Công
ty thực phẩm Yums, chủ nhân ông các công ty Pizza Hut, Gà Kentucky, Taco Bell vừa
cho khai trương hai tiệm Banhshop tại Dallas, chuyên trị bán bánh mì Việt Nam. Một tiệm sẽ được mở ngay trong phi trường Dallas. Việc
khai trương hai tiệm bánh này chỉ được thực hiện như một thử thách, một thí
nghiệm về món ăn bình dân Việt Nam, xem nó có được người dân Bắc Mỹ chấp nhận
hay không. Rất tiếc, khi khai trương, họ không nghiên cứu địa hình, địa vật, chọn
ngay một ngôi sao đỏ làm logo, nên bị Cộng Đồng Việt Nam tại Dallas phản đối quá
cỡ.
Ông
chủ tịch Công Đồng Mỹ gốc Việt vùng Dallas đã thảo bản kiến phản đối vụ này với
những lý do sau này: While we are very pleased with the name of the
restaurant, we are hurt and offended by your chosen logo, a red star, which is
a symbol of communism and will offend thousands of South Vietnam refugees in my
community.
Dù
sao chăng nữa, tin về bánh mì Việt Nam và tên được chọn cho các thí điểm của
Yums là Banh Shop cũng làm người di dân
gốc Việt, thấy ấm trong lòng, và hãnh diện.
Ai
trong chúng ta không từng ăn một ổ bánh, và biết bao nhiêu ông chủ, bà chủ các
tiệm bánh đã nhờ bánh mì mà trở nên giàu có. Khi tôi còn đi học, tại Sài Gòn, bánh
mì bưu điện là nổi tiếng nhất. Nhiều khi cuối tuần, cùng bạn bè đi picnic, ghé
qua Bưu Điện, thủ vài chục ổ, là chắc ăn. Sau này, khi lớn lên, đi làm ở tỉnh
khác, mỗi lần có phép trở về thăm gia đình tại Sài Gòn, bao giờ cũng ghé để rinh về nhà ít ổ,
không phải vì không có tiền ăn các món khác, tại các tiệm ăn khác, nhưng các tiệm
phở Pasteur, Hiền Vương, làm sao có thể về Sài Gòn mà không ghé??
Ôi,
những ngày xưa thân ái đó, qua đi, qua đi, như một giấc mơ. Nhưng dù trong giấc
mơ, vẫn không quên được mùi vị béo, bùi của bánh mì Bưu Điện Sài Gòn, với vị mát
của dưa leo, vị hang hăng của một cọng hành, và vị cay của một vài khoanh ớt đỏ
tươi,
Cuộc
chiến Việt Nam khiến tôi phải đi xa khi Sài Gòn để xuống Tây Đô làm việc. Khi ấy,
tôi còn độc thân, buổi sáng, ăn tại Câu Lạc Bộ của Quân Y Viện, nhiều khi nhờ các
người lính phục vụ mua cho những phần cơm, ăn chán ngắt, nhưng vẫn phải ăn. Chiều
tối, khoảng 6, 7 giờ, rảnh rang, chúng tôi mấy sĩ quan của trại độc thân, rủ
nhau ra bên Ninh Kiều, ăn lẩu, ăn đầu cá, ăn cua rang muối, ăn vịt nấu chao, nhậu
với la de, hay rựợu trắng, rượu nếp than, hết xẩy. Những chàng trai độc thân,
chưa tới 30, không có gì ràng buộc, làm được bao nhiêu, là đổ vào ăn nhậu, và bài
bạc hết, Chiến tranh mà, sống chết ngày nào, tháng nào, ai biết, ai lo, ai tránh
được.Thôi thì trời kêu ai nấy dạ.
Những
năm 1973, 74, có khi Việt Cộng pháo kích vào ngay Xóm Cả Đài, bọn chúng tôi ở tại
khu Bến Xe Mới, đang đánh bài, ngừng chơi, ra xem lửa cháy, rồi vào chơi
tiếp vì có lo lắng lắm, cũng chẳng làm được gì hơn, chi bằng mặc kệ . Tại Quân
Y Viện đã có những thằng bạn trong phiên trực làm việc cấp cứu rồi. Tuy nhiên,
không phải chiều nào cũng đi nhậu. Còn những thứ cũng hay lắm như đi xem ciné.
Thời đại đó là thời đại của Vương Vũ, Địch Long, Trần Tinh, với các phim võ hiệp.
Về phần các phim tình cảm, ít ai hơn được Tần Tường Lâm, Chân Chân, với những tác phẩm phóng tác từ các tiểu thuyết của
Quỳnh Dao, lãng mạng chi đâu, để đời.
Những
hôm chúng tôi đi xem ciné như vậy, thì phải tìm được một ông già người tầu, bán
những chiếc bánh mì ngon vô cùng, mà sau này, chưa bao giờ tôi tìm lại được hương
vị. Chúng tôi rời quân y viện, ăn bánh cho no bụng rồi mới vào xem phim. Bánh mì
của ông già tầu này ngon vì có nhiều lát thịt ba chỉ, đặt giữa các lát cà tô mát,
rau mùi, dưa leo, tất cả được dưới bằng một thứ nước sốt mà chỉ ông mới biết cách
pha chế, nó đem lại cho chiếc bánh một hương vị độc đáo. Sau này, tại hải ngoại,
tôi vẫn có bánh mì để ăn, nhưng ở đây, bánh đầy ruột, lại được nhét vào, nào pa
tê, nào jambon, nào saucisse, khác hẳn cái bánh mì năm xưa tại cái thành phố nhỏ
mà dễ thương đó, làm sao quên được.
Ăn
bánh xong, thế nào cũng phải tìm được một ly cà phê sữa đá nữa mới đủ bộ.
Tôi
sang Canada năm 1978, nhưng chỉ tìm lại được cà phê sữa đá trong các quán ăn Việt
Nam. Chỉ khoảng mười năm sau này, mới thấy người bổn xứ uống cà phê và bỏ đá vào.
Khi công ty thực phẩm Tim Hortons có sang kiến bán món nước uống này. Không hiểu
người Nam Mỹ có uống cà phê sữa đá hay không, nhưng tôi vẫn tin là những người
uống Cà Phê sữa đá đầu tiên trên trái đất này, có lẽ là dân Sài Gòn. Lý do là
người ta cho rằng khi pha chế như vậy, cà phê mất đi hương vị của nó. Cà Phê phải
được uống nóng, như vậy nó mới tỏa ra được hương thơm. Đó là trên lý thuyết, nói
ra thì có vẻ kinh điển, sách vở, nhưng cà phê đá ngày nay đã xuất hiện, ngay cả
tại những tiệm ăn nhanh nổi tiếng hoàn cầu như Mc Donald.
Những
nhà hang bán thức ăn nhanh, hay fast foods, hiện nay cạnh tranh với nhau dữ lắm.
Không có món mới, chỉ bán hamburgers với khoai chiên, có ngày xập tiệm. Họ phải
chiều khách. Bên Mỹ, số người tóc đen càng ngày càng đông, không chỉ là dân Á
Châu, nhưng nhiều nhất, có lẽ là dân gốc Châu Mỹ La Tinh, người Mễ, người Pérou,
người Costa Rica…v.v. Lạ một điều là không
hiểu có phải tại họ cũng tóc đen như chúng ta hay không, mà các món ăn của chúng
ta được họ chiếu cố tận tình. Tại các tiệm
ăn trên đường Jean Talon của thành phố Montréal, chỗ gần St Michel., nơi tôi
thường đến ăn mỗi thứ bẩy, tuần nào cũng thấy mấy gia đình Nam Mỹ. Họ ăn Phở đúng
cách, diệu nghệ, không khác gì chúng ta, cũng cho tương ớt, cũng vắt chanh, cũng
giá sống, và rau húng, y chang.
Cách
đây vài năm, đi qua vùng San Antonio của California, nơi người ta gọi là Thung
Lũng vàng, sau khi thăm cái nhà mà từ đó Bill Gates khởi nghiệp, chúng tôi vào
một nhà hàng của người Mễ. Thực ra, nếu tìm kiếm, thì chắc ở San Antonio, thế nào
cũng có tiệm Việt Nam, nhưng phần đường xa, phần mỏi mệt, chúng tôi vào đại một
nhà hàng bên đường. Nhìn thực đơn, thấy có món Phở, vì tò mò, tôi kêu đại, xem
dân Nam Mỹ nấu phở ra sao. Không hiểu vì đói, hay vì tự ái dân tộc được vuốt
ve, tôi thấy người Mễ nấu Phở không tệ. Coi như một tiệm phở trung bình tại
Montréal.
Trời
sui, đất khiên, mùa Hè vừa qua, cùng thằng con nhỏ đi thăm Utah, nơi cư ngụ của
dân Mormon, nơi ngày xưa một thiên thể đã va chạm vào trái đất và tạo nên các
canyons, nơi có các loài khủng long xuất hiện hang triệu năm về trước, và ngày
nay chỉ còn sót lại những ngọn núi rất hung vĩ, đẹp tuyệt diệu, trong ánh sáng của mặt trời, buổi hoàng hôn. hay bình minh, những ngày có
suơng mù, đẹp đến ngỡ ngàng, và phải công nhận, nếu đấng Tạo Hóa
có thật, thì ngài là một nghệ sĩ tuyệt vời.
Đi
chơi núi, mà đầu tôi cứ luẩn quẩn vang vọng bài hát Hòn Vọng Phu của Lê Thương:
Đường về nước, chập chùng xa.
Đồi và núi cheo leo.
Cây với rừng rườm rà….
……….
Chiều
hôm đó, tại Bryce Canyon,sau một ngày vất vả trèo non, lội suối, vui với thiên
nhiên, chúng tôi trở về với thế giới người văn minh. Sau khi ra khỏi địa phận
Parc National , chúng tôi vào ngay con đường chính của Bryce Canyon, và tiệm ăn
đầu lại thấy ghi là bán các món ăn Thái. Sau khi trở về khách sạn, tắm rửa,
thay đồ, tôi nói với con trở lại tiệm ăn này, vì mấy ngày rồi, ăn đồ tây phương,
ngán đến tận cổ. Khi chúng tôi đến, thấy nhà hang đầy người,và hai ba bàn, toàn
dân Trung Hoa, ăn nói um xùm. Tôi thấy cô chủ nhà hang có vẻ không khác người mình
tý nào. Nhìn vào bảng tên cô đeo trên ngực, thấy khắc chữ Dung, tôi biết là cô Thái này là Thái giả,
thái giám, chứ không phải Thái Lan. Nhìn trong thực đơn, lại thấy có món Phở, mừng
húm. Ăn gì cũng được, ăn Phở có lẽ dễ nuốt hơn.
Món
Phở ngày hôm đó, suốt đời tôi khó quên.
Chỉ
là nước sôi đổ trên bánh phở, và thịt bò ai cũng mua được ở các siêu thị, người
ta cắt mỏng ra. Thằng con tôi,vốn ít ăn ăn đồ Á Châu, vậy mà cũng phải kêu lên: Không có mùi Phở tý gì. Cô chủ tên Dung hình như né chúng tôi, có lẽ vì sợ bị
chê, hay sợ sẽ phải nói tiếng Việt với người đồng hương, chỉ thấy lăng săng đón người du lịch da trắng,
để mặc chúng tôi với anh hầu bàn người Mỹ, rất đẹp trai, và lịch sự. Cũng may,
ngày hôm đó, chúng tôi gỡ lại bằng mấy chiếc gỏi cuốn, mà ở Montreal người ta gọi
là Rouleau du Printemps . Món này hình như dễ làm, lại mát, dễ ăn.
Nẫy
giờ tôi nói lang bang, về các món ăn Việt Nam, làm mất thì giờ của người đọc.
Thực ra, tôi chỉ muốn nói lên một điều, là Thế Giới biết đến Việt Nam, yêu thương
Việt Nam, không phải vì những thành tích quan trọng, ông Tiến Sĩ này, ông Thạc
Sĩ kia…hay những đỉnh cao trí tuệ gì đó, như một bọn người ngông cuồng, ếch ngồi
đáy giếng, rồi tuyên bố vung vít, cái kiểu Việt Nam ngủ thì Cu Ba thức, Cu Ba
ngủ thì Việt Nam thức… để canh cho thiên hạ hòa bình.
Không,
Thế Giới biết đến Việt Nam, phải chăng chỉ vì những gì rất giản dị: khúc bánh
mì, cái gỏi cuốn, tô phở hay ly cà phê đá mà thôi.
Trần Mộng Lâm