Một bạn đọc viết thư phê bình dùng hai chữ “nội chiến” là không thích hợp, trong bài Bình Luận viết nhân ngày 30 Tháng Tư trên báo này, nhắc lại cảnh kết thúc hai cuộc nội chiến ở Mỹ (thế kỷ 19) và tại Việt Nam (thế kỷ 20). Ðây là một đề tài đáng thảo luận cho rõ.
Ðảng Cộng sản Việt Nam xưa nay vẫn từ chối, không dùng hai chữ “nội chiến.” Họ cấm không ai được dùng hai chữ đó khi nói tới cuộc chiến tranh Nam Bắc từ năm 1959 đến 1975. Chúng tôi đã dùng chữ “nội chiến.” Lý do không phải vì muốn khác đảng Cộng sản, mà vì khi nhìn một cách khách quan, cuộc chiến 16 năm đó, một cuộc chiến giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam, đúng là nội chiến. Chẳng khác gì những cuộc chiến giữa quân Cộng sản của Mao Trạch Ðông và quân Quốc Dân Ðảng của Tưởng Giới Thạch, quân Nam Hàn và quân Bắc Hàn, cũng đều là nội chiến. Không phải chiến tranh chống người nước ngoài, mà giữa người Việt Nam với nhau.
Ðảng Cộng sản muốn tuyên truyền với dân miền Bắc, bắt mọi người phải gọi tên cuộc chiến là “chiến tranh chống Mỹ cứu nước;” cho nên họ không cho phép dùng hai chữ “nội chiến.” Gọi đó là nội chiến tức là cũng tố cáo đảng Cộng sản gây ra cuộc tương tàn. Một người từng “phạm húy” là Trịnh Công Sơn. Bài hát Gia Tài Của Mẹ mở đầu bằng mấy câu:
“Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu - Một trăm năm đô hộ giặc Tây - Hai mươi năm nội chiến từng ngày...”
Khi ca khúc trên được phổ biến rộng rãi, dân miền Nam hát đến hai chữ “nội chiến” thì thấy đó là chữ bình thường. Ðây là một cuộc nội chiến, quân đội Việt Nam Cộng Hòa bị đánh nên chống cự. Nhưng đảng Cộng sản không chấp nhận lối nhìn đó. Các cán bộ nằm vùng đã kết tội Trịnh Công Sơn khi dùng hai chữ “nội chiến.” Trong đoạn cuối bài hát, Trịnh Công Sơn kể tâm sự của bà mẹ, kết thúc bằng lời kêu gọi:
“Mẹ mong con mau bước về nhà, Mẹ mong con lũ con đường xa - Ôi lũ con cùng cha, quên hận thù!”
Gọi tên những người đang giết nhau trên chiến trường là “lũ con cùng cha” và mong họ hãy “quên hận thù,” tức là bà mẹ của nhạc sĩ xác định cuộc chiến tranh này là huynh đệ tương tàn. Trước Trịnh Công Sơn, trong trường ca Mẹ Việt Nam, Phạm Duy cũng kết thúc bài “Những dòng sông chia rẽ” với lời nhắn nhủ:
“Lũ con lạc lối đường xa - Có con nào nhớ mẹ ta thì về.”
Những lời mẹ nói với “lũ con lạc lối đường xa” và kêu gọi chúng “mau bước về nhà” bị các cán bộ cộng sản coi là phụ họa theo chiến dịch “chiêu hồi” của chính phủ miền Nam. Ðề tài Mẹ rất được dân miền Nam tha thiết. Gia Tài Của Mẹ là tựa đề một cuốn truyện của Dương Nghiễm Mậu xuất bản cùng thời gian với trường ca Mẹ Việt Nam của Phạm Duy, mấy năm trước khi Trịnh Công Sơn viết bài ca cùng tựa đề. Trong thời gian đó, Bộ Chiêu Hồi vẫn dùng hình ảnh “Tung cánh chim tìm về tổ ấm” khi giới thiệu những cán bộ và sĩ quan miền Bắc thay đổi ý kiến, buông súng, trở về cuộc sống bình thường, như ca sĩ Ðoàn Chính, Thượng tá Tám Hà, vân vân.
Hai chữ “nội chiến” khiến Trịnh Công Sơn bị lên án và bị đe dọa. Một cán bộ cộng sản nằm vùng ở Sài Gòn trong thời gian đó đã kết tội Trịnh Công Sơn khi gọi cuộc “chiến tranh chống Mỹ cứu nước” của họ là nội chiến. Anh thề trước mặt mọi người, rằng “khi các mạng thành công” người đầu tiên anh sẽ đem xử tội là Trịnh Công Sơn. Chỉ vì hai chữ nội chiến. Ðó là chưa kể nhạc sĩ còn nhắc nhở đến “ngàn năm nô lệ giặc Tàu” trong khi cộng sản ở ngoài Bắc và trong Nam mỗi lần nhắc đến Trung Quốc là phải thêm hai chữ “Vĩ đại!” Và họ dạy dân hát bài Ðông Phương Hồng ca ngợi Mao Trạch Ðông! Bây giờ họ vẫn còn ôm lấy 16 chữ vàng và bốn tốt, có ai dám nhắc nhở cảnh “nô lệ giặc Tàu” đâu? Chúng tôi không muốn nêu tên người cán bộ nội thành đã tuyên án Trịnh Công Sơn, không muốn con cháu anh bị ảnh hưởng, vì gần nửa thế kỷ đã trôi qua, cả hai đã qua đời cả rồi. Hơn nữa, trước khi từ giã cõi đời chính anh cán bộ này đã tỉnh ra, công khai tuyên bố rút ra khỏi đảng Cộng sản, hăng hái tham gia cuộc tranh đấu đòi dân chủ tự do. (Ai muốn biết chuyện này rõ hơn có thể hỏi họa sĩ Hồ Thành Ðức, người đã nghe lời đe dọa đó, và hiện còn sống rất lâu).
Tại sao Bộ Chính Trị Cộng sản kiêng kị hai chữ “nội chiến” như vậy? Vì họ cần đưa hàng triệu thanh niên miền Bắc vào chiến trường trong Nam. Họ biết không thể thúc đẩy người ta đi vào cõi chết chỉ vì muốn the Liên Xô, Trung Quốc xây dựng chủ nghĩa xã hội toàn thế giới. Cho nên phải khích động tinh thần yêu nước người miền Bắc, kêu gọi thanh niên đi đánh miền Nam để chống đế quốc Mỹ. Mặc dù những năm từ 1959 đến 63, dân miền Nam chưa thấy bóng lính Mỹ, trong khi 40,000 quân Mỹ đang đóng ở Nam Hàn, 50,000 nay vẫn đóng ở Nhật Bản. Suốt những năm chiến tranh, Cộng sản tuyên truyền đồng bào ngoài Bắc rằng miền dân Nam đang bị Mỹ đô hộ, bị Mỹ bóc lột, dân đói khổ. Sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975, nhiều người từ Bắc vào thăm họ hàng trong Nam đã dành dụm, chắt bóp, mang theo từng túi gạo, từng chai nước mắm, cho đến mấy đôi đũa và cái bát ăn cơm, tưởng rằng mình sẽ giúp đỡ anh chị em đói khổ vì bị Mỹ bóc lột. Từ đó tới này, dân Nam Hàn, dân Nhật Bản đã bị Mỹ bóc lột ra sao?
Saku năm 1975 thì chính đồng bào miền Bắc cũng nhìn ra sự thật. Nhà văn Dương Thu Hương đã ngồi xuống lề đường Sài Gòn mà khóc. Bây giờ, bộ máy tuyên truyền của đảng Cộng sản không còn nhắc đến khẩu hiệu “chống Mỹ cứu nước” nữa. Vì ai cũng thấy trong một thế giới chia rẽ, muốn chọn lựa đồng minh thì chọn nước Mỹ vẫn an toàn và khôn ngoan hơn là chọn Liên Xô và Trung Quốc.
Trong cuộc nội chiến Việt Nam, bên nào cũng có đồng minh. Vì cuộc chiến tranh đó chỉ là một bộ phận trong cuộc tranh chấp giữa hai khối tư bản và cộng sản. Nước Việt Nam không may bị lôi cuốn vào cuộc chiến quốc tế đó, vì chính trong nước mình đã chia rẽ. Từ năm 1930 trong phong trào chống Pháp đã phát sinh hai khuynh hướng: quốc gia và quốc tế. Ðảng Cộng sản chọn theo đường quốc tế, theo ông Stalin, ông Mao Trạch Ðông làm cách mạng giải phóng cả nhân loại. Các đảng phái như Quốc Dân Ðảng, Ðại Việt, và các nhà ái quốc từ Phan Bội Châu đến Nguyễn Thái Học; rồi sau này tới giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, các nhà văn Khái Hưng, Nhượng Tống, Nguyễn Tường Tam, Phan Văn Hùm, đều đặt dân tộc, quốc gia lên trên các chủ nghĩa. Ðảng Cộng sản không thể chấp nhận các đảng phái quốc gia tồn tại, vì trái với đường lối chuyên chính vô sản của Stalin và Mao Trạch Ðông. Cho nên một cuộc “nội chiến” đã bắt đầu gây mầm từ 1930, đã đổ máu từ trước năm 1945.
Sau khi Ðại Chiến Thứ Hai chấm dứt, hai khối tư bản và cộng sản cạnh tranh khắp thế giới, một bên là Nag Xô, bên kia là Mỹ và các nước Tây Âu. Trong nhiều dân tộc cũng chia rẽ thành hai khuynh hướng quốc tế và quốc gia, ngay trong lúc còn đang tranh đấu đuổi thực dân, giành độc lập. Indonesia, Philippines, Ấn Ðộ, Miến Ðiện, Mã Lai, vân vân, đều có đảng Cộng sản. Các đảng cộng sản khác yếu thế, chỉ có đảng ở nước ta đủ mạnh và đủ nhẫn tâm, tàn bạo, sẵn sàng tiêu trừ các người không cùng ý kiến. Cuộc tấn công miền Nam nhắm biến toàn thể đất nước thành một phần của thế giới cộng sản. Các nước Nga, Tàu thì chỉ muốn chống Mỹ, bất cứ cách nào, cho tới người Việt Nam cuối cùng.
Cũng trong thời gian đó, nhiều nước cũng chia đôi. Nhưng Trung Cộng không tấn công Ðài Loan, Ðông Ðức không đánh Tây Ðức. Chỉ có chiến tranh ở Cao Ly và Việt Nam mà thôi. Kim Nhật Thành đánh Nam Hàn vì được Stalin khuyến khích, sau khi đã phong tỏa vùng Tây Berlin nhưng thất bại. Gây chiến ở Hàn Quốc sẽ buộc Mỹ phải lo hai mặt trận, ở Châu Âu sẽ yếu đi. Cộng sản Việt Nam gây ra cuộc chiến, biết chắc sẽ được cả Nga và Trung Cộng ủng hộ; vì lúc đó cả hai nước đều đang muốn Mỹ gặp khó khăn khắp nơi, để giúp các đảng cộng sản ở thế giới thứ ba phát triển mạnh hơn. Trong thập niên 1960, hàng trăm “mặt trận giải phóng” được Nga và Trung Cộng giúp nổi lên khắp thế giới.
Cuộc chiến giữa hai khối tư bản, cộng sản diễn ra ở nước ta, cũng vì trong nội bộ người Việt Nam đã chia ra hai khuynh hướng, từ thập niên 1930. Nếu người Việt không bất đồng ý kiến, hoặc nếu tất cả mọi người Việt chấp nhận sống chung với những người có ý kiến khác mình, không ai muốn chiếm độc quyền cai trị, thì không nước ngoài nào xúi giục giết lẫn nhau được. Sẽ không có cuộc chiến tranh 1959-1975. Cho nên phải gọi đó là một cuộc nội chiến. Ở nhiều nước, như Ấn Ðộ, đảng Cộng sản vẫn hoạt động nhưng họ không đủ lực gây chiến tranh. Họ vẫn tranh cử, thắng cử tại nhiều tiểu bang, và ganh đua trong việc cai trị cho dân khá giả hơn. Khi thất cử, họ trở về với thế đối lập. Cộng sản Ấn Ðộ chấp nhận luật chơi dân chủ, cho nên nước họ không có nội chiến. Ðảng Cộng sản Nhật Bản cũng giống như vậy.
Từ năm 1930, ý kiến bất đồng chính yếu giữa hai phe quốc gia và quốc tế là xây dựng đất nước sau khi đuổi được thực dân Pháp theo cách nào. Ðảng cộng sản chọn theo lối Nga, Trung Cộng, còn các đảng phái quốc gia chỉ muốn tổ chức một xã hội bình thường, học hỏi dần dần từ kinh nghiệm của các nước tiến bộ. Riêng Việt Nam Quốc Dân Ðảng đã chọn chủ nghĩa của Tôn Trung Sơn. Lựa chọn quan trọng nhất là chọn các mô hình kinh tế và chính trị. Ðảng Cộng sản muốn theo Stalin, Mao Trạch Ðông làm kinh tế tập trung, chỉ huy; về chính trị thì chủ trương độc tài chuyên chính. Các đảng phái quốc gia không đồng ý. Từ năm 1945 khi giành được độc lập cho tới 1975, một quyết định quan trọng khác là chọn đồng minh. Ðảng Cộng sản chọn Nga và Tàu. Phía quốc gia chọn các nước dân chủ Tây phương. Các nước đồng minh cũng chỉ lo quyền lợi của chính họ. Nhưng giữa hai nước Mỹ với Tàu, nước nào là mối đe dọa nguy hiểm cho dân tộc Việt Nam hơn? Ðến nay, chúng ta đã thấy lựa chọn nào là khôn ngoan. Từ 1954 đến 1975, không ai ở miền Nam tự coi mình đóng vai “chiến đấu để thực hiện chủ nghĩa tư bản,” mà chỉ đánh vì phải tự vệ. Không ai tự khoe mình cùng với một nước khác (như Cuba) thay phiên“canh gác cho hòa bình thế giới.” Chấp nhận cuộc chiến tranh là bất đắc dĩ, vì phải tự vệ. Chỉ có đảng Cộng sản, theo một chủ nghĩa quốc tế, cuồng tín như theo một tôn giáo, mới bắt dân Việt đóng vai trò “tiên phong” trong cuộc cách mạng vô sản toàn thế giới.
Trong thời chiến tranh, đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” che đậy mục đích chính là đưa cả nước “tiến lên chủ nghĩa xã hội.” Vì họ coi đó chính là cứu nước. Ðể đánh lừa người dân, họ giải thích bằng khẩu hiệu “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội.” Không ai được yêu nước theo cách nào khác. Ðó chính là thảm họa của dân tộc.
Cuộc nội chiến Việt Nam đã chấm dứt. Không ai muốn tái diễn. Cuộc chiến đấu hiện nay còn diễn ra giữa dân Việt Nam và một nhóm băng đảng chiếm độc quyền tham nhũng, thối nát và bất tài. Những người tranh đấu dân chủ ở nước ta hiện nay đang thực hiện giấc mộng của những chiến sĩ quốc gia thời xưa, từ Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học, Nguyễn An Ninh, Huỳnh Phú Sổ, Nguyễn Tường Tam. Cuộc nội chiến đã qua, bây giờ là một cuộc chiến đấu của người Việt Nam đòi được sống tự do dân chủ.