Họ điều khiển cho chiếc phi cơ cất cánh.
Những số liệu được chuyển trực tiếp, từ chiếc xe Van đến hệ thống vệ tinh quân sự trên trời bằng kênh nối kết, và từ vệ tinh, những lịnh điều khiển được truyền đến chiếc phi cơ để cất cánh và bay đến mục tiêu. Tất cả gồm 2,000 tín hiệu liên lạc nối kết nhau chặt chẽ, và hoàn tòan chính xác, thì phi cơ mới cất cánh được.
Từ chiếc phi cơ, tất cả mọi hình ảnh nằm trong vùng quan sát được chuyển về trạm điều khiển để phi công ở đó nhận xét và ra những lịnh để phi cơ thi hành, như bắn vào mục tiêu, hoặc bay trở về.
Cơ quan CIA đề nghị những chuyến bay không người lái được điều khiển từ trung tâm của CIA ở Langley, Virginia. Mặc dù không có người lái ngồi trên phi cơ, nhưng mỗi chuyến bay phải có phi công ngồi tại trạm điều khiển từ xa.
Phi cơ được gắn dụng cụ để xác định vị trí và tọa độ mục tiêu, một máy chụp hình (Camera) màu, một Camera TV, một camera hồng ngoại tuyến, cho nên nó có thể nhận thấy mục tiêu xuyên qua màn khói, mây che và sương mù. Hình ảnh nhận được với đầy đủ màu sắc và cử động, di chuyển…Hình ảnh được thu nhận liên tục trong khu vực thám sát ở những tọa độ khác nhau.
Sau nầy, chiếc Predator được gắn thêm hệ thống Laser để có thể liên lạc được với phi công của những máy bay trên cùng một khu vực của bầu trời. Hệ thống Laser đồng thời cũng được dùng để hướng dẫn hỏa tiển đi đến đúng mục tiêu.
2.4. Tháo ráp phi cơ Predator
Một chiếc Predator có thể được tháo ra làm 6 phần rời, bỏ vào một container có tên là “quan tài” (The coffin). Điều nầy cho phép việc triển khai nhanh chóng, đến khắp các nơi trên địa cầu bằng phi cơ vận tải hoặc bằng tàu biển. Bộ phận lớn nhất là trạm điều khiển từ xa, được thiết kế cho vừa vặn, để chiếc C-130 Hercule chở đi khắp nơi.
Kênh sóng nối kết với 24 vệ tinh quân sự trên bầu trời, được phóng đi nhờ một ănten chảo đường kính 6.1 mét.
2.5. Đường băng của sân bay dành cho chiếc Predator
Phi cơ nầy cần một đường băng rộng 40m, dài 1,500 m trên một bề mặt trống trải, không có chướng ngại vật làm lệch hướng đi, hoặc ngăn chận làn sóng điện từ trạm điều khiển trên mặt đất lên vệ tinh, rồi từ vệ tinh xuống phi cơ. Vệ tinh là bộ phận đứng giữa, làm trung gian, chuyển những lịnh điều khiển từ trạm kiểm soát đến phi cơ, và ngược lại, chuyển những hình ảnh và tọa độ các mục tiêu từ phi cơ trở về trạm kiểm soát.
Tháng 4 năm 2010, một tài liệu tiết lộ tổng số giờ phi cơ không người lái đã thực hiện là trên một triệu giờ. Chuyến bay dài nhất trên bầu trời là 40 giờ 5 phút, hơn 1 ngày 1 đêm.
Năm 2009, Không Quân HK có 195 chiếc Predator MQ-1 và 28 chiếc nâng cấp MQ-9 Reaper.
2.6. Tai nạn và bị bắn rơi
Tháng 3 năm 2009, một báo cáo cho biết HK đã mất 70 chiếc Predator, trong đó 55 chiếc rơi và phát nổ vì trục trặc máy móc và bay lạc mất. 4 chiếc bị bắn rơi ở chiến trường Bosnia, Kosovo. Tại chiến trường Iraq, rơi 11 chiếc.
Tháng 3 năm 2011 vừa qua, KQ/HK tiếp nhận lần cuối cùng những chiếc Predator. Sau đó, không còn sản xuất nữa.
2.7. Tổ chức những đội bay Predator
Tháng 4 năm 1996, Bộ trưởng QP/HK đã chọn Không quân để điều hành hệ thống phi cơ không người lái Predator. Nhiều đội bay được thành lập tại những căn cứ KQ/HK.
Trên chiến trường Afghanistan, 10 trong 15 chiếc Predator, được đánh giá là thành công xuất sắc. Hai chiếc Predator xác định vị trí của một người cao, ốm, mặc quần áo trắng tại khu nhà của Bin-Laden ở Tarnak, bên ngoài Kandahar. Hình dáng đó được xác nhận là Osama bin-Laden.
Ngày 4-9-2001, Tổng thống Bush chấp thuận cho dùng Predator tìm diệt Bin-Laden, nhưng nước chủ nhà của phi trường là Uzbekistan không cho phép Predator trang bị hỏa tiển.
2.8. Predator bị MiG-25 bắn hạ
Ngày 23-12-2002, chiếc MiG-25 của Iraq đã bắn hạ chiếc Predator.
Sự việc như sau. Chiếc Predator được trang bị hỏa tiển không đối không AIM-92, được dùng làm mổi, để nhử cho chiếc MiG-25 cất cánh, sau đó, Predator chạy trốn, để MiG ở lại làm bia bị bắn hạ.
Nhưng trong trường hợp đó, không biết vì trở ngại gì, mà chiếc Predator lại không bỏ chạy đi theo kế hoạch, và nó phóng một hỏa tiển tầm nhiệt vào chiếc MiG-25. Nhưng hỏa tiển tầm nhiệt lại đuổi theo một hỏa tiển do chiếc MiG phóng ra, cả hai hỏa tiễn cùng nổ, và chiếc MiG-25 bắn hạ chiếc Predator.
2.9. Đặc tính kỹ thuật của chiếc Predator
Phi hành: không * Chiều dài: 8.22 m * Sải cánh: 16.84m * Cao: 2.1m * Nặng: 512 kg (Không có tải)
Sức nặng có tải: 1020 kg * Động cơ: Một máy nổ 4 xy lanh, 115 mã lực (Horse Power)
Vũ khí:
- 2 hỏa tiển AGM-114 Hellfire (AGM=Air-to-Ground Missile) Không đối đất.
- 4 hỏa tiển AAM-92 Stinger (AAM=Air-to-Air Missile)
- 6 hỏa tiển Griffin (Loại không đối đất)
Hỏa tiển AGM-114 Hellfire
AGM là Air-to-Ground Missile, còn được gọi là ASM=Air-to-Surface Missile. Chủ yếu là trang bị cho trực thăng chiến đấu.
Hellfire do nhóm từ Helicopter-Launch FIRE-and-forget.
Nặng: 47 kg * Tầm xa: 8 km
Năm 2007, HK có tổng số 21,000 quả, mỗi quả giá 68,000 USD.
Được trang bị trên trực thăng Apache, Cobra, Kiowa và Predator.
Hỏa tiển AIM-92 Stinger
Hay còn gọi là AAM-92 Stinger.
Dài: 1.52 m * Đường kính: 70 mm (2.8 in) * Nặng 16 kg * Đầu nổ: 3 kg * Tốc độ: 750 mét/giây
Tầm xa: 4.5 km.
Hỏa tiển Griffin
Là hỏa tiển không đối không, trang bị cho Predator.
Đường kính: 5.5. in * Nặng: 20.4 kg * Dài: 42 in * Đầu nổ: 13 pounds.
Tóm lại, phi cơ không người lái MQ-1 Predator và MQ-9 Reaper là loại phi cơ nhỏ, nhẹ, trang bị hỏa tiển cũng nhỏ, nhẹ, cho nên hỏa lực rất yếu so với vũ khí của các chiến đấu cơ khác.
Như vậy, loại phi cơ nầy có giá trị thám thính nhiều hơn hỏa lực công phá. HK gởi phi cơ thám thính đến Libya mà không gởi chiến đấu cơ có vũ khí mạnh, thì hiệu quả rất hạn chế.
Thật ra, ngoài chiếc Predator, HK còn những loại phi cơ không người lái có vũ khí mạnh hơn nhiều. Có lẻ chờ đợi chỉ khi chiến tranh leo thang, thì mới mang ra xử dụng. Đó là loại Boeing X-45 và Northrop Grumman X-47.
3* Phi cơ chiến đấu không người lái Boeing X-45
Northrop Grumman X-47 Pegasus Boeing X-45 A không người lái
X-45 là phi cơ chiến đấu không người lái do công ty Boeing thiết kế và sản xuất theo hợp đồng của Hải Quân. Bên Không Quân cũng có loại phi cơ không người lái giống như X-45, nhưng do công ty Northrop Grumman sản xuất, với cái tên X-47.
Ngày 18-4-2004, thử nghiệm X-45 lần đầu tiên thành công tại căn cứ KQ Edwards, nó phóng hỏa tiển 250 lbs chính xác vào mục tiêu.
Ngày 4-2-2005, trong lần bay thứ 50, hai chiếc X-45 báo động có mục tiêu xuât hiện, hai chiếc tự động xác định xem chiếc nào sẽ dùng vũ khí tấn công, kế đó một chiếc bay ra khỏi khu vực chiến đấu, và người phi công ở trạm điều khiển từ xa, ra lịnh tấn công.
Đặc biệt là hai chiếc X-45 phối hợp hoạt động với nhau như là một nhóm.
Năm 2010, hảng Boeing thiết kế cho chiếc X-45 được thực hiện tiếp liệu trên không.
Đặc tính của X-45
Phi công: không có * Dài: 8.08m * Sải cánh: 10.3m * Cao: 2.14m * Trọng lượng 3,630 kg không có tải * Động cơ: Một máy GA-100 turbofan * Tốc độ tối đa: 919 km/giờ * Tầm hoạt động xa: 2,405 km.
Vũ khí: 8 bệ phóng hỏa tiển, mỗi bên 4 bệ. * Bom JDM loại đường kính nhỏ.(JDM= Joint Direct Attack Munition). Bom tấn công trực tiếp điều khiển chính xác bằng hệ thống định vị toàn cầu (GPS=Global Positioning System)
4* Phi cơ X-47
Northrop Grumman X-47 là loại phi cơ chiến đấu không người lái, do công ty Northrop Grumman thiết kế và sản xuất theo hợp đồng của Không Quân. Công dụng cũng giống như
X-45 của Hải Quân. Hai bên có 2 chương trình khác nhau.
X-47 có hình dáng giống như đầu của mũi tên hình tam giác, màu đen.
Đặc tính:
Phi công: không * Dài: 5.95m * Sải cánh: 5.94m * Cao: 1.86m * Trọng lượng không tải: 1,740 kg * Trọng lượng có tải: 2,212 kg * Động cơ: một máy turbofan * Vận tốc tối đa: dưới âm thanh * Tầm hoạt động xa: 2,778 km.
Vũ khí:
- 2 bệ phóng hỏa tiển, mỗi bệ chỉ có một quả 500 pounds (227 kg)
X-47 được cải tiến và nâng cấp thành X-47A, X-47B, X-47C
Riêng X-47C, to hơn. Sải cánh 52.4 m, Trọng lượng có tải 4,500 kg.
5* Tàu không gian con thoi không người lái X-37B của Hoa Kỳ
Mới đây, chiếc phi cơ không người lái nầy đã bí mật cất cánh, tự động điều khiển ngoài vũ trụ và tự động hạ cánh an toàn, đánh dấu sự thành công của một loại vũ khí mới, là có thể làm chủ không gian. Phi cơ có khả năng bảo vệ các vệ tinh của Hoa Kỳ mà còn có khả năng bắt cóc các vệ tinh khác, đồng thời cũng là một thứ vũ khí lợi hại nữa.
Đa số hoả tiển của Hoa Kỳ được dựa vào sự dẫn đường chính xác của các vệ tinh, cho nên việc bảo vệ các vệ tinh đó rất cần thiết.
Ông Joan Johnson Freese, Chủ nhiệm Trung Tâm Quyết Sách An Ninh Quốc Gia (National Security Decision Making Department) của Học Viện Quân Sự và Hải Quân đã nói “Loại máy bay vũ trụ nầy có khả năng thay đổi quỹ đạo của các vệ tinh” để tránh những hoả tiển diệt vệ tinh của đối phương.
X-37B có những khả năng như sau:
– Tiêu diệt các vệ tinh địch.
– Đánh cắp tài liệu từ các vệ tinh khác, bằng cách bay đến gần để thu nhận tín hiệu do vệ tinh phát ra chuyển về mặt đất.
– Tiêu diệt hỏa tiễn địch để bảo vệ hệ thống vệ tinh định vị toàn cầu GPS của HK.
– Khả năng bắn hỏa tiễn và ném bom từ vũ trụ xuyên qua bầu khí quyển, xuống mặt đất trong thời gian 1 giờ sau khi cất cánh, và ở trên không suốt hơn 9 tháng.
Dũng sĩ X-37B đang làm chúa tể vũ trụ, và trong chiến tranh thời nay, ai làm chủ không gian là người chiến thắng.
Tàu không gian con thoi không người lái X-37B
X-37B cũng được gọi là tàu thử nghiệm quỹ đạo (Orbital Test Vehicle-OTV) được đặt tên là Thần Ưng, trông giống như phi thuyền con thoi (Space Shuttle) nhưng nhỏ hơn 4 lần. Được phóng thẳng đứng và trở về trái đất, hạ cánh hàng ngang như phi cơ thường ở bất cứ đường băng nào.
X-37B
6* Phi cơ tàng hình
6.1* Phi cơ tàng hình J-20 của Trung Quốc
Trên đường đến Bắc Kinh, Bộ trưởng Gates tuyên bố “Hoa Kỳ sẽ tăng cường khả năng của chính mình để phản ứng với việc TQ tăng cường sức mạnh quân sự. Họ rõ ràng là đã có khả năng đặt một số khó khăn cho chúng ta, nên chúng ta phải quan tâm đến điều đó”. Ông Gates cũng cho biết “Quân sự Mỹ vẫn duy trì lợi thế. Hoa Kỳ đang phát triển thế hệ phi cơ ném bom nguyên tử tầm xa mới, phát triển Radar và cả hệ thống gây nhiễu điện tử và công nghệ phóng vệ tinh mới. Hoa Kỳ cần phải biết về khả năng quân sự của Trung Quốc, nhưng không có lý do nào để TQ thành kẻ thù cả”.
Ông Gates ca ngợi và hoan nghênh nổ lực của TQ đã làm giảm bớt sự căng thẳng ở bán đảo Triều Tiên.
Ngày thứ ba 11-1-2011, chỉ vài giờ trước khi Bộ trưởng Gates hội kiến với Hồ Cẩm Đào thì chiếc phi cơ chiến đấu tàng hình thế hệ 5, J-20 đã bay thử 15 phút trên bầu trời phi trường Thành Đô của TQ. Hồ Cẩm Đào nói là “TQ không cố tình thử nghiệm phi cơ tàng hình trong khi Ông Gates viếng thăm Bắc Kinh”.
Ông Andrei Chang, chủ bút phiên bản Hồng Kông của tạp chí quân sự Canada, Kanwa Defense Weekly cho biết, chuyến bay dự liệu thực hiện hồi tuần trước, nhiều quan chức đã đên phi trường Thành Đô để chứng kiến “sự kiện lịch sử” nầy, nhưng đột nhiên, việc bay thử bị bãi bỏ.
Do thông tin bị rò rỉ trước, cho nên hàng trăm người kéo đến sân bay. Tiếng reo hò vang lên bên trong và bên ngoài địa điểm thử nghiệm kéo dài 15 phút đó.
Nhật báo Ashi Shimbun của Nhật loan tin, là TQ có kế hoạch triển khai loại phi cơ tàng hình thế hệ thứ 5 nầy vào những năm từ 2017 và 2019.
Các nhà phân tích cho rằng TQ đã vượt nhanh hơn dự kiến trong việc sản xuất vũ khí đối trọng với phi cơ chiến đấu tàng hình F-22 Raptor của Hoa Kỳ.
Đô đốc David Dorsett, Giám đốc Cục Tình Báo HQ/HK cho biết, việc triển khai J-20 phải mất ít nhất là 20 năm nữa.
Trang Web Global Times của tờ báo TQ, People’s Daily đăng một tin ngắn, tựa đề “Chuyến bay thử nghiệm đầu tiên của J-20 thành công”.
Phát ngôn viên Bộ QP/HK, Đại tá David Lapan nói rằng HK đã có bằng chứng về việc TQ thử nghiệm và sản xuất loại phi cơ tàng hình nầy, nhưng dường như không thuận lợi.
Tờ Wall Street Journal dẫn lời của Đại tá D. Lapan, cho rằng TQ đã lệ thuộc vào thế hệ thứ 4 của Nga, cho thấy họ bị rắc rối trong việc sản xuất loại phi cơ nầy.
Ông Andrei Chang nhận xét rằng, TQ thử nghiệm phi cơ trong lúc Bộ trưởng Gates ở Bắc Kinh là họ muốn cho biết sức mạnh quân sự, nhằm chiếm thế mạnh, hoặc che đậy thế yếu trong những đàm phán về vũ khí chiến lược sắp tới giữa HK và TQ.
Nhà nghiên cứu của Viện American Enterprise Institute, ông Dan Blumenthal viết trên tờ Washington Post “Chúng ta bị buộc vào một giai đoạn mà các nhà quan sát gọi là cuộc chạy đua về an ninh giữa HK và TQ.
6* Phi cơ tàng hình thế hệ thứ 5
Phi cơ chiến đấu tàng hình thế hệ thứ 5, J-20 của TQ là đối trọng với phi cơ F-22 Raptor của HK, vậy để hiểu rõ hơn về phi cơ J-20, cần thiết phải biết về kỹ thuật tàng hình và về thế hệ 5, mà F-22 Raptor là một điển hình.
6.1. Kỹ thuật tàng hình (Stealth=giấu giếm)
Nguyên tắc chung.
Mắt thường của con người nhìn thấy sự vật là do sự phản hồi ánh sáng từ vật đó đưa vào mắt. Khi không có ánh sáng, như đêm 30 hoặc trong phòng tối của tiệm chụp hình, thì không có sự phản hồi của ánh sáng, cho nên mắt không trông thấy gì cả.
Radar là con mắt “thiên lý nhản” dùng để nhìn sự di động của vật thể từ xa, hàng chục hoặc hàng trăm Km.
Radar viết tắt từ chữ Radio Detection And Ranging, là dò tìm và xác định vị trí bằng sóng vô tuyến.
Hệ thống Radar gồm máy phát sóng và máy thu sóng nhờ phương tiện của Anten, cũng tương tự như sóng điện của đài phát thanh và truyền hình và máy thu thanh (radio) và máy Tivi vậy.
Máy Radar phát ra làn sóng điện ở bình diện rất rộng, sóng điện đó chạm vào các vật thể như phi cơ chẳng hạn, thì nó dội ngược lại, sự phản hồi của sóng điện nầy, được thu nhận và nhìn thấy trên màn hình của Radar.
Cốt lõi của Radar là sự phản hồi của sóng điện. Vì thế, muốn tàng hình, thì phải tiêu diệt sự phản hồi hay sự dội ngược của sóng điện radar.
Có hai cách thủ tiêu sự phản hồi của sóng điện Radar.
Một là dùng hoá chất để hấp thụ (Absorb) và “tiêu hoá” sóng Radar. Những hoá chất hấp thụ sóng Radar như là bột than (Carbon Powder), than chì (Graphite) hay than sợi (Carbon Fiber). Những chất nầy trộn trong nước sơn (Polymer/Plastic) hoặc trong cao su để sơn lên thân hình của phi cơ và tàu chiến.
Hai là, dùng những góc cạnh trên thân phi cơ để đánh tạt làn sóng điện đi hướng khác, không cho dội ngược lại. Thân phi cơ bao gồm những mặt phẳng nghiêng cho nên hình dạng phi cơ tàng hình khác hẳn với các loại thông thường. Sóng Radar phản hồi mạnh ở điểm tiếp xúc có góc vuông 90 độ.
Khi mà độ hấp thụ sóng Radar đạt được 100%, nghĩa là không còn sóng phản hồi, thì thân xác cụ thể và sự hiện hữu của phi cơ không hiện ra trên màn ảnh Radar nữa. Tần số của sóng Radar luôn luôn được tuyệt đối giữ bí mật.
6.2. Thế hệ thứ 5 của phi cơ
Để biết thêm về thế hệ của phi cơ J-20 của TQ, cũng cần xét tổng quát về các thế hệ phi cơ được quốc tế thừa nhận.
Do sự cải tiến liên tục không ngừng, để khắc phục những khuyết điểm và cạnh tranh, để chiếm ưu thế hơn phi cơ của đối phương, người ta căn cứ vào thời gian tổng quát, để xác định tình trạng kỹ thuật của mỗi loại phi cơ. Đó là những thế hệ.
Hiện tại, đa số phi cơ chiến đấu hiện đại trên thế giới, thuộc thế hệ 4.5
Hai loại phi cơ duy nhất của thế hệ 5 là F-22 Raptor của Hoa Kỳ đang xử dụng với tổng số trên 250 chiếc, và phi cơ chiến đấu tàng hình F-35 đang sản xuất để bán cho các đồng minh.
Thế hệ thứ 1 (1944-1953)
MiG-15, MiG-17 của Liên Xô. F-86 Sabre của Hoa Kỳ
Thế hệ thứ 2 (1953-1960)
- Liên Xô: SU-7 (Công ty Sukhoi), MiG-19, MiG-21, SU-9
- Hoa Kỳ: F-100 Super Sabre, F-8 Crusader, F-11 Tiger, F-102 Delta Dagger, F-104 Starfighter, F-105 Thunderchief, F-106 Delta Dart.
Thế hệ 3 (1960-1970)
- Liên Xô: MiG-21, MiG-23, MiG-25, SU-7 “Fitter”, SU-15 Flagon, Tu-28.
- Hoa Kỳ: F-4 Phantom, F-5 (QLVN/CH xử dụng)
- Trung Quốc: J-8 * – Pháp: Mirage III * – Anh quốc: Harrier
Thế hệ 4 (1970-1990)
- Liên Xô: MiG-29, MiG-31, SU-27 và Yak-38
- Hoa Kỳ: F-14 Tomcat, F-15 Eagle, F-16 Fighting Falcon, F/A-18 Hornet, F-20 TigerShark.
- Trung Quốc: JH-7 Flying Leopard, Shengyang J-8 II
Thế hệ 4.5 (1990-2000)
- Nga: MiG-35, SU-30/35/37 (Flanker:Tên do NATO đặt), SU-32/34.
- Hoa Kỳ: F-15 E Strike Eagle, F-16 C/D, F/A 18 Super Hornet
- Trung Quốc: Chengdu J-10, Shenyang J-11 B
*(Chengdu=Thành Đô. Tập đoàn công nghiệp hàng không Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên*Shenyang=Thẩm Dương, tên công ty sản xuất phi cơ* Tên công ty sản xuất thường đặt trước tên phi cơ. Ví dụ như Boeing F/A-18E/F Super Hornet, Lockheed Martin F-22 Raptor, MiG-29… MiG=Mikoyan Gurevich. Sukhoi=SU-30MK…Mitsubishi F-2 (Nhật). Những hảng sản xuất phi cơ lớn của HK là: Boeing, Lockheed Martin, Grumman, Northrop, McDonnell Douglas, General Dynamics).
Thế hệ 5. (2000 đến hiện tại)
* Đang hoạt động: F-22 Raptor và F-35 Lightning II của Hoa Kỳ.
* Lịch trình sẽ đưa vào hoạt động:
- Nga: Sukhoi T-50. Thử nghiệm năm 2009, sẽ đưa vào hoạt động năm 2012.
- Hoa Kỳ: F-35 Lightning II/JCA
- Trung Quốc: J-20. Thử nghiệm bay 15 phút ngày 11-1-2011. Tàng hình
6.3. Phi cơ F-22 Raptor của Hoa Kỳ