám ơn ban tổ chức đã cho tôi cơ hội hiếm có để nói đôi giòng về lịch sử cận
đại của Việt Nam và sự thật về việc tuẩn tiết của Thiếu tướng Nguyễn khoa Nam,
tư lệnh Quân đòan IV kiêm vùng IV chiến thuật.
Kính thưa quí vị,
Trước 1945 Việt Nam , Lào và Cam bốt trên bán đảo Đông dương(Indochina )
là thuộc địa của Pháp. Ngày 9 tháng 3 năm 1945 Nhật lật đổ Pháp và nước VN
tuyên bố độc lập trong ảnh hưởng của Nhật.
Giữa năm 1945 đệ nhị thế chiến kết thúc, với sự chiến thắng của phe đồng
minh(Anh, Mỹ, Pháp, Trung hoa quốc gia) và chiến bại của phe Đức-Ý-Nhật (gọi là
phe trục). Thừa lúc quân Nhật đầu hàng, lợi dụng khỏang trống chính trị lúc đó,
mặt trận Việt Minh từ mật khu nhảy ra
cướp chính quyền vào tháng 8 năm 1945 và thành lập nước VNDCCH (tiền thân của chính quyền cọng sản sau này).
Chưa đầy một năm sau, năm 1946, người Pháp trở lại Đông dương, không
phải để đặt lại nền đô hộ như xưa nhưng nhắm biến các thuộc địa cũ như Việt
Nam, Lào và Cam bốt thành những nước nằm trong Liên hiệp Pháp.
Những người không cọng sản và quan tâm đến vận mệnh đất nước thấy
hai hiểm họa trước mắt: một là chủ nghĩa cọng sản đang bành trướng, hai là
người Pháp trở lại với một hình thức có thể gọi là “thực dân mới”. Biết không
thể nào đối đầu được với hai lực lượng ấy, một số chính tri gia đành chọn tạm
thời hợp tác với Pháp, qua các thỏa hiệp. Vậy là chiến tranh bùng nổ:
-1-
một bên là
Quốc gia VN, do cựu hòang Bảo Đại làm quốc trưởng, và người Pháp, một bên là
mặt trân Việt Minh(cọng sản), mỗi phe cai quản vùng mà mình đã chiếm được, không
có ranh giới rõ ràng về lãnh thổ.
Sau gần 9 năm chiến tranh, và với trận Điện biên phủ mà phe thắng là
Việt Minh, một hội nghị được thành lập tại Genève(Thụy sĩ) năm 1954 với sự tham
dự của đại diện Pháp, Anh, Nga (hồi đó
gọi là Liên xô), Trung Cọng, và hai phe của VN: Quốc gia VN và nước VNDCCH(cong
sản).
Kết quả của hội đàm Genève là chấm dứt cuộc chiến và tạm thời chia
nước VN thành hai lãnh thổ theo hai chế độ chính trị khác nhau:
- Từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc là lãnh thổ của nước VNDCCH theo chủ
nghĩa cọng sản, sau lưng là khối cọng
sản khổng lồ: Liên xô (Nga), Trung Cọng và các nước Đông Âu.
- Từ vĩ tuyến 17 trở xuống
Nam là lãnh thổ của nước VNCH (tên mới, thay thế cho “Quốc gia VN”), có các
nước đồng minh, đứng đầu là Hoa kỳ, và các nước khác công nhận.
Người Pháp rút lui khỏi VN.
Súng đạn tạm vắng mặt trên quê hương chưa được 10 năm thì cọng sản
Bắc Việt nhất định xúc tiến cuộc chiến tranh mà họ gọi bằng nhiều tên: chiến
tranh giải phóng, chiến tranh để thống
nhất đất nước, chống Mỹ cứu nước, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”. Họ được Liên Xô(tức là nước Nga bây giờ) và
Trung Cọng tích cực yểm trợ. Để đương đầu với họ VNCH phải cần sự giúp đỡ của Thế giới Tự do, đặc biệt là
Hoa kỳ.
Thực chất có phải là chiến tranh giải phóng không, hay chiến tranh ý
thức hệ, hay chiến tranh xâm lược?
Tại hội nghị Genève năm 1954, ngày 12 tháng 5, ngọai trưởng Nguyễn
Quốc Định trong phái đòan Quốc gia VN có nói với phái đòan cọng sản, đại ý :
lịch sử sẽ nói với quí vị rằng quí vị có
thể dựa vào chủ nghĩa cọng sản để đưa đất nước thóat khỏi chế độ thuộc địa của
Pháp (pour ne plus être une colonie francaise) nhưng nước VN sẽ thành một vệ
tinh của nước Tàu(devenir un satellite de la Chine). Lời tuyên bố chính trị này
đang dần dần rõ nét.
Ngày 30-4-75 mà cọng sản huênh hoang gọi là “đại thắng mùa xuân”,
ngày mà họ cho là “mãi mãi về sau quê hương sạch bóng quân thù” thì ngòai khơi
VN cờ Trung Cọng bay phấp phới trên đảo Hòang sa. Tại hải đảo máu thịt này của tổ
quốc, năm 1974 – ngày mà, sau hiệp định Paris 1973, quân đội Mỹ không còn dính
vào chiến tranh quốc cọng – người chiến sĩ trung tá hải quân Ngụy văn Thà đã
anh dũng bảo vệ đất nước và chết theo tàu khi kiêu hùng đánh trả quân thù. Gần đây Trung Cọng đã lập bản đồ hành chính
tỉnh Tây sa, nuốt chửng Trường sa của VN.
Rõ ràng VN cọng sản không dám chống cự “đàn anh ‘xã hội chủ nghĩa’
của họ. Họ cùng nhau chiến đấu để bành trướng chủ nghĩa cọng sản. Đây là một
cuộc chiến tranh ý thức hệ.
Đồng thời cũng là một cuộc chiến tranh xâm lược, vì sau hiệp định
Genève VN đã trở thành hai nước, thì nước này đánh chiếm nước kia là xâm lược. Họ
rêu rao chính phủ miền Nam
là “ngụy”, là tay sai của Mỹ, nhưng chúng ta hãy nghe một nhân vật nổi tiếng
của chính họ là giáo sư và sử gia Trần quốc Vượng trả lời phỏng vấn của đài BBC
tháng 12 năm 2000 :
“ Không thể gọi họ là ‘ngụy’
được. VNCH có quốc tế công nhận. Và sự việc đau thương nhất sau năm 1975 là
không có hòa giải hòa hợp dân tộc. Bằng chứng là cả triệu người miền Nam bỏ nước ra
đi, hàng trăm ngàn người chết trên đường vượt biển, so với cái chết trên đường
Trường sơn (vào những năm chiến tranh) còn hãi hùng và hào hùng hơn nhiều. Vì
sao? Vì họ ra đi để tìm tự do!”
Và theo cuốn sách “Nhân Vật Lịch Sử”, cũng của phía cọng sản, xuất
bản lần thứ 4 ở Hà nội năm 1997, thì từ đời Hùng Vương đến Cọng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam(tức nước VN bây giờ) có lúc VN là hai nước, VNDCCH và VNCH(xin
nhắc lại, đây là tài liệu của chính phía cọng sản).
Như vậy chúng ta mất nước tháng 4 năm 1975 vì bị miền Bắc xâm lược
với súng đạn của khối cọng sản, trong khi đồng minh chúng ta bỏ bạn giữa đường,
núp bóng hiệp định Paris 1973 để an tòan rút lui. Không cứu được quốc gia, dân
tộc, một số tướng lãnh đã tự kết liễu
đời mình chứ không đầu hàng quân địch: tướng Hưng, tướng Hai, tướng Vỹ, tướng
Phú và tướng Nguyễn Khoa Nam .
Họ là những vị anh hùng của dân tộc.
***
Tướng Nam
bên nội thuộc gia tộc Nguyễn Khoa là một họ lớn từ đời Nguyễn Hòang, thời nào
cũng có người tài ba giúp nước. Bên ngọai là họ Nguyễn Phước, hệ vua Minh Mạng
nhà Nguyễn.
Từ khi ra trường võ bị ông là sĩ quan tài ba trong chiến tranh, chức
vụ cuối cùng là Tư lệnh vùng IV chiến thuật kiêm Quân đòan IV quân lực VNCH.
Ông là quân nhân gương mẫu tài đức song tòan hiếm thấy của quân đội.
Ông cũng là người có khiếu về hội họa, âm nhạc và là một Phật tử thuần thành,
hiểu sâu về triết lý của thiền. Ông đã thừa hưởng những di truyền tốt đẹp cả
bên nội lẩn bên ngọai. Một người bạn thân của ông đã mô tả ông là “con giòng cháu
giống” như người Pháp nói “Bon sang ne sait pas mentir”. Khách quan hơn, xin
mượn lời một phóng viên kiêm sử gia Pháp là Pierre Darcourt: “Điều đầu tiên làm
cho ta chú ý đến ông là ông có vẻ mặt của một chiến sĩ cao quí.”
Còn riêng tôi, duyên nào lại gặp tướng Nam vào những giờ bi đát của lịch
sử tại vùng IV chiến thuật?
Tôi vốn là người ở cùng làng với ông, làng Vỹ dạ, nơi mà tộc Nguyễn
Khoa nhiều người cư ngụ. Thuở nhỏ tôi học cùng trường với ông, trường trung học
Khải định Huế, sau ông 4 lớp. Bẳng đi thật lâu tôi mới gặp lại vào tháng
11-1974 khi ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh vùng IV còn tôi thì đang phục vụ tại quân
y viện Phan Thanh Giản Cần thơ. Tôi cảm thấy vui vì được làm
việc với
người đàn anh đồng hương. Tôi định đến dinh để kính chào thăm viếng nhưng chưa
kịp thực hành ý định thì Ban mê thuột
mất, quân đòan II rút lui hổn lọan, quân đòan I vào tay quân cọng sản, chiến
tranh lan đến quân đòan III.
Tướng Nam
rất phẩn uất. Ông đã trả lời nhà báo Pierre Darcourt: “Mọi người đang nổi giận,
quân đội đang bị hạ nhục.”
Ngày 28-4-75 ,
gặp tướng Pazzi trong đòan ngọai giao Pháp tại Cần thơ, tướng Nam nói “Ông
làm chứng giùm tôi, quân đòan IV chúng tôi không thua, chính trị Saigon đã trói tay chúng tôi, bắt buộc chúng tôi phải
thua.”
Tình hình quân sự biến đổi quá nhanh, tôi hoang mang nên tìm đến gặp
vị tư lệnh để xin ý kiến.
Câu đầu tiên ông hỏi tôi:
“ Quân y có việc gì đó?”
Tôi đáp:
“ Thưa thiếu tướng tình hình đất nước quá xấu. Lãnh thổ quân khu IV
có kế họach gì không?”
Ông bình tĩnh trả lời:
“Đừng lo, mình vừa đi họp với phái bộ tòa đại sứ Pháp. Sẽ có giải
pháp ngọai giao, miền Tây không mất đâu, còn đầy đủ quân số tác chiến.”
Tôi toan xin phép ra về, không hiểu sao ông lại hỏi:
“ Nếu phải đánh nhau, Quân y tính sao?”
Tôi đáp:
“Xin tuân lệnh.”
Ông nói tiếp:
“Quân y cần gì?”
Tôi thưa:
“Nếu phải chiến đấu thì QYV không có phương tiện phòng vệ để chống
lại pháo 122 ly của địch. Xin thiếu tướng cho công binh xây gấp hầm nổi kiên cố
để làm phòng mổ và một máy phát điện dự phòng.
Ông đáp:
“Tôi sẽ ra lệnh thi hành gấp. Có thể BTM sẽ chuyển về Cần thơ.
Hầm giải phẩu nổi xây gần xong thì mất nước.
***
Sáng ngày 30-4-75 trong lúc các đơn vị trưởng đang họp tại phòng hội
quân đòan IV để nghe Tư lệnh và Tư lệnh phó chỉ thị, thì tiếng loa phóng thanh
loan tin tướng Dương văn Minh ra lệnh buông súng. Tướng Nam buồn bã thi
hành lệnh thượng cấp. Đại tá Nguyễn đình Vinh, tham mưu trưởng quân đòan,
nghiêm trang nói to:
“Binh nghiệp chúng ta chấm dứt từ giờ phút này, xin quí vị dành cho
thiếu tướng tư lệnh và tư lệnh phó lời chào kính cuối cùng.”
“ Nghiêm!”
Rồi tan hàng, rã ngủ.
Phần tôi nhiệm vụ chưa hết, tôi trở về đơn vị tiếp tục phần hành
chuyên môn vì thương binh vẫn còn nhập viện, lòng buồn vô hạn, ngày mai không còn tự do, cọng sản sẽ dành cho người
thua trận những gì? Riêng với các tướng Hưng, tướng Nam và các tướng lãnh khác không di
tản, họ sẽ ra sao? Suy nghĩ mông lung mà lệ chảy lúc nào không hay.
Suốt ngày 30-4 vẫn chưa thấy bóng dáng Việt cọng. Cần thơ yên tĩnh
một cách khác thường. 5 giờ 30 chiều QYV được tin tướng Nam sắp đến
thăm thương bệnh binh. Ông vẫn mặc quân phục tác chiến, áo mũ vẫn còn thêu hai
sao đen. Ông hỏi tôi:
“Anh còn ở lại?”
Tôi thưa:
“ Dạ, giống như thiếu tướng vậy.”
Ông bảo:
“Anh đưa tôi đi thăm anh em thương binh.”
Hai chúng tôi lặng lẽ đi bên nhau, lòng chĩu nặng. Nhà thưong vắng
hoe, bệnh nhân còn lại khỏang 200 người nằm rải rác khắp các trại, những người
khác đã tự động về nhà. Ông thăm không sót một ai. Ngay cả trại dành cho thương
binh cọng sản ông cũng vào đứng trầm ngâm, không nói một lời. Ôi nhân hậu làm
sao!
Tiễn ông ra xe, tôi cầu mong chuyến về dinh bình an. Nếu gặp Việt
cọng sự thể sẽ ra thế nào?
Đêm 30-4 không yên tĩnh như suốt ngày vừa qua. Quân nhân chưa rả ngủ
mang súng bắn chỉ thiên lọan xạ, như để trút hết uất ức, căm thù. Người ta
tưởng tướng Nam
và tương Hưng đánh úp VC.
Về khuya tiếng súng im. Đêm rơi vào im
lặng, đêm dài tưởng chừng như bất tận. 11 giờ đêm tướng Hưng bắn vào tim quyên
sinh tại nhà, vợ con có mặt. Phu nhân tướng Hưng báo tin ngay cho tướng Nam.
Vào khỏang 6 giờ sáng QYV Phan Thanh Giản
được điện thọai từ dinh tư lệnh cho biết tướng Nam đã tuẩn tiết bằng súng lục
Browning.
Tôi tuy đã dự đóan trước việc này nhưng
vẫn bàng hòang, đau thương trước cái chết của người anh hùng. Bằng xe hồng thập
tự, chúng tôi rước xác thiếu tướng về để làm thủ tục khai tử, khâm liệm và an
táng. Lần này đón thi thể của vị tướng tư lệnh là đủ mặt nhân viên QYV còn ở
lại đơn vị. Ai nấy đều xúc động, rưng rưng nước mắt.
BS
trực Trần quốc Đông (hiện ở Úc) làm tờ y chứng. Thủ tục khám nghiệm đã xong,
QYV xúc tiến tang lễ. Kiểm điểm tư trang của người quá cố chỉ thấy:
-
Một
cuốn kinh Phật nhỏ đựng trong một túi nylon.
-
Một
khẩu súng lục hiệu Browning 7.2 mm
-
Một
thẻ bài kim khí cá nhân.
Ba món này đã được bỏ vào quan tài để làm
vật lưu dấu phòng thất lạc thi hài người chết.
Tòan thành phố Cần thơ xúc động vì hai
tướng Hưng, Nam tuẩn tiết. Hội Hồng thập tự , do BS Lê văn Thuấn làm chủ tịch,
biếu hai quan tài lọai tốt nhất, dành cho tướng Nam và BS Nguyễn văn Tựu, y sĩ
đại úy thuộc quân đòan IV, bị VC sát hại đêm 30-4-75.
Thi thể tướng Nam được trang trọng đặt nằm
trên một brancard có trải drap trắng. Ông nằm như ngủ, mặt hiền từ trắng xanh,
tay chân còn mềm. Bên cạnh là thi hài của
bác sĩ Tựu.
Bàn thờ hai vị được thiết lập đơn sơ nhưng
trang nghiêm, có nhang thơm nến cháy. Tòan thể nhân viên QYV buồn bã nghiêng
mình tiễn đưa vị anh hùng và người thầy thuốc chết vào giờ thứ 25 của cuộc
chiến.
Nắp áo quan đóng lại. Anh em sĩ quan,
trong đó có tôi, khiêng quan tài tướng Nam và BS Tựu ra xe dân sự tiến về phía nghĩa trang quân đội
Cần thơ. Hướng dẫn xe tang và chỉ huy lễ hạ huyệt do thiếu tá dược sĩ Mai bá Vỵ
sĩ quan CTCT thi hành. Một bán tiểu đội cơ hữu của QYV phụ trách việc đào huyệt.
Rất may tang lễ được hòan tất trước khi
người của chệ độ mới vào tiếp thu BV.
***
Trước khi bước vào phần kết thúc tôi xin
phép được sơ lựoc nêu lên vài điều đặc biệt trong cái chết của tướng Nam.
1) Thứ nhất, có một sự trùng hợp giữa
tướng Nam và cụ Phan Thanh Gian, kinh lược sứ miền Tây năm 1867, cách dây 141
năm: hai vị cùng trấn nhậm miền Tây, hai vị cùng tuẩn tiết khi không bảo tòan
được lãnh thổ, và lễ an táng tướng Nam được cử hành tại QYV mang tên Phan Thanh
Giản.
Tuy nhiên cũng có một điểm khác biệt. Vì không
giữ được 3 tỉnh miền tây, mặc dầu đã tự sát, cụ Phan đã bị vua Tự Đức và triều
đình giân dữ và cho đục tên cụ trên bia tiến sĩ. Còn tướng Nam thì muốn đánh
trả quân thù nhưng bị thượng cấp trói tay.
2) Tướng Nam tuy đã chết nhưng hùng khí
vẫn vẫn còn làm quân địch lo sợ. Họ nghĩ là ông chưa chết, tử thi an táng không
phải thật. Họ định quật mồ nhưng đã không làm được. Dân chúng Cần thơ tin là
ông vào lập chiến khu ở trong bưng để chờ ngày phục quốc. Những ai có mặt ở
quân khu IV vào những ngày đó đều biết.
3) Chiều 30-4 ông đi thăm các chiến sĩ
đang bị thương tật ở BV Phan Thanh Giản, sáng hôm sau , 1 tháng 5, ông là một
tử sĩ được chính BV này rước về làm tang
lễ. Chiều hôm trước ông đi thăm thương bệnh binh, sáng hôm sau anh linh ông đi
thăm các tử sĩ tại nghĩa trang quân đội Cần thơ, và ông an nghỉ nơi đây cùng
với họ gần 10 năm, cho đến ngày cải táng.
4) Các tướng lãnh tuẩn tiết như tướng Phú,
tướng Hai, tướng Vỹ, tướng Hưng có thân nhân lo về chung sự, trong niềm thương
đau và không khí gia đình ấm cúng. Riêng tướng Nam, suốt đời binh nghiệp ông
sống độc thân , lấy quân đội làm đại gia đình, lấy đơn vị làm tiểu gia đình. Và
cuối cùng ông được quân đội và chiến hữu lo tròn tang lễ với lễ nghi quân cách,
ấm cúng tình huynh đệ chi binh.
5) Việc cải táng phục tang cho ông mang
nhiều chi tiết ý nghĩa. Tháng hai năm 1984 người em dâu tướng Nam, vợ của cựu
thượng nghị sĩ Nguyễn khoa Phước, bào đệ của ông, là giáo sư Kim Đính về Cần
thơ bốc mộ và hỏa táng. Những gì QYV Phan Thanh Giản bỏ vào quan tài khi khâm
liệm vẫn còn đủ: thẻ bài cá nhân, cuốn kinh Phật, khẩu súng Browning đã rỉ sét.
Khi qua phà Cần thơ bà lặng lẽ khấn vái rồi thả xuống sông Hậu nửa số tro như
là thủy táng cho ông để kỷ niệm vùng đất ngày trước ông trấn nhậm, nửa kia đem
về thờ ở chùa Già lam, Saigon. Mỗi lần có dịp về Saigon tôi thường đến thắp
nhang tưởng niệm.
Tướng Nam đã đi vào lịch sử bằng nhiều bút
tích ghi lại biến cố 30-4-75, và không ít thi sĩ đã viết về Người, mà thơ là
tiếng nói trung thực nhất của tâm hồn. Để kết thúc tôi xin mượn
-7-
bài thơ sau đây của một quân y sĩ quân lực VNCH là
BS Hà thúc Như Hỷ viết truy điệu người anh hùng:
Một mai sau
Và mãi mãi muôn đời
Nguyễn khoa Nam
Tên Người còn nhắc nhỡ
Người anh hùng vị quốc vong thân
Sinh vi tướng, tử vi thần
Một cái chết muôn ngàn lần sống
Một cái chết cúi đầu giặc cọng
Để miền Nam kiêu hãnh ngẩng mặt lên
Cho Hương giang rửa sạch ưu phiền
Và Tiền giang triền miên thương tiếc.
Kính thưa liệt quí vị,
Đến đây là thật sự kết thúc. Trước khi dứt
lời tôi thành thật xin lỗi là đã lạm dụng thì giờ quí báu của quí vị quá nhiều,
vì những biến cố lịch sử chỉ xảy ra có một lần và nhân chứng cũng chỉ sống có
một đời, chắc quí vị niệm tình tha thứ. Nay người thuyết trình là một quân nhân
xấp xỉ 80 tuổi, trước khi đi xa có đôi lời tâm huyết bộc bạch sự thật được
chứng kiến để tỏ lòng tôn kính, tri ân quý vị anh hùng liệt sĩ.
Và một lần nữa kính cám ơn ban tổ chức đã
bỏ bao công sức và tâm huyết để thực hiện buổi lễ ý nghĩa hôm nay.
Hòang Như Tùng
Hòang Như Tùng
Witness of History
The
General and the Doctor
On May 4, 2008 ,
Dr Tùng Như Hòang, a surgeon and former Lieutenant Colonel and Commanding
Officer of Phan Thanh Giản Military Hospital in Cantho, delivered a speech in
Vietnamese in Houston , Texas , at a ceremony commemorating the 33rd
anniversary of the death of General Nguyễn Khoa Nam , Commander of MR IV[1].
Dr Vượng Đức Nguyễn, who served in the ARVN Airborne, forwarded us its
transcript. Subsequently, thanks to Dr Phát Tấn Trần, also of the ARVN
Airborne, we got in touch with Dr Tùng to get permission to translate his
speech. Luckily, Dr Tùng’s wife, Mrs Hà Thị Phong, who taught English in Huế
and Cantho, graciously offered to do the translation. [Editors]
Today, in this room, we are commemorating the heroes who sacrificed
their lives for our country, and the 33rd anniversary of the death
of General Nguyen Khoa Nam . With deep emotions, I am feeling that their
spirits are here with us now, as French poet Victor Hugo said “Les morts sont des invisibles, mais non des
absents” –The dead are not visible but they are not absent[2].
Nearer to us, across Bellaire
Boulevard , dedicated to the civilians and
officials who died during the war, the statues of two soldiers, a Vietnamese
and his American partner, are watching our actions today.
First of all, I would like to thank
the organizers to have given me the opportunity to talk about the contemporary
history of Vietnam
and the suicide of General Nguyen Khoa Nam , Commander of the 4th
Army Corps. For the younger generations, I will give a brief summary of the
period from 1945 to 1975.
Before 1945, Vietnam ,
Laos
and Cambodia ,
which made up Indochina , were French colonies.
On March 9, 1945 ,
the Japanese overthrew the French administration. Vietnam declared independence, although
still under Japanese control. In mid-1945 World War II ended with the victory
of the Allies (USA ,
Great Britain ,
France, the Soviet Union and the Republic of
China[3]),
and the defeat of Axis Forces (Germany ,
Italy
and Japan ).
Taking advantage of the surrender of Japan and the resulting political
vacuum in Vietnam ,
the Việt Minh Front, emerging from guerilla bases, seized power in August 1945.
It formed a new government and renamed the country the Democratic Republic of
Vietnam. That government was communist.
Less than a year later, in 1946, the
French returned to Indochina , setting foot
first in South Vietnam .
Their purpose was not to dominate the former colonies as before, but to make
them parts of the French Union (Union Française, Liên Hiệp Pháp). Vietnamese
non-communist patriots recognized the ominous double threat. While the
communist doctrine was spreading, the French would not abandon their intention
to control our country with a new form of colonialism. Unable to defeat either
of these forces, this group of politicians chose to cooperate with France , via a
number of political agreements, with the aim of gradually working out a plan
for the future independence of Vietnam .
This situation inevitably led to a war between the Viet Minh and the French and
South Vietnam ,
headed by former King Bảo Đại. Each side controlled the territories it had successfully
occupied, with no clear cut boundaries. After nearly nine years of conflict,
immediately following the famous Viet Minh victory at Dien
Bien Phu , a conference was called in Geneva , Switzerland ,
in 1954. Participants to the conference included France, Great Britain, the
Soviet Union, Communist China and the two sides of Vietnam: the non communist
State of Vietnam (Etat du Vietnam)
and the communist Democratic Republic of Vietnam. An agreement was reached,
providing for a cease-fire and the temporary division of Vietnam into
two parts. The zone north of the 17th parallel belonged to the
Democratic Republic of Vietnam, backed by communist countries such as the Soviet Union , China and East European nations. South
of the 17th parallel was the State of Vietnam (later changed to Republic of Vietnam ), recognized by the United States , France , Great Britain
and other countries. French troops withdrew from Vietnam .
The Vietnamese people enjoyed a short period of relative peace. However,
less than 3 years after the Geneva Accords, North Vietnam was determined to
wage a war which they called by different names: war to liberate the South, war
to unify the country, war to defeat the “imperialist Americans” and the
“puppet” South Vietnamese government. Since they were strongly supported by the
Soviet Union and China , South Vietnam needed help from the United States
and other countries of the Free World to fight against them. Was it actually a
war of liberation as claimed by the aggressors? Or was it a war of ideology? Or
just simply an invasion?
In a speech given at the Geneva Conference on May 12, 1954, Nguyễn
Quốc Định, the
State of Vietnam Minister of Foreign Affairs, said “History
will tell that communism may help you (Vietnamese communists) get independence
from France, but Vietnam will become a satellite of China.” “L’Histoire
vous dira que vous avez peut être introduit le communisme pour ne plus être une
colonie de la France, mais le Vietnam deviendra un satellite de la Chine.” This statement has been gradually proven to be true.
On April 30, 1975 ,
the day the communists proudly called the “Great Spring Victory,” the day whence,
they said, not a single enemy would be found within Vietnam , the Chinese flag was
flying on our islands of Hoàng Sa. By contrast in 1974, with the Americans no
longer involved in the Vietnam War, South Vietnamese Navy Colonel Ngụy Văn Thà fought
to protect the beloved islands from Chinese invaders. Unsuccessful in his
mission, he went down with his ship[4].
Recently, the People's Republic of China had an administrative map of
Tam Sa[5]
drawn to include our Hoang Sa islands. It is obvious that the Vietnamese
communists did not dare to fight against their “big brother” China . The two regimes
fought side by side to spread communism over the world: it was a war of ideology.
It was an invasion as
well. After the Geneva Accords, Vietnam
was divided into two territories. If one side conquered the other by force, it
meant an invasion. North
Vietnam used to say that South Vietnam
was but a “puppet” government (ngụy quyền)
of the US ,
and that it must fight them both to “free” the people of the South and unify
the country. But let’s listen to Trần Quốc Vượng, a famous professor and
historian of theirs:
“We must not
call them “puppet”. The Republic
of Vietnam (South Vietnam ) has
been recognized by many countries of the world. And the most tragic thing was
that there was no reconciliation after 1975. This was proved by hundreds of
thousands of South Vietnamese people fleeing the country; many of them lay dead
in the sea. Compared with people dying on the Trường Sơn trail during wartime,
the death of these people was both horrific and sublime. Why? Because they fled
in search of Freedom.”
Also, according to the book “Nhân
Vật Lịch Sử” (Prominent Figures in History), written and published by the
communists in 1997, there was a time when Vietnam was divided into two
countries: the Democratic Republic of Vietnam and the Republic of Vietnam .
The communists themselves recognized that there were two Vietnams . We
can clearly see that on April
30, 1975 , we lost the war to the communist North because their
allies provided them with plenty of arms and ammunitions while our ally
abandoned us mid-way in our mutual mission, safely withdrawing from the
battlegrounds by means of the 1973 Paris Accords. Unable to defend their country
from invasion, a number of high-ranking officers chose to end their lives
instead of surrendering to the enemy. Among them were Generals Hung, Hai, Vy,
Phu and N. K. Nam: heroes in our history.
Let me say a few words about General Nguyễn Khoa Nam . He was born
to the respected Nguyễn Khoa family, and his mother was a descendant of King
Minh Mạng. A talented army officer and a Buddhist, he was gifted in music and
painting as well. He inherited these qualities from both his parents’ sides.
His friends and some journalists spoke highly of him. As for me, what brought
me closer to General Nam during those tragic days preceding the fall of South Vietnam ? I
came from the same place as General Nam, the Vỹ-dạ village, where many of his
blood relatives live. Four years his junior, I attended the same Khải Định secondary school. We did not see each other for decades. Then, in
November, 1974, he was appointed Commander of the Fourth Military Region and
the 4th Army Corps, headquartered in Cantho. I was then the medical
doctor in charge of Phan
Thanh Giản
Military Hospital .
I was happy at the prospect of working under someone I already knew. I thought
of paying him a visit but many events occurred before I had the chance to see
him, with the fall of Banmethuot and of MR I to the enemy and the chaotic
withdrawal of the MR II divisions. The war then spread to MR III. General Nam
was angry with the “tactical withdrawal.” Answering French journalist Pierre
Darcourt, he said: “We are all outraged. The Army is being humiliated.” On April 28, 1975 , when he met
General Pazzi in the French diplomatic corps in Cantho, he said: “Please be my
witness. Our IVth Army Corps does not lose the war. The Saigon
government ties our hands and forces us to lose.
The military situation was
changing so fast. Confused, I came to General Nam
for advice. “What does the Medical Corps need?” he asked. “My General,” I said, “The situation is
getting worse and worse. Do you have any plans for the IVth Army Corps?”
“Don’t worry,”
he calmly replied, “I just met with a delegation from the French Embassy. There
will be a diplomatic solution. MR IV will not be invaded. Our army is still fit
for battles.” I was about to leave when he added “If we have to fight, what’s
the position of the Medical Corps?” “At
your service, my General,” I answered.
“What does the
Medical Corps need?” he asked.
“Our hospital
cannot withstand enemy’s 122 mm rockets. We need strong protection for our
operating rooms, and a generator, just in case.”
“I will have it
built immediately,” he replied.
The shelter was
almost completed when South
Vietnam fell to the communists.
In the morning of April 30, 1975 , the last
conference was held in the meeting room of General Nam’s headquarters. The
chiefs of all offices in Cantho, military and civilian alike, waited for his
orders. Vice Commander General Lê Văn Hưng was also present. During the
meeting, General Dương Văn Minh’s voice from Saigon
was heard over loudspeakers, ordering everybody to put down their arms. General
Nam had no choice but to obey his superior –the last President of South
Vietnam. Colonel Nguyễn Đình Vinh said: “Our military career ends this very
moment. Let’s respectfully salute our Commander and Vice commander.” Solemnly we saluted them. The meeting was
over. Everything was over. A strong army was dissolved. With a heavy heart, I
returned to my hospital, one of the few places still functioning. The sick and
the wounded kept arriving. I thought to myself “Tomorrow we will no longer have
freedom. What kind of treatment will the conquerors have for the defeated? As
for those generals who had not left the country, what will their fates be?”
Along with my thoughts came my dripping tears.
The communists still did not make
their appearance for the whole day of April 30. The city of Cantho was unusually quiet. At about 5:30 pm General Nam’s staff
announced his visit to Phan
Thanh Gian
Hospital . He wore his
usual uniform, with two black stars.
“You’re still
here?” he asked me.
“Yes, my General.
Just like you.”
“Let me visit
the patients and wounded,” he said. We sadly walked side by side. The 600-bed hospital
which usually cared for a thousand patients now looked deserted with only 200 patients
scattered in all the wards. Many had left. General Nam visited everyone. He
even pensively stopped at the ward treating wounded communist soldiers. When he
left, I silently prayed for his safety. What would happen to him if he met
communist troops on the way back to his residence?
That night was not as quiet as during the day. Infuriated soldiers
and officers who still had weapons in their possession fired continuously into
the air as if to get all the anger and hatred off their chests. Some people
thought Generals Nam and Hưng were fighting back the Viet Cong. The gunshots finally
stopped. The quiet night seemed endless. At about 11:00 pm , General Hưng shot himself in his room. His
family was present inside the house. His widow phoned the news to General Nam.
Early the next morning, from General Nam’s official residence came a
telephone
call to the military hospital: General Nam had
committed suicide with a Browning handgun. I was saddened by the bad news,
though I had more or less foreseen it. We
arranged to bring his remains
by ambulance to the hospital for the last formalities and the funeral. All the
hospital employees still present received the departed General with deep
emotions. Dr Trần Quốc Đông, on duty that day (he is now in Australia ), examined the body and issued
a death certificate. We then proceeded with the funeral. Among General Nam’s personal
possessions, we found a small Buddhist sutra book wrapped in a plastic bag, a
7.2 mm Browning handgun, and a metallic identity tag. We put them in the coffin
to help identify his body when needed.
The deaths of Generals Nam and Hưng deeply moved everybody in
Cantho, not just their subordinates and Phan Thanh Gian Hospital
staff. Dr Lê văn Thuấn,
president of the Cantho Red Cross, gave us two high quality
coffins for General Nam and Captain Nguyễn Văn Tựu, MD, of the IVth Army Medical Corps,
who was shot by the Viet Cong the night of April 30. General Nam’s body was
placed on a stretcher covered with a white sheet. He looked as if he was calmly
sleeping, his sweet face quite pale, his limbs not yet stiff. By his side was
Dr Tựu’s body. A simple but solemn altar was set up with candles and
fragrant incense. All the hospital staff formally saluted the heroes who had passed
away at the 25th hour of the war. Then the coffins were closed. The
officers, myself included, carried them to a civilian vehicle heading for the Cantho Military
Cemetery . Major Mai Bá Vỵ,
a pharmacist, supervised the funeral rituals. A half-squad from the hospital
was assigned to dig the graves. We were fortunate to finish the burial before
people from the new regime took over the hospital.
I would like now to point out some peculiarities about General Nam’s
death.
1) First, there are
similarities between General Nam and Patriot Phan Thanh Giản who, 108 years
before, in 1867, was viceroy of what became the 4th Military Region
in 1975. Both of them served in the same area; both of them committed suicide
when they could no longer defend their territory; General Nam’s funeral was
held at the hospital named Phan Thanh Gian. There was a difference, though. King
Tự Đức and the Court angrily blamed Phan Thanh Gian and ordered his name
removed from the stele honoring laureate scholars. By contrast, General Nam
wanted to fight the enemy but his superior –the president and commander in
chief– tied his hands.
2) In death,
General Nam continued to frighten his enemies. They believed that he had not
died, that the corpse was someone else’s. They even considered digging up the
grave to find the truth. As for the people of Cantho, they thought –and hoped–
that the general had gone into hiding, waiting for the right moment to liberate
them from the communists.
3) In the
afternoon of April 30, 1975 ,
as the commander-in-chief, General Nam visited the sick and wounded soldiers at
Phan Thanh Gian hospital; the following morning, as a war dead, he was brought
to the same hospital for his funeral. The day before, alive, he visited the
patients. The next day, deceased, he visited the dead at the Military Cemetery .
He stayed there with them for nearly ten years before being exhumed.
4) Generals Phu,
Hai, Vy, and Hung, who also committed suicide on April 30, 1975 or shortly after, spent their last
moments with their families. Their funerals were taken care of by loved ones
in a warm atmosphere. As for General Nguyen Khoa Nam , a bachelor who considered the
army his extended family, the Fourth Army Corps his own family, he was buried with respect and love by brothers-in-arms
who had fought side by side with him.
5) There were
interesting details around General Nam’s exhumation. In February 1984, Mrs Kim Đính, his
sister-in-law and former Senator Nguyễn Khoa Phước’s wife, went to Cantho to have
his remains cremated and his ashes brought to Saigon .
The personal belongings that the hospital staff had put in his coffin were
still there. Only, the Browning handgun had become rusty. On her way to Saigon , at one of the ferries, Mrs. Kim Đính silently
prayed then spread part of the ashes into the Hậu Giang River , a symbolic act that ensured that the
general would rest in the land where he last worked. The remaining ashes were
brought to Già Lam Pagoda in Saigon .
General Nam has become one of the heroes in our history, praised by
writers and poets. As poetry is the most sincere form to express one’s
feelings, I would like to quote the following poem by a military medical
doctor, Dr Hà Thúc Như Hỷ, as a eulogy for Hero Nguyen Khoa Nam .
Một mai sau,
Và mãi mãi muôn đời,
Nguyễn Khoa Nam ,
Tên Người còn nhắc nhở.
Người anh hùng vị quốc vong thân,
Sinh vi Tướng, tử vi Thần.
Một cái chết hơn ngàn lần sự sống,
Một cái chết làm cúi đầu giặc Cộng,
Để miền Nam kiêu hãnh ngẩng mặt lên.
Cho Hương Giang rửa sạch ưu phiền,
Và Tiền Giang triền miên thương tiếc.
Some
day,
And forever
after,
General
Nguyen Khoa Nam ,
Your
name will eternally be treasured.
Warrior
in life, deified in death,
For
the sake of the country, you gave your life.
Your
death is worth thousands of lives,
A
death that makes the enemy stoop,
And
the South people proud.
The Perfume River cleanses all sorrows,
And
your memories the Tien
Giang River
forever cherishes.
My apologies for using too much of your time. Please, understand that
a historical
event occurred but once, and the person who is
telling it has only one life to live. I am a former military officer
approaching my eighties now, and would like to tell the truth about what I know
of that period of time in 1975, and to express my respect and gratitude to the heroes
in our national history.
Tùng
Như Hòang, MD (Bác sĩ Hoàng Như Tùng)
English Version by
Phong
Thị Hà (Mrs Hòang Như Tùng)
[1] Military Region IV is the southernmost part of South Vietnam ,
where the Mekong Delta is.
[2] http://www.vos-citations.com/parcourir-citations,Victor-Hugo.html
retrieved June 2, 2008
[4] Nhật Tảo HQ-10
[5] Sansha Shi orTam Sa Thị (three sands
county/city), set up by the State Council of the PRC in November 2007, administratively
covers the Nanhai Islands of Zhongsha or Trung Sa (Macclesfield Bank), Xisha or
Tây Sa (Paracel, Hoàng Sa Islands) and Nansha or Nam Sa (Spratly, Trường Sa
Islands).