Trong 17 năm giữa mốc tiểu thuyết Monkey Bridge (Cầu Khỉ) (Viking, 1997) và The Lotus and the Storm (Sen và Bão) (Viking, 2014), nhà văn Lan Cao lập gia đình và trở thành một chuyên gia có uy tín trong ngành luật kinh doanh quốc tế, trong khi vẫn luôn bị ám ảnh bởi những ký ức về chiến tranh Việt Nam.
Thân phụ của nhà văn, cố Đại Tướng Cao Văn Viên, trước đây là Tổng Tham Mưu Trưởng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ngoài những bội tinh tuyên dương của chính quyền miền Nam, Tướng Viên cũng được trao Huy chương Bạc và Legion of Merit của Hoa kỳ về thành quả chỉ huy hơn 50 chiến dịch ngăn ngừa sự xâm lấn của Cộng quân tại miền Nam. Hoài bão của Tướng Viên là có một quân đội chuyên nghiệp độc lập ra khỏi chính trị, nhưng cũng như Minh, người cha trong Sen và Bão, việc ông từ chối tham gia vào cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm năm 1963 đã suýt làm ông bị thiệt mạng, nếu không nhờ tài thuyết phục của bà Cao văn Viên với một số tướng tá theo phe đảo chính.
Lan Cao, như Mai, nhân vật chính thứ hai trong Sen và Bão, đã hưởng một tuổi thơ kỳ diệu ở Chợ Lớn. Bà rời Việt Nam vào đầu mùa xuân năm 1975 với Thiếu Tướng Hoa Kỳ John Fritz Freund, một người bạn gia đình mà ông bà Cao văn Viên đã ủy thác trách nhiệm làm bố nuôi của tác giả. (Nhân vật Michael trong Cầu Khỉ và Cliff trong Sen và Bão đã được dựa trên Thiếu Tướng Freund). Ông bà Cao Văn Viên không có ý định rời Việt Nam với con gái, mà đã nghĩ đến chuyện dùng xyanua tự vẫn trong trường hợp Cộng sản xâm chiếm Sàigòn. Không được biết về quyết định của cha mẹ, và tưởng rằng chuyến đi sẽ chỉ là tạm thời, Lan Cao, lúc đó 13 tuổi, chỉ mang theo một vali quần áo, vài hình ảnh lưu niệm và quyển sưu tập tem. Khi đáp chân đến Avon, Connecticut (quê quán của Thiếu Tướng Freund), bà được chứng kiến những tháng ngày cuối cùng của Sài Gòn trên truyền hình và lúc đó mới nhận ra rằng sẽ không còn cơ hội về nhà.
Nhờ những can thiệp của tình thế, ông bà Cao văn Viên được rời khỏi Việt Nam trước khi Sài gòn sụp đổ. Lan Cao sau đó đoàn tụ với gia đình ở Virginia. Bà theo học trường trung học ở Falls Church, Virginia, và sau đó tốt nghiệp Mount Holyoke College và Trường Luật Yale. Bà hiện đang là một giáo sư tại trường Luật Dale E. Fowler thuộc Đại học Chapman ở Orange, tiểu bang California.
Bài phỏng vấn dưới đây được thực hiện qua tiếng Anh trong vòng hai tuần lễ, sau đó được người thực hiện dịch sang tiếng Việt.
– Đinh Từ Bích Thúy
***
Xin chị cho biết những sự kiện đã tạo tác tiểu thuyết Sen và Bão.
Tôi bắt đầu viết cuốn sách vào năm 2005, có thể vì những gì đang xảy ra tại Iraq vào thời điểm đó làm tôi nghĩ đến những gì đã xảy ra ở Việt Nam khoảng 30 năm trước đó. Tôi đã hoàn thành bản thảo đầu tiên trong năm 2009 khi tôi còn ở Việt Nam với con gái tôi, chủ yếu để ghi danh cho nó vào một trường học Việt Nam để giúp nó học tiếng Việt. Tôi duyệt lại bản thảo tiểu thuyết từ năm 2009 cho đến năm 2013. Khi tôi bắt đầu cuốn sách, con gái tôi chỉ mới lên 3. Bây giờ nó đã 12.
Tôi muốn viết một cuốn tiểu thuyết với phạm vi bao quát cùng những nét chấm phá tỉ mỉ. Tôi thường viết lúc về đêm, thường là sau khi con gái tôi đi ngủ. Tôi bắt đầu viết vào khoảng 9:30, 10 giờ tối và tiếp tục cho đến 1 hoặc 2 giờ sáng, nếu tôi có động lực và cảm thấy quá trình được diễn tiến tốt đẹp. Nếu không, tôi sẽ bỏ cuộc vào khoảng nửa đêm. Tôi luôn tự khuyến khích mình nếu mỗi ngày tôi viết được một trang, tôi sẽ có được một bản thảo kha khá trong vòng một năm. Tôi không ngờ mình đã bỏ ra quá nhiều thời gian.
Xin chị cho biết ý nghĩa của tựa đề Sen và Bão
Tựa đề tiểu thuyết bao hàm sự xung khắc và cân bằng giữa mọi yếu tố đối lập. Hạnh phúc và giông tố. Hòa bình và chiến tranh. Tựa đề mang ý nghĩa Phật giáo, đề cao trạng thái cởi mở và tinh thần ôn hòa cho dù môi trường xung quanh chồng chất những bi ai, hỗn loạn. Đối với tôi, lớp bùn vòng quanh hoa sen là chiến tranh, vấn nạn mất nước, và những khó khăn trong đời sống ở quê hương mới.
Trong tiểu thuyết, nhân vật Mai giải thích cách sáu âm điệu trong Việt ngữ có thể biểu lộ sáu ý nghĩa khác nhau, như trường hợp ma, má, mà, mả, mã, mạ. Nếu Bảo (báu vật – một ý tưởng liên hệ đến hoa sen) chỉ khác với Bão bởi một âm (từ dấu hỏi sang dấu ngã), điều này có nghĩa sen cũng có thể là hiệnthân của bão, và ngược lại?
Đúng như vậy. Chỉ một thay đổi trong âm điệu cũng chuyển động cả một thế giới. Đối với hầu hết chúng ta, sự cân bằng là một trạng thái bấp bênh, linh động, như vở kịch A Delicate Balance của Edward Albee (trong đó tác giả khai phá mọi góc cạnh của mất mát; vở kịch được mở đầu với những suy niệm của Agnes về trạng thái mong manh của sự tỉnh táo); hoặc tiểu thuyết A Fine Balance của Rohinton Mistry (trong đó các nhân vật luôn nói về nỗ lực duy trì sự cân bằng khập khễnh giữa hy vọng và tuyệt vọng).
Chị có bao giờ cảm thấy bị dằng co giữa pháp luật và văn chương?
Tôi chưa hề cảm thấy bị dằng co giữa pháp luật và văn chương. Tôi cần sự ổn định và ngành luật cung cấp sự ổn định này cho tôi. Đời sống dạy học và cách hành văn trong ngành luật không làm xáo trộn sự cân bằng (cho dù mong manh và uyển chuyển) mà tôi đã cố gắng tạo cho mình. Tôi có thể thấy ngay kết quả sau một bài giảng và kết luận là nó đã diễn ra tốt đẹp, hay không. Cách hành văn trong ngành luật dựa trên mô hình khảo cứu; mọi cấu trúc liên hệ đến luật pháp thường phải tuân theo tiền đề lô-gích. Ngược lại, quá trình sáng tạo trong văn chương thường hỗn độn, bí ẩn, bất ngờ, và gây không ít những bực bội, hoang mang cho người viết. Trong thời gian viết tiểu thuyết tôi thường cảm thấy rằng tôi đã thất bại trong những dự định phác thảo. Phải qua một thời gian dài tôi mới có thể chấp nhận những gì đã được viết ra bởi lúc đó tôi mới thấy được thành quả của sáng tạo, rồi từ đó mới dẹp bỏ kế hoạch cũ và không bị dằn vặt nữa. Tóm lại, quá trình sáng tạo gây cho tôi rất nhiều bất an. Có thể văn chương, tuy cuốn hút tôi, tự nó mang tính chất ngang ngạnh, bất tuân. Văn chương là lỗ đen, vật chất tối, mảnh vỡ, vết nứt.
Chị đề cập đến Truyện Kiều trong Sen và Bão, qua sự so sánh giữa Kiều và Quý — nhân vật người mẹ. Quý tận dụng sắc đẹp của mình để cứu những người đàn ông trong đời bà. Quý là một phụ nữ kinh doanh với kiến thức cao, nguồn lực tài chính và môi giới xã hội rộng lớn. Quý có nhiều tự do cá nhânhơn những phụ nữ Việt Nam trong thập niên 60 ở Sài Gòn. Tại sao Quý phải dùng tình dục, thay vì trí tuệ, như một vũ khí thương lượng?
Đúng là Quý có kiến thức giáo dục, nguồn lực tài chính và kinh nghiệm trong thế giới kinh doanh. Nhưng thế giới kinh doanh chỉ là một thị trường mà nhiều phụ nữ – ngay cả khi họ tiếp cận với nó – không nắm chủ quyền hay ưu thế. Có những thị trường khác, như quan hệ tình dục và sắc đẹp, mà lịch sử và các nền văn hóa thường dồn phụ nữ vào. Thật ngậm ngùi khi thấy tình dục thường là một lựa chọn chính, nếu không phải là lựa chọn duy nhất, cho phụ nữ.
Nguyễn Du mở đầu Truyện Kiều bằng hai câu thơ, “Trăm năm trong cõi người ta, / Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau.” Chị có nghĩ rằng sự xung đột trong Truyện Kiều giữa tài năng và số phận cũng làbi kịch quốc gia của miền Nam Việt Nam: những vị lãnh đạo miền Nam, ảnh hưởng bởi Nho giáo, đãkhông có cơ hội hoặc không đủ kiến thức thực dụng để thành lập một guồng máy chính quyền dựa trên pháp trị?
Trong thời điểm lúc Nguyễn Du viết Truyện Kiều, nhà Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn đang tranh chấp quyền lực, mặc dù mỗi nhóm đều rêu rao là phò nhà Lê. Người Pháp cũng đang nhòm ngó vào Việt Nam. Tại Nhật Bản, khoảng 30 năm sau khi Nguyễn Du qua đời, Đại tá Hải quân Hoa kỳ là Matthew Perry cũng cho tàu tiến vào hải cảng Edo để buộc Nhật Bản mở cửa thương mại với phương Tây. Nhưng Việt Nam không có cơ hội trải qua một thời đại tương đương với thời Minh Trị của Nhật Bản, mà các sử gia tin rằng đã đặt nền móng cho quá trình hiện đại hóa của quốc gia này. Trong thời đại Minh Trị (1868-1912), nhờ các phe phái phong kiến dẹp bỏ những tị hiềm chính trị và tuyên dương lòng trung thành với hoàng đế [Mutsuhito], nước Nhật đã tạo dựng một guồng máy chính trị thống nhất, quy củ – yếu tố cần thiết để kháng lại ý đồ xâm lược của phương Tây. Để có được một quốc gia mạnh, Nhật Bản đã trải qua một quá trình “duyệt xét tâm linh” (soul-searching) rồi áp dụng những triết lý tốt đẹp nhất của phương Tây cùng lúc duy trì những điểm sáng từ truyền thống văn hóa Á Đông. Nền tảng pháp luật do đó đã cấu tạo một chính quyền trung ương tại Nhật bản. Việt Nam không hề có cơ hội này. Chúng ta lãng mạn hóa định mệnh. Thay vì phát triển ý thức dân tộc bao quát, mạnh mẽ, tinh thần đoàn kết của chúng ta thường ngả về khía cạnh vi mô – những quan hệ tình cảm thiên về cá nhân, gia đình.
Vì vậy, tôi nghĩ rằng Việt Nam chưa có một căn bản văn hóa chính trị khuyến khích những thảo luận vô tư, khách quan, hoặc những quy luật vượt lên trên sự trung thành bè đảng, bạn bè và gia đình. Mọi tranh chấp và dị biệt thường trở thành cơ hội cho các cá nhân thao tác, phao tin và tẩy chay hơn là nỗ lực đạt đến những đối thoại xây dựng, ôn hòa dựa trên tinh thần đa nguyên. Nhà xã hội học người Đức Ferdinand Tonnies mô tả hiện tượng này như sự phân đôi giữa Gesellschaft (xã hội) và Gemeinschaft (cộng đồng). Tôi xin lỗi nếu cái nhìn của tôi có phần khắc nghiệt và tất nhiên tôi không dám vơ đũa cả nắm, vì dĩ nhiên có những trường hợp ngoại lệ. Tôi mong rằng với thời gian, người Việt chúng ta sẽ có được một tinh thần xã hội vượt ra ngoài vòng rào của phe đảng, cộng đồng.
Một số thông tin trên mạng thuật lại rằng thân phụ của chị đã chính thức chịu ơn mẹ chị, là người đã cứu mạng ông vào năm 1963 khi bà thuyết phục các tướng tá trong phe đảo chính trả tự do cho ông. Có lẽ đây cũng là một trường hợp ngoại lệ, khi thực tại, không phải văn chương, đã chứng minh rằng lý trí và sự ôn hòa có thể chiến thắng chính trị?
Vâng, đúng vậy, [trường hợp bố tôi] là một ngoại lệ!
Sen và Bão mô tả một cách sống động chiến lược quân sự và những trận đánh trong chiến tranh Việt Nam, từ cái nhìn của người miền Nam. Có những chi tiết nên thơ nhưng căng thẳng, như đoạn văn tả cuộc hành quân của VNCH vào Cao Miên để ngăn chận sự lưu thông của Cộng sản dọc đường mòn Hồ Chí Minh: "Chúng tôi tiến bước trong bầu im lặng nghiêm trầm. Mỗi người thắt trên vai mình một mảnh vải trắng. Người đi sau dán mắt vào những vòng trắng chìm nổi, để giúp họ giữ vị trí trong cột diễn hành uốn éo, nhấp nhô"(“We marched in ponderous silence. Each man has a ragged patch of white cloth tied to his shoulder. The soldier behind fixed his eyes on the floating whiteness, ensuring that he would remain in position within the undulating column”) [Chương 10 – Across the Border (Vượt Biên Cương)]. Có phải chị đã phác họa khung cảnh chiến lược theo kinh nghiệm cá nhân của thân phụ chị, hoặc từ quyển The Final Collapse (Những Ngày Cuối Cùng của Việt Nam Cộng Hòa) – là tài liệu chuyên khảo quân sự của ông? Hoặc chị cũng tham khảo các nguồn tài liệu lịch sử khác? Tôi thường dùng cụm từ "miền Nam Việt Nam" để nói về những người dân sinh sống ở miền Nam Việt Nam trước 1975. Tôi không có ý hạn chế cụm từ này cho những người được sinh ra và lớn lên ở miền Nam, vì “người miền Nam” cũng bao gồm dân miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 và đã coi miền Nam Việt Nam như quê quán thứ hai của họ.
Một số chi tiết trong Sen và Bão đã được dựa trên những câu chuyện cha tôi kể lại cho tôi. Khi cha tôi chỉ huy lữ đoàn nhảy dù, ông đã bị thương trong một trận chiến dọc biên giới Việt-Miên. Cuộc chiến đó trở thành mô hình cho chiến dịch Cao Miên trong tiểu thuyết. Các chi tiết khác được dựa trên kinh nghiệm cá nhân của người anh họ tôi, một kỵ binh trong quân đội miền Nam Việt Nam, hoặc từ anh trai tôi, là người đã gia nhập quân đội VNCH vào năm 1974.
Việc tra cứu các tài liệu quân sự qua sách vở hoặc qua các công cụ internet thường chú trọng vào những dữ kiện lịch sử nhiều hơn, chẳng hạn như binh chủng nào của Việt Cộng hay Bắc Việt đã tấn công Huế hoặc Sài Gòn trong dịp Tết Mậu Thân? Năm nào là năm một trận chiến nổi tiếng đã xảy ra? Trong hơn 30 năm vừa qua, tôi đã đọc hàng chục nếu không phải là hàng trăm cuốn sách về chiến tranh Việt Nam (cùng các phong trào phản chiến). Hầu hết những sách này được viết bởi người Mỹ. Nhưng tôi cũng đã đọc nhiều tài liệu chiến tranh của các vị lãnh đạo miền Nam (viết bằng tiếng Anh), mà số đông đã được sự tài trợ của Trung tâm Quân đội Mỹ chuyên về Lịch sử Quân sự. Tôi cũng tham khảo quyển A Distant Cause (Một Lý Tưởng Xa Vời) của Bùi Công Minh, mà tôi đã đề cập trong phần cảm tạ của sách.
Tướng Cao văn Viên và Tướng Westmoreland
Chị đã phát biểu trong một cuộc phỏng vấn rằng chiến tranh Việt Nam vẫn cần phải được “phiên dịch” cho người Mỹ vì cách người Việt tị nạn nhận thức về cuộc chiến rất khác với cách nó được định nghĩa qua kinh nghiệm của người Mỹ. Lời nhận xét của chị làm tôi nhớ tới câu nói trước đây của một nhà văn hải ngoại, "Sáng tác bằng tiếng Anh là để giải thích văn hóa Việt Nam cho người Mỹ, nhưng sáng tác bằng tiếng Việt là để tâm tình với người nhà." Nhu cầu phiên dịch quan điểm của người miền Nam – một quan điểm hầu như chưa được phổ biến trong giòng chính nước Mỹ — có ảnh hưởng đến cấu trúc nghệ thuật của chị hay không?