Thursday 26 March 2015

THOÁT KHỎI GỌNG KỀM - Trần Trung Chính

Cách nay khoảng 10 -15 năm,  ông Bùi Diễm – cựu Đại Sứ VNCH  tại Hoa Kỳ, có xuất bản quyển sách có tựa đề GỌNG KỀM LỊCH SỬ. Mặc dù chưa được đọc toàn thể quyển sách này, nhưng những gì mà tôi đã đọc thì không có mới lạ đối với tôi, một phần vì tôi  biết những biến cố mà ông Bùi Diễm kể trong quyển sách qua những tài liệu của tác giả khác, một phần vì tôi được nghe kể lại từ những vị đã hoạt động trong chính trường như Luật Sư Phạm Nam Sách – cựu Thượng Nghị Sĩ VNCH , như Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu – cựu dân biểu Chủ Tịch Ủy Ban Tư Pháp Định Chế Hạ Nghị Viện, như Luật Sư Nghiêm Xuân Hồng – thủ lĩnh Duy Dân Quốc Dân Đảng , nguyên Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng dưới thời Thủ Tướng Nguyễn Khánh… Theo sự nhận xét của tôi, ông Bùi Diễm được đào tạo và được huấn luyện thành chuyên gia chứ không được đào luyện để trở thành nhà lãnh đạo, cho nên tôi chọn tựa đề bài tiểu luận này là THOÁT KHỎI GỌNG KỀM, với ngụ ý là nếu biết các gọng kềm của các đại cường vây bủa quốc gia nhỏ bé là Việt Nam, thì nhà lãnh đạo đất nước phải tìm ra được phương cách thoát khỏi được các gọng kềm đó.

Ngày 25 tháng 3 năm 1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu của chúng ta viết một bức thư cầu viện đến Tổng Thống Gerald Ford và Quốc Hội Hoa Kỳ để có phương tiện chống trả cuộc xâm lăng của Cộng Quân Bắc Việt, nhưng không được đáp ứng. Trong bài viết này, tôi không nêu ra chi tiết bức thơ để cảm thương cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, cũng không trách móc Tổng Thống Ford hay Quốc Hội Hoa Kỳ (do Đảng Dân Chủ chiếm đa số), vì 40 năm qua rất nhiều người Việt Nam khác đã làm rồi.

Trong lịch sử Việt Nam cũng có những trường hợp tương tự : Trịnh Kiểm và Trịnh Tùng nhiều lần tấn công nhà Mạc để lấy lại giang sơn, nhưng không thành công. Phía nhà Mạc cử tướng Mạc Kính Điển – là em của vua Mạc Phúc Nguyên ,cũng 10 lần tấn công Thanh Hóa nhưng cũng thất bại. Trịnh Kiểm cũng 6 lần đem quân ra Sơn Nam tấn công nhà Mạc : năm 1559, Trịnh Kiểm đem 6 vạn quân  ra đánh mặt Bắc, đã lấy được những tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Kinh Bắc (Bắc Ninh sau này) và các huyện mặt Hải Dương, những tưởng đã sắp thành công, nhưng tướng Mạc Kính Điển đem một đao quân đi đường bộ vào đánh Thanh Hóa nguy cấp lắm. Trịnh Kiểm phải bỏ mặt trận phía Bắc để rút về giữ Thanh  Hóa (Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim – Tập II, trang 20).

Việt Nam Cộng Hòa và Bắc Việt giống như 2 hàng xóm nhà ở kề cận nhau, phía Bắc Việt luôn luôn tấn công đốt phá VNCH . Hoa Kỳ chỉ viện trợ xăng cho VNCH chạy máy bơm dập tắt các ngọn lửa mà Bắc Việt đã  đốt căn nhà của VNCH. Sau năm 1973, Hoa Kỳ đã rút khỏi VNCH ( thông qua Hiệp Định Paris 1973) và từ từ cắt bớt quân viện , trói tay quân đội VNCH để…chấm dứt chiến tranh !!! Các lãnh đạo của VNCH chỉ xin Hoa Kỳ viện trợ như cũ để chạy máy bơm dập tắt các ngọn lửa, mà không ai nghĩ đến việc đem số xăng ít ỏi hơn xưa, chạy qua nhà của Bắc Việt đốt luôn nhà của tên phá hoại này để giải vây tự cứu lấy mình mà không cần Hoa Kỳ cấp thêm xăng. Tương tự như tướng Mạc Kính Điển không đủ sức tái chiếm hoặc đánh bật quân của Trịnh Kiểm ra khỏi các nơi mà Trịnh Kiểm đã chiến thắng, tướng Mạc Kính Điển đem bộ binh vào tấn công Thanh Hóa, tình hình trở nên nguy cấp vì ngay tại Thanh Hóa không còn quân để giữ thành nên Trịnh Kiểm phải rút bỏ mặt trận phía Bắc, trở lại giữ Thanh Hóa.

Bây giờ đọc lại bức thư của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gửi Tổng Thống Ford và Quốc Hội Hoa Kỳ, mọi người đếu cảm thương cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là một vị lãnh đạo quốc gia có lòng với đất nước , hay hoặc là tự than trách quốc gia chúng ta là nhược tiểu nên không cưỡng nổi áp lực ghê gớm  của siêu cường Hoa Kỳ !!!

Trong môn QUẢN TRỊ KINH DOANH, các vị giáo sư đã dạy chúng tôi nguyên tắc 3M để đạt được thành quả tốt đẹp của quản trị trong kinh doanh, đó là : MANNER  -  MAN  và  MONEY  (dịch nghĩa : PHƯƠNG CÁCH – CON NGƯỜI  và TIỀN BẠC ). Theo ý kiến chủ quan của tôi, phía Hoa Kỳ đã tảng lờ thỉnh cầu của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vì một số lý do sau đây :

1. Lý do thứ nhất : sau 8 năm tham chiến, quân đội Hoa Kỳ đã đạt được mục tiêu chiến lược là tiêu diệt được 3 triệu quân Bắc Việt, có nghĩa là tiêu diệt được tiềm năng chiến tranh của Bắc Việt, cho nên Hoa Kỳ không muốn chi tiêu vào những mục tiêu nhỏ : Hoa Kỳ muốn để dành tiền bạc, thời giờ và sáng kiến để đốn ngã Liên Sô trong bàn cờ chính trị toàn cầu hơn là chú ý vào mục tiêu cục bộ tại Việt Nam!

2. Lý do thứ hai : Trong bài diễn văn nhậm chức, Tổng Thống Gerald Ford  có đọc một đoạn quan trọng (mà người Việt chúng ta ít ai để ý) : “…tôi lên làm Tổng Thống Hoa Kỳ không thông qua cuộc bầu cử, cho nên tôi không bị ràng buộc bởi bất kỳ cam kết nào…”. Điều đó có nghĩa là những cam kết của Tổng Thống Nixon trong thư tay mà ông gửi riêng cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sẽ bị Tổng Thống Gerald Ford  không cần biết (ignore)

3. Lý do thứ ba : Từ lúc trưởng thành cho đến năm 1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gắn liền với đời sống quân ngũ và chiến tranh (lần thứ nhất 1946- 1954 và lần thứ hai 1965-1975) cho nên ông không hề biết nguyên tắc làm việc của ngân hàng và cũng không ai nói cho ông biết điều căn bản này : “Nhà bank có tiền, nhưng không bao giờ có phương cách (MANNER) để sản xuất ra “sản phẩm mới” hầu cho thân chủ vay mượn”. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu viết thơ cho Tổng Thống Ford và Quốc Hội Hoa Kỳ xin gia tăng quân viện, có nghĩa là ông xin đi vay và chấp nhận phân suất bao nhiêu cũng được (bằng cách bán dầu lửa sau này). Nhưng đơn xin vay nợ của ông bị tảng lờ vì ông không đưa ra đươc phương cách giải quyết tên phá hoại Bắc Việt ,tiếp tục nhận viện trợ của Nga- Tàu lấn chiếm miền Nam bất kể tổn thất nhân mạng của dân chúng miền Bắc.

Lịch sử là những sự kiện lập lại (nhưng không lập lại y hệt), vì vậy dựa trên suy nghĩ và hành xử của tướng Mạc Kính Điển vào năm 1559 (xin xem lại phần trước) đáng lẽ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phải dùng một phần quân lực VNCH tiến quân ra Bắc, đánh thẳng vào Hà Nội để phá vỡ huyền thoại “bách chiến bách thắng” của bọn lãnh đạo Việt Cộng đồng thời phá nát hạ tầng cơ sở của Bắc Việt cung ứng cho cuộc chiến xâm lược miền Nam. Tôi mô phỏng những suy nghĩ của tôi trong cuộc tiến quân ra Bắc như sau :

Cánh quân thứ nhất : năm 1975 Sư Đoàn Thủy Quân Lục trấn đóng tại Quảng Trị, Tổng Thống  Thiệu sẽ sử dụng 2 lữ đoàn của Sư Đoàn TQLC đổ bộ Quảng Bình rồi tiến quân về phía Tây và tiến chiếm tỉnh Hà Tĩnh (phải chiếm được hải cảng Vinh) để lập đầu cầu cho Hải Quân VNCH vận chuyển 3 Liên Đoàn Biệt Động Quân đổ bộ vào hải cảng Vinh.  2 lữ đoàn TQLC không cần giữ mặt biển và quốc lô số 1, mà phải tiến về phía Tây , triệt để phá hủy các kho vựa, đạn dược, nhiên liệu và tất cả hệ thống giao thông tại vùng này để ngăn chăn quân Bắc Việt rút lui về Bắc, dĩ nhiên không thể để yên cho quốc lộ số 7 từ Vinh đi Savanakhet.

Cánh quân thứ hai : 3 Liên Đoàn Biệt Động Quân sau khi lên bờ ở hải cảng Vinh sẽ mau chóng tiến chiếm Nghệ An, Thanh Hóa và án ngữ tại ranh giới giữa Ninh Bình và Thanh Hóa, tương tự như tướng Ngô Văn Sở án ngữ tại Đèo Tam Điệp để ngăn chận quân Thanh và quân nhà Lê tỏa rộng xuống phía Nam. Cánh quân thứ hai này không án ngữ tại các thành phố hay tỉnh lỵ vừa kể mà tiến về phía Tây phá nát các kho vựa và đường giao thông để quân Bắc Việt không có đường trở về Bắc. Mặt khác chận đánh các cánh quân Bắc Việt toan tiếp cứu các tỉnh miền Trung.

Cánh quân thứ ba : Tổng Thống Thiệu sẽ sử dụng 1 Lữ Đoàn Dù và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù (cùng với phương tiện vận chuyển của Hải Quân  đổ bộ vào hải cảng Vinh) nhưng vượt qua Ninh Bình để tiến về Hà Nội. Cánh quân thứ ba này sẽ vào Hà Nội phá nát Bộ Tổng Tham Mưu quân Bắc Việt, phá nát hệ thống truyền tin và truyền thanh của Bắc Việt cũng như các tòa nhà hành chánh và kho vựa của Bắc Việt. Đặc biệt Liên Đoàn 81 Biệt cách Dù đem theo nhiều mìn (địa lôi) công phá để phá vỡ hệ thống đê điều tại vùng Hà Nội và phụ cận. Cánh quân thứ ba này chỉ lưu lại Hà Nội tối đa 72 giờ rồi rút về Thanh Hóa. Trên đường rút quân, tất cả các cây cầu từ Hà  Nội đi Ninh Bình, Nam Định , Phủ Lý, Hà Nam…đều bị phá hủy.  
                                                                                                                                 
Cánh quân thứ tư : một Lữ Đoàn Dù cùng đổ bộ ở vị trí  như cánh quân thứ ba, nhưng thay vì đi Hà Nội Lữ Đoàn Dù thứ hai này theo quốc lộ số 5 tiến về Hải Phòng tập kích hải cảng này từ phía lục địa. Mũi nhọn chính của cánh quân thứ tư này là các tuần dương hạm, khu trục hạm…có đại bác 127 ly và ngư lôi sẽ tấn công càng Hải Phòng từ phía biển. Tất cả các thương thuyền hay vận tải hạm của bất kỳ quốc gia nào đậu ở cảng Hải Phòng đều bị bắn hạ (bất kể treo cờ Liên Sô, Trung Cộng hay Ba  Lan chúng ta đều không care vì chắc chắn không có chiếc tàu nào treo cờ Mỹ hay Nhật Bản cả). Sau  khi cảng Hải Phòng tan hoang, Lữ Đoàn Dù sẽ tức tốc dùng đường bộ rút về Thanh Hóa như Liên Đoàn 81 vậy.

Tất cả các đơn vị tham dự kế hoạch Bắc Tiến này sẽ rút về hải cảng Vinh rồi trở lại miền Nam (chúng ta không có ý định giải phóng miền Bắc). Sau đó đoàn tàu chiến của Hải Quân VNCH từ Hải Phòng trở về sẽ tập trung hỏa lực phá nát hải cảng Vinh (Bắc Việt chỉ có 2 hải cảng Hải Phòng và Vinh, cho nên về sau có tu sửa đề sử dụng lại thì phải mất nhiều thời gian). Riêng 2 Lữ Đoàn TQLC thì có thể dùng đường bộ từ Hà Tĩnh và Quảng Bình quay trở lại Quảng Trị mà không nhất thiết phải đi nhờ Hải Quân.

Kế hoạch nghe dễ dàng cứ như đùa, vì Bắc Việt đã kéo 14 sư đoàn bộ binh chủ chiến vào Nam hết cả rồi, ngoài Bắc chỉ còn 1 sư đoàn phòng không (e sợ Hoa Kỳ tái oanh tạc như Tổng Thống Nixon đã hăm he) và các lực lượng giống như Nhâ Dân Tự Vệ của miền Nam, chỉ để phòng thủ. Do đó, sư đoàn phòng không  và các lực lượng dân phòng không có khả năng để đối đầu với các đại đơn vị của TQLC, Nhảy Dù, Biệt Động Quân và Biệt Cách Dù được (nhất là không có khả năng di chuyển và không có súng cộng đồng).

Khi các đơn vị thiện chiến của VNCH rút về Nam thì không chừng các Tư Lệnh  chiến trường của quân Bắc Việt sẽ xin đàm phán với chính phủ VNCH để lập lịch trình rút quân, hoặc giả họ sẽ lẳng lặng thu quân rồi rút êm qua ngả đường mòn Hồ chí Minh để về Bắc. Và bọn cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam như Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng… sẽ bị đám tướng lãnh này thanh toán.

Trung Tá Lê Quế Lâm – tùng sự tại phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu, hiện định cư tại Australia, vào đầu xuân 2015 có mượn vế đáp của Ngô Thời Nhiệm để đưa ra nhận định như sau : “Thế Liên Sô, Thế Hoa Kỳ, gặp thời thế, thế thời phải thế”  . Trước 1991, Việt Cộng tưởng là Liên Sô “vô địch muôn năm” nên theo Liên Sô hết mình. Khổ nỗi , Hoa kỳ vật Liên Sô chết mà không cần phải chiến tranh (xin xem VICTORY WITHOUT  WAR của RICHARD NIXON). Bây giờ, 2015, Trung Cộng thay thế Liên Sô mở cuộc chơi games với Hoa Kỳ, thực lực của Trung Cộng không lấy gì làm mạnh giỏi cho lắm nên kết quả sẽ như thế nào thì 70% đảng viên Đảng CSVN đều đoán biết (trong khi 95% dân chúng thì biết quá rõ bằng cớ là tất cả du học sinh xin đi học ở Hoa Kỳ, Australia hay Canada…không thấy ai đi học tiếng Tàu để đi du học bên Tàu cả !)

Tôi hiệu chỉnh một chút lời phóng tác của Trung Tá Lê Quế Lâm để chấm dứt bài viết này, đó là :
“ Thế Trung Quốc, Thế Hoa Kỳ, dẫu thời thế, thế thời thì thế”

San José  25 tháng 3 năm 2015
(Kỷ niệm 40 năm Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gửi thư cho Tổng Thống Gerald Ford : 3/25/1975  -  3/25/2015)


Trần Trung Chính