Thành phố Budapest diện tích 525 km2, dân số
1.712.210 người, Budapest nằm hai bên bờ sông Danube, năm 1873 thống nhất giữa
Buda và Óbuda bờ tây (hữu ngạn) và Óbuda với Pest ở bờ đông. Trở thành kinh đô
La Mã của Hạ Pannonia. Người Magyar đã đến lãnh thổ này vào thế kỷ 9. Khu định
cư đầu tiên của họ bị cướp bóc bởi quân Mông Cổ giai đoạn năm 1241-42. Budapest
được tái thiết lập đã trở thành một trong những trung tâm của văn hoá vào thế kỷ
15. Từ 1446 đế quốc Ottoman tấn công liên tục chiếm Hungary (mời xem tài liệu lịch sử tóm lược của Hungary cuối bài)
Đầu thế kỷ 17, đế
quốc Ottoman bắt đầu suy yếu, cuộc đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ kết thúc với Hiệp ước
Karlowitz ngày 26.1.1699, đế quốc Ottoman phải nhượng cho đế quốc Áo một số
vùng lãnh thổ của Hungary…Sự phát triển khu vực đã chuyển sang một giai đoạn mới
thịnh vượng vào các thế kỷ 18 và 19 và Budapest là thủ đô lớn thứ nhì của
Áo-Hung, một cường quốc bị giải thể vào năm 1918. Budapest đã là khởi điểm của
cách mạng Hungary năm 1848.
Sau đệ nhị thế
chiến Hungary bị Hồng quân Xô Viết chiếm đóng buộc phải theo chủ nghiã cộng sản
độc tài như các quốc gia khác ở Đông Âu. Thời chủ nghiã CS cai trị, dân tộc
Hungary từng đứng lên đòi hỏi tự do dân chủ như: cuộc chính biến
Hungary 1956 và sự kiện Hungary mở cửa đường biên giới
đầu tiên ngăn cách giữa Hungary và Áo năm 1989, đưa đến sự sụp đổ khối „Xã Hội Chủ
Nghĩa“ Đông Âu. Nhờ từ bỏ chế
độ độc tài CS, Hungary theo thể chế Cộng Hòa Tự Do và Dân Chủ. Đời sống kinh tế
phát triển, phồn thịnh. Dòng
sông Danube dài 2850 km chảy qua nhiều thành phố của 9 quốc gia, trong đó có 4
thủ đô: Vienna (Áo), Brastilava (Slovakia), Belgrade (Serbia) và Budapest
(Hungary). Thủ đô Budapest có
nhiều phong cảnh hữu tình, là
một trong những thành phố đẹp ở Châu Âu, thu hút hàng triệu du khách mỗi năm đến
thăm.
Xa lộ từ Wien sang Budapest phải trả tiền thuế đường,
mua Vignett ở các cây xăng lớn gần biên giới, xa lộ rộng 3 lane tốc độ cho phép
tối đa 130km/h. không có cảnh sát lưu thông chận xe xét hỏi vòi tiền. Hai bên
đường là những cánh đồng rộng mênh mông, diện tích của Hungary 93.036 km² dân số
khoảng 10 triệu, mật độ trung bình 107/km² bởi vậy hai bên xa lộ rất ít thấy làng
mạc của nông dân. Thành phố nhà cửa được tu sửa khang trang hơn 26 năm trước, kiến trúc ở đây theo phong cách Gothic Tân Phục Hưng, với
những nét cổ kính, dù trải qua chiến tranh, những khu nhà cổ không bị bom đạn tàn
phá.
(Kiến trúc Gothic ra đời sau thời kỳ kiến trúc
Roman. Khoảng năm 1200 sau CN, người Châu Âu bắt đầu xây nhà thờ và cung điện
theo kiểu kiến trúc Gothic. Sự khác biệt dễ dàng nhận thấy nhất giữa hai lối kiến
trúc Trung cổ này là kiến trúc Roman theo kiểu vòm cong tròn thì kiến trúc
Gothic lại theo kiểu vòm nhọn, chiều cao hơn là sự hợp nhất về không gian, ánh
sáng và màu sắc có cửa sổ nhiều hơn và kích thước cửa sổ cũng lớn hơn kiến trúc
Roman…. Rất nhiều những công trình lớn là những kiệt tác kiến trúc vô giá được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Thời kỳ hưng thịnh của kiến trúc
Gothic từ giữa thế kỷ 18 ở Anh và lan rộng khắp Châu Âu trong suốt thế kỷ 19,
sau đó vẫn ảnh hưởng rất mạnh trong các kiến trúc về nhà thờ và các trường đại
học cho đến tận thế kỷ 20).
Hotel sạch sẽ nhân viên phục vụ lịch thiệp, có chỗ đậu
xe an toàn. Tránh trường hợp bị mất xe, chúng tôi mua ticket đi theo Big Bus
„hop-on, hop-off“ giá trị 2 ngày 25€ rất tiện (nếu mua trước trên Internet rẻ hơn,
trả 22,50€), Bus chạy qua 27 điạ danh đẹp
nổi tiếng của Budapest. Du khách muốn xuống trạm nào mình thích xem và tiếp tục
đi những chuyến kế tiếp. Big Bus chạy từ 9 giờ sáng đến 20:05 tối. Du Khách muốn
có những Info. thì đến trạm thứ 24 là Big Bus Cente để hỏi. Chuyến xe duy nhất
chạy quanh phố ban đêm (night tour) lúc 20 giờ tại trạm số 11 (blue tour start
Point). Muốn đi tàu hay ăn tối trên sông (River Cruise/ Dinner Cruise) phải xuống
trạm số 13 (Petofi SQ). Ăn tối trên du thuyền thưởng thức nhạc hay các xem vũ điệu
dân tộc trang phục cổ truyền của Hungary. Tour đi bộ có hướng dẫn viên, ghé đảo
Margaret Island. Trên xe có thể nghe tiếng Anh-Pháp-Đức (gồm 23 ngôn ngữ nhưng
không có tiếng Việt như Big Bus ở Praha/Prag).
- Hungarian
Parlament/Tòa nhà Quốc hội dài 268 mét, nằm ngay
cạnh sông Danube mô hình như các cung điện Westminster của Nghị viện Anh „Big
Ben“ ở London. Bắt đầu vào năm 1885 với
việc xây tòa nhà Quốc hội lớn nhất thế giới được hoàn thành vào năm 1904.
Năm 1873 thống
nhất ba thành phố Buda, Pest và Óbuda đến Budapest. Bảy năm sau, nó đã được quyết
định xây dựng một tòa nhà quốc hội mới để tượng trưng cho sự độc lập và chủ quyền
của quốc gia. Ngày 22.4.1883 được kiến trúc sư người Hungary Imre Steindl xây
các tòa nhà như Bảo tàng Dân tộc học và Bộ Nông nghiệp. Hầu hết các thiết kế theo
phong cách thời tân phục hưng, cũng như những đóng góp của Otto Wagner và các
văn phòng nổi tiếng Fellner & Helmer. hướng dẫn xây theo mẫu của người Anh.
Việc xây Quốc hội
bắt đầu vào năm 1885. Khoảng 1.000 công nhân, vật liệu hơn 40 triệu đá, trong đó có một nửa triệu đá
quý, được sử dụng khoảng 40 kg vàng cho
tòa nhà. Tòa nhà được mở ra vào năm 1896 để dự lễ kỷ niệm Thiên niên kỷ, nhưng cuối
cùng cũng hoàn thành các công trình xây dựng đến năm 1904. rất tiếc kiến trúc
sư Imre Steindl không bao giờ nhìn thấy công trình của chính mình, bởi vì ông bị
mù trước khi hoàn thành nó.
Mặt tiền của Quốc
hội theo phong cách Gothic đặc trưng bởi vô số tháp. Quốc hội có chiều dài 268
m, rộng 123 m, cao 96 m, có 10 sân, 13 thang máy cho hành khách và vận tải hàng
hóa, 27 cửa vào, 29 cầu thang, 691 phòng (trong đó có hơn 200 phòng chính làm
việc và tiếp khách) và 365 pháo tháp. Bên trong tòa nhà được trang trí theo trường
phái cổ điển, mà các bức họa miêu tả lịch sử của Hungary. Tòa nhà quốc hội bao
gồm ba phần. Nằm trực thuộc Trung ương là đại sảnh vòm với phù hiệu hoàng gia
Hungary. Bắc và phía nam của nó là phòng họp. và những phòng khác bao gồm các
văn phòng của Tổng thống Cộng hòa, Thủ tướng Chính phủ và Quốc hội lưỡng viện,
hai phòng họp lớn giống hệt nhau.
Mùa hè ở
Budapest tương đối nóng, các kiến trúc sư của Quốc hội đã phát minh ra một loại
máy điều hòa không khí đặc
biệt. Họ đặt hai đài phun nước ở phía trước của tòa nhà có hệ thống là những
khe hở đã được sử dụng để lưu thông không khí. Những đường dẫn từ giếng vào Quốc
hội cung cấp không khí tươi mát từ hơi nước lạnh vào phòng họp.
- Pháo đài Fishermen‘s Bastion
(Halászbástya Hungary) là
một trong những tòa nhà nổi bật nhất ở Budapest
xây từ 1899-1905. Nó nằm ở phía
bên trên đồi Buda. Các tòa lâu đài và tu viện thời trung cổ được xây dựng gần
nhà thờ đứng trên sân thượng nhìn xuống toàn cảnh độc đáo của dòng sông Danube
và Pest. Di tích các tòa nhà với
tháp hình nón, 7 tháp của pháo đài biểu tượng cho 7 bộ tộc
Magyar
đã khai phá bờ tây tận dụng địa thế đồi núi, bảo vệ đất nước thành lập Hungary.
Bức tường dài pháo đài dài 140m xây
để bảo vệ lâu đài, các tầng cầu thang đi lên để du khách xem phong cảnh. Khu nầy còn bức tượng bằng đồng cưỡi ngựa
của Vua Stephan I nhà điêu khắc Alajos Strobl dựng
năm 1906 theo phong cách tân cổ
điển. Các bệ của bức tượng được
xây dựng theo kế hoạch của Frigyes Schulek, Fisherman
(ngư phủ) được xây để tưởng nhớ đến công ơn của những ngư dân trong công cuộc bảo
vệ đất nước.
-Matthias Church/ Mátyás templom. Vương
cung thánh đường nầy hơn 700 tuổi.
được UNESCO công nhận di sản thế giới, xây theo
phong cách hậu Gothic của giai đoạn này là những họa tiết trang trí mềm mại như
ngọn lửa rực sáng. Đây là nhà thờ lớn thứ hai của Buda thời Trung Cổ, đầu tiên
có tên là nhà thờ Đức Mẹ, sau này được đặt theo tên vua Matthias ở thế kỷ 19.
Các cửa ngõ phía
Đông của nhà thờ được xây vào thế kỷ thứ 13, khi Buda được thành lập sau cuộc
xâm lược Mông Cổ. Phần trung tâm của nhà thờ được xây khoảng năm 1400, vào thế
kỷ 14, các vua đã đăng quang ở đây. Buda bị đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ xâm chiếm,
nhà thờ trở thành nhà thờ Hồi giáo chính của thành phố, các bức tường được quét
vôi trắng và được phủ bằng thảm. Thời gian chiếm đóng của Thổ Nhĩ Kỳ, Buda bị tàn
phá… Thế kỷ 17, nhà thờ được khôi phục lại theo phong
cách gothic „rực cháy“ đặc trưng của giai đoạn này là những hoạ tiết trang trí
mảnh và mềm mại như ngọn lửa. Matthias Church nơi tổ chức lễ đăng quang của vua
Franz Joseph và vợ Elizabeth… đến cuối
thế kỷ 19, được tái thiết lớn các tòa nhà đã được phục hồi mái nhà lợp bằng gạch
gốm Zsolnay nổi tiếng, làm cho tòa nhà thậm chí còn đẹp hơn, Matthias Church là
một trong những tòa nhà lâu đời nổi bậc nhất ở Buda. Nó không chỉ là một nhà thờ,
mà còn là một viện bảo tàng, có những bức tranh tường là những tác phẩm nổi tiếng
của các họa sĩ người Hungary. Mỗi năm, nhà thờ tổ chức những buổi tối hòa nhạc hấp
dẫn nổi tiếng gọi là "Sunday organ nights at the Matthias church“. Năm 1991, Đức Giáo Hoàng John Paul II đã
đến thăm và cầu nguyện.
- Thư viện Quốc gia Hungary (Hungary: Magyar
Nemzeti Galeria). Được
thành lập vào năm 1957 sưu tập nghệ thuật lớn nhất của Hungary từ thời Trung cổ
cho đến thế kỷ thứ 20. Chúng ta phải ngưỡng mộ nghệ thuật đúc tượng đồng, dù trơ gan cùng tuế nguyệt nhưng
không làm mất vẽ đẹp, đường nét sống động. như những bức tượng người vợ bồng
con đưa tiển chồng đi chiến đấu thật tuyệt vời như một bức tranh vẻ nét mặt buồn vời vợi
của người vợ. Bức tượng người chồng chiến thắng quân thù tay cầm thanh kiếm đạp
lên xác quân thù với nét mặt khí phách khiêu hùng. Nhưng các tượng đá sư tử ở
trên lâu đài Buda thì thiếu răng, ở trên cầu Chain Bridge không thấy lưởi!
- Đồi Lâu đài Buda (Burgpalast
/ Buda Castle Hill).
Cả một khu vực rộng lớn nổi bật lên với thành quách, lâu đài, nhà thờ tạo thành
một khu đặc sắc. Lâu đài Buda là khu di tích lịch sử lâu đài và cung điện
của các triều đại vua Hungary ở Budapest, được hoàn thành năm 1265. Vốn được gọi
là cung điện Hoàng gia. Cung điện được xây ở đầu phía nam của Đồi Lâu đài đến phía
bắc trải rộng trên diện tích khoảng 4km² với những công trình mang phong cách
Trung Cổ của thế kỷ 19. Lâu đài nầy được công nhận là di sản thế giới năm 1987.
Phía sau Đài Thiên niên kỷ là hai dãy cột tạo thành
hai bước tường hình bán nguyệt đồ sộ, mỗi cột có tượng của 7 danh nhân vĩ đại của
Hungary. Trên đỉnh hai dãy cột là 4 bức tượng biểu tượng ý nghĩa: Lao động, Thịnh vượng, Chiến tranh - Hòa
bình, Tri thức, Vinh quang. Đầu tiên là bức tượng người đàn ông mang lưỡi
hái cùng một phụ nữ đang gieo hạt giống (Lao
động và Thịnh vượng), tượng người
đàn ông ngồi trên xe ngựa và vẫy chiếc roi làm từ một con rắn (Chiến tranh). Đối diện với Chiến tranh
là Hòa bình, được mô tả bằng tượng người phụ nữ trên xe ngựa và cầm một cành cọ,
tiếp đó là tượng người đàn ông cầm một bức tượng vàng và người phụ nữ cầm cành
cọ (Trí thức và Vinh quang). Bên cạnh
quảng trường, là bảo tàng Nghệ thuật (Műcsarnok) và bên trái là Bảo tàng Mỹ thuật
(Szépművészeti Muzeum) - một trong những viện bảo tàng lưu giữ các bộ sưu tập
quan trọng nhất của mỹ thuật Châu Âu từ thời Cổ đại cho tới ngày nay. Các tác
phẩm hội họa được trưng bày theo từng thời kỳ lịch sử, thay đổi con người ảnh
hưởng về tôn giáo, chính trị và khoa học kỹ thuật trong sáng tạo nghệ thuật.
-Liberty Statue/
tượng Nữ thần Tự do (Szabadság-szobor) ở trên đồi Gellert (độ cao trên 200m), là tên của một
vị thánh tử vì đạo Gellert. Người đã truyền bá đạo thiên chúa vào Hungary thế kỷ
thứ X phía trước của Citadel. Gồm có ba pho tượng bằng đồng đen là để vinh danh
những người lính giải phóng đất nước trong thế chiến II, được xây dựng vào năm
1947. Là một tượng phụ nữ cao 14m hai tay nâng cành lá cọ (nguyệt quế), biểu tượng
của tự do và hòa bình, bức tượng khác cho thấy một người chiến đấu với nắm tay
trần của mình chống lại con rồng; bức tượng thứ ba vào việc mang lại ngọn lửa của
sự tự do. Đứng ở Citadel nhìn xuống Pest rất đẹp, xa xa những cây cầu bắt ngang
sông với dòng xe cộ lưu thông đều đều, dòng sông êm đềm trôi những chiếc du
thuyền dài như những toà nhà lưu động dưới ánh đền lung linh trên song nước.
- Những đôi giày trên bờ
của một dòng sông
Central Market
Hall /Központi Vásárcsarnok xây từ 1894-1897 theo kế hoạch của Samuel Petz. Gần trường Đại học Kinh
tế Corvinus. Chợ xây cấu trúc bằng thép mặt tiền với nhiều màu sắc, gạch men của
nhà sản xuất sứ Zsolnay. Trong chợ có hơn 180 gian hàng bán: thịt, cá, các loại
rau tươi hoa quả, quần áo.... Tầng trên có dãy cửa hàng lưu niệm, các quán ăn
nhanh và quán rượu nhỏ, chợ nầy là thị trường lớn nhất và quan trọng ở Budapest,
người dân địa phương đến mua bán, du khách thì mua qùa lưu niệm. Các món ăn được
quảng cáo là đặc sản của Hungary đắt tiền nhưng không ngon, món Gulas họ đổ lên
trên bánh mì! Du khách nên vào Restaurant, các tiệm ăn lớn có giá cả rõ ràng.
National Museum việc xây bảo
tàng quốc gia được thực hiện năm 1802, các
tòa nhà tân cổ điển thiết kế bởi Mihály Pollack. Năm 1837 được tài trợ của quốc
tế, lối vào chính theo mô hình nổi tiếng của Athens Erechtheion, đặc trưng hình
tam giác, được hỗ trợ bởi tám cột Corinthian. Các tác phẩm điêu khắc của Raffaello Monti và Mihály Pollack. Bảo tàng quốc gia
đã trở thành một điểm khởi đầu của cuộc Cách mạng năm 1848. Trong Chiến tranh
thế giới thứ hai tòa nhà bị hư hỏng nặng. Năm 1948 được xây dựng lại, trong những
năm gần đây việc xây dựng đã được khôi phục.
The Café New
York là một quán cà
phê cổ kính bên trong đẹp lộng lẫy, cột hình xoắn, tường trần nhà được chạm trổ
công phu. Công ty Bảo hiểm Nhân thọ New York năm 1890 xây tòa nhà tráng lệ nầy,
khai trương ngày 23.10.1894 qua các cuộc chiến tranh không bị hư hại. Cà phê
New York trải qua nhiều thập kỷ được ưa chuộng gặp gỡ của giới trí thức, văn
nhân thi sĩ ...uống café thơm ngon thưởng thức nhạc phẩm Blue Danube “Dòng sông
xanh” hòa tấu của nhạc sĩ Johann Strauss hay tuyệt cú mèo. http://bit.ly/W6kglz
Ở Budapest có 8 cầu bắc ngang sông Danube nối liền giữ
Buda và Pest, nhưng du khách thường đi qua 4 cầu chính của trung tâm thành phố:
- Die
Elisabethbrücke/Elizabeth Bridge xây năm 1898 cao 379 m rộng 27,55 m, Độ sâu 3.10 m 3,10
m. Mũi tên 01:10 có 4 lane xe cộ lưu thông 2 chiều và hai bên cho khách bộ hành
- Die Freiheitsbrücke/
Freedom Bridge xây
năm 1896 kỹ sư János Feketeházy dài 333 m rộng 20,1 m năm 1945 bị đặt chất nổ
giật sập, được sửa lại năm 1946. Năm 2007-2008 tu sửa toàn bộ.
- Die Margaretenbrücke/
Magaret Bridge
xây dựng 1872-1876 do kỹ sư người Pháp Ernest Gouin chỉ đạo. Cầu dài 637 m, rộng
16 m, nhịp dài nhất 87,88 m. Ngày 18.01.1945 bị quân Đức giật sập, được sửa lại
tháng 8.1948, cuối năm 1970 tu sửa và nới rộng thêm. Năm 2009 do hãng STRABAG
và Hídépítö tu sửa đến đầu năm 2011 hoàn thành.
Dân số của Hungary không đông như Việt Nam, nhưng dân
trí cao thành phố sạch sẽ, đường phố trồng nhiều cây xanh có bóng mát cho mùa hè
nắng gắt, môi trường không bị ô nhiễm, không ồn ào, rất ít thấy người ăn xin,
bán vé số, bán báo. It xảy ra nạn móc túi như ở Roma (Ý). Khu thương mãi đẹp
bán những hàng nổi tiếng thế giới rất đắt, không chụp giật, lôi kéo nói thách
trên trời, cò mồi như ở chợ Bến Thành! Chúng tôi nghe nhiều du khách đi Việt Nam
về than phiền.
Tiền thu nhập trung bình của mỗi người Hungary trong
năm là 14.703 USD. Tính theo GDP là 145.153 Billion USD, Hungary đã vượt qua những
giai đoạn suy thoái kinh tế và nợ nần...Trên đường phố có rất nhiều tiệm Thái
Massage, làm Nail chủ là người Việt, những ngày ở Budapest chúng tôi không gặp
người Việt nào. Nghe nói khu “4 con sư tử” nơi ấy có rất nhiều người Việt buôn
bán đủ các loại hàng...Dân tộc Hungary họ luôn hãnh diện, người Hungary phát minh
ra Dynamo xe đạp (khác với Dynamo Maschine chế từ năm 1867 của kỹ sư Werner von
Siemens) László Bíró chế ra bút bi (bic) năm
1930 là một đóng góp cho nhân loại.
Hình phong cảnh,
di tích lịch sử của Budapest
Nguyễn Qúy Đại
Tài liệu tham khảo: Budapest Guide
Tài liệu lịch sử tóm lược
Hungary (tiếng Đức Ungarn) là thành viên của nhiều tổ
chức quốc tế như: OECD, NATO, Liên minh Châu Âu và Hiệp ước Schengen. Hungary
là một trong những quốc gia có lịch sử lâu đời tại châu Âu. Theo tài liệu
Hungary thành lập năm 996 Thế kỉ 9 ông Arpad người Magyar đã thống nhất các bộ
lạc Magyar lại rồi đưa họ vào vùng đồng bằng Pannonia sinh sống với lượng quân
đội hùng mạnh, người Hungary đã mở nhiều cuộc chiến tranh chinh phục và thậm
chí đã từng tấn công sang tận Tây Ban Nha. Đến thời hoàng tử Geza, ông đã quyết
định đưa đất nước Hungary theo các nước Tây Âu và trở thành một quốc gia Công
giáo. Vương quốc Hungary tồn tại và phát triển qua nhiều thời kỳ và được coi là
một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa quan trọng của phương Tây.
Khoảng năm 1241-1242, đất nước Hungary bị tàn phá nặng
nề trước sự xâm lăng hung hãn của quân Mông Cổ, lúc đó đang tấn công khắp nhiều
vùng đất từ châu Á đến châu Âu. Các nhà sử học đã ước tính có khoảng một nửa
trong số 2 triệu dân của Hungary bấy giờ đã thiệt mạng trong chiến tranh. Sau
khi quân Mông Cổ rút đi, vua Béla IV đã củng cố lại sức mạnh phòng thủ của đất
nước và cho xây dựng lại nhiều pháo đài bằng đá. Kết quả là khi người Mông Cổ lại
sang xâm lấn năm 1286, họ đã bị hệ thống phòng thủ của người Hungary chặn lại và
bị đánh thua tại Pest.
Vương triều Arpad tồn tại đến năm 1301 thì chấm dứt.
Sau đó, vua Károly Róbert, người có họ ngoại với Arpad đã lên ngôi và trở thành
vị vua đầu tiên của triều đại Angevin. Dưới sự cai trị của ông, nhiều chính
sách tài chính và tiền tệ đã được tiến hành, thúc đẩy nền kinh tế Hungary phát
triển, nhiều đô thị phát triển rực rỡ. Vị vua tiếp nới của triều đại Angevin là
Lajos I Đại đế (1342-1382) đã đưa lãnh thổ Hungary mở rộng từ bờ Biển Đen đến
biển Adriatic và sau đó còn trở thành vua của Ba Lan, tạo tiền đề cho mối quan
hệ tốt đẹp giữa hai nước Hungary - Ba Lan. Sau Ý, Hungary là quốc gia đầu tiên
tại lục địa Châu Âu xuất hiện phong trào Phục Hưng. Năm 1472, một xưởng in
chính thức được thành lập tại thành phố Buda. Dưới triều vua Mátyás Corvin
(1458-1490), Hungary trở thành một trung tâm văn hóa lớn của châu Âu. Thư viện
Bibliotheca Corviniana là bộ sưu tập lớn nhất châu Âu các bộ biên niên sử, các
tác phẩm triết học và khoa học trong thế kỷ 15. Thư viện này đã được UNESCO
công nhận là Di sản văn hóa thế giới.
Vào cuối thế kỉ 15, Hungary bắt đầu suy tàn dưới sự
cai trị của vị vua bất tài Ulászló II. Năm 1514, một cuộc khởi nghĩa nông dân
bùng nổ tại Hungary nhưng sau đó bị giới quý tộc đàn áp đẫm máu. Trong khi đó,
Đế chế Ottoman ngày một lớn mạnh và uy hiếp Hungary. Năm 1521, pháo đài quan trọng
bậc nhất của Hungary tại Beograd thất thủ và đến năm 1526, quân đội Hungary bị
tiêu diệt trong trận Mohács. Cuộc cải cách tôn giáo diễn ra cùng thời gian đó tại
Châu Âu càng khiến Hungary trở nên hỗn loạn và tiến đến bờ vực sụp đổ.
Thành phố Buda và Hungary vỡ thành ba mảnh: một phần
ba ở phía tây bắc nằm dưới sự cai trị của triều đình Habsburg, một phần ba ở miền
trung (thuộc lãnh thổ Hungary ngày nay) bị Ottoman và một phần ba ở phía đông
trở thành Công quốc Transilvania, một nước lớn bán độc lập, chư hầu của
Ottoman(1526-1686) Khoảng 150 năm sau đó, triều đình Habsburg đã giành lại toàn
bộ quyền kiểm soát Hungary.
Trong thời gian này, thành phố Pozsony, tức Bratislava
(thủ đô Slovakia ngày nay) đã trở thành thủ đô mới của Hungary. Thành phố
Nagyszombat (nay là Trnava) trở thành một trung tâm tôn giáo lớn. Từ năm 1604 đến
năm 1711, những cuộc chiến chống lại ách áp bức của người Áo cũng tăng lên,
tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Rakoczi Ferenc nhưng sau đó đã bị thất bại.
Từ Cách mạng
Hungary 1848 đến Đế chế Áo-Hung
Ngày 15 tháng 3 năm 1848, những cuộc biểu tình lớn nổ
ra trên các đường phố Pest và Buda trong cao trào cách mạng tư sản đang lan khắp
Châu Âu năm 1848. Đối mặt với những cuộc nổi dậy liên tiếp ngay tại chính kinh
đô Viên, triều đình Habsburg phải tạm thời chấp nhận những yêu cầu của người
Hungary. Nhưng sau khi cuộc cách mạng tại Áo bị đàn áp, triều đình Habsburg
kích động người Croatia, Serbia và Romania chống lại chính phủ Hungary. Chính
phủ cách mạng của Hungary cũng nhận được sự ủng hộ của một bộ phận lớn người
Slovak, Đức, Rusyn, Do Thái. Tướng János Damjanich, một người Serbia trở thành
người anh hùng lịch sử của dân tộc Hungary khi lãnh đạo một đội quân cách mạng
của nước này. Lúc ban đầu, quân đội Hungary giành được một số thắng lợi nhưng
sau khi triều đình Habsburg cầu viện nước Nga, quân Nga hoàng đã tràn vào và dập
tắt cuộc khởi nghĩa. Ngày 6 tháng 10 năm 1849, 13 vị tướng lĩnh trong quân đội
cách mạng Hungary và thủ tướng Lajos Batthyany đã bị xử tử.
Sau khi nước Áo bị quân Phổ đánh bại năm 1866, để củng
cố quyền lực của mình tại châu Âu, đế quốc Áo đã liên kết với vương quốc
Hungary để thành lập Đế quốc Áo-Hung (năm 1867), được thành lập,theo chế độ
quân chủ ở Trung Âu, từ năm 1867 đến năm 1918, bao gồm đế quốc Áo (thủ đô Viên)
và vương quốc Hungary (thủ đô Budapest), do hoàng đế Áo thuộc dòng họ Habsburg
gốc Đức trị vì. Đế quốc Áo-Hung được thành lập dựa trên sự hợp nhất đế quốc Áo
và vương quốc Hungary lãnh thổ của đế quốc này bao gồm toàn bộ lưu vực sông
Donau mà bây giờ là lãnh thổ của nhiều quốc gia ngày nay như Áo, Cộng hoà Séc,
Slovakia, Slovenia, Hungary, Croatia và 1 phần lãnh thổ của Serbia, România, Ba
Lan, bao gồm 73 triệu dân. Trước năm 1914, đế quốc Áo-Hung có diện tích đứng thứ
hai châu Âu (sau đế quốc Nga) và dân số đứng thứ 3 Châu Âu (sau đế quốc Nga và
đế quốc Đức). Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, đế quốc Áo-Hung tham gia phe
Liên minh, cùng Đế quốc Đức và Ý Chiến tranh kết thúc, phe Liên minh bại trận và
đế quốc Áo-Hung tan rã vào tháng 11 năm 1918. Ngày 10. 9. 1919 đã tách đế quốc
Áo-Hung thành 2 quốc gia. Ngày 12 tháng 11, Quốc hội lâm thời của Áo tuyên bố
thành lập nước Cộng hòa Áo, chấm dứt hoàn toàn sự thống trị của nhà Hasburg.
Hungary giữa hai
cuộc thế chiến
Sự khác nhau về biên giới giữa Vương quốc Hungary bên
trong Đế chế Áo-Hung và Hungary độc lập sau Hòa ước Trianon, tháng 3 năm 1919,
những người cộng sản giành chính quyền ở Hungary. Vào tháng 4, Béla Kun tuyên bố
thành lập Cộng hòa Xô viết Hungary, tuy nhiên chính thể xô viết này chỉ tồn tại
được một thời gian ngắn ngủi. Vào ngày 13 tháng 6 năm 1919, Hội nghị Hòa bình
Versailles ra lệnh cho Hungary phải từ bỏ các lãnh thổ phía bắc và Romania phải
rời khỏi Tiszántúl. Hungary đã tuân thủ mệnh lệnh đó tính cho đến ngày 30 tháng
6 năm 1919. Nhưng quân đội Romania đã từ chối không chịu rời khỏi Tiszántúl.
Chiến tranh nổ ra sau đó giữa Hungary và Romania đã dẫn
tới thất bại của Hồng quân Hungary. Tính đến tháng 8 năm 1919, hơn một nửa của
Hungary ngày nay, bao gồm cả Budapest, bị chiếm đóng bởi Romania. Sự chiếm đóng
của quân Romania kéo dài đến tháng 11 năm 1919 khi quân đội Romania rút đi.
Vào 4 tháng 6 năm 1920, Hòa ước Trianon được kí kết,
thiết lập các đường biên giới của Hungary. Hungary mất 71% lãnh thổ và khoảng
66% dân số. Khoảng 1/3 dân số Magyar trở thành dân tộc thiểu số ở các nước lân
cận. Hungary cũng bị mất cảng biển duy nhất tại Fiume (ngày nay là Rijeka). Do
đó, chính trị Hungary và văn hóa thời kỳ giữa hai cuộc thế chiến bị ảnh hưởng lớn
bởi chủ nghĩa khôi phục lại tổ quốc trong quá khứ. Xuyên suốt thời kì này kinh
tế Hungary hết sức mất ổn định, tuy trở nên phồn thịnh sau chiến tranh nhưng lại
tổn thất nặng trong và sau Đại khủng hoảng, và ổn định chỉ hơi ổn định một chút
trước khởi đầu của Thế chiến thứ hai. Nước này xích lại gần hơn các quốc gia
phát xít Đức và Ý trong những năm của thập kỉ 1930 với cố gắng làm đảo ngược một
số hậu quả của Hòa ước Trianon, với việc một số lãnh thổ bị mất trước kia được
Đức và Ý nhượng lại cho Hungary.
Hungary trong Thế
chiến thứ hai
Vào năm 1941, Hungary tham dự cuộc xâm lược Nam Tư,
chiếm được một số đất đai và tham dự vào Phe Trục trong quá trình đó (để phản đối,
thủ tướng Pál Teleki đã tự sát). Vào 22 tháng 6 1941, khi quân Đức xâm lược
Liên Xô trong Chiến dịch Barbarossa, Hungary tuyên chiến vào ngày 26 tháng 6,
tham dự Thế chiến thứ hai. Vào cuối năm 1941, quân Hungary ở Mặt trận phía đông
đã chiến thắng tại Trận Uman. Đến năm 1943, sau khi Quân đoàn Hungary thứ 2 chịu
thất bại nặng nề tại sông Don, nhà nước Hungary tìm cách thương lượng đầu hàng
quân Đồng Minh. Vào ngày 19 tháng 3 năm 1944, để đối phó với sự trở mặt này,
quân Đức lặng lẽ chiếm Hungary trong Chiến dịch Margarethe. Ngày 15 tháng 10
1944, Horthy đã cố gắng để đưa đất nước ra khỏi cuộc chiến. Lúc này quân Đức mở
Chiến dịch Panzerfaust và Horthy được thay thế bởi một nhà nước bù nhìn dưới
quyền thủ tướng thân Đức Ferenc Szálasi. Quân Đức chiếm đóng tháng 5-6 năm 1944, Hungary trục xuất gần
440.000 dân Do Thái, đa số là đến trại tập trung Auschwitz. Cuộc chiến đã làm
Hungary thiệt hại nặng nề và tổn thất 60% nền kinh tế và nhiều người chết. Ngày
13.2.1945 Hungary đầu hàng không điều kiện. hế chiến thứ hai ở châu Âu chấm dứt
ngày 08.5.1945.
Sau đệ nhị thế chiến Hamgary bị Nga chiếm đóng buộc phải
theo chủ nghiã cộng sản độc tài như các quốc gia khác ở Đông Âu. Dưới thời chủ
nghiã CS cai trị, Người dân Hungary đã đứng lên đòi hỏi tự do dân chủ như: cuộc
chính biến Hungary 1956 và sự kiện Hungary mở cửa đường biên giới đầu tiên ngăn
cách giữa Hungrary và Áo năm 1989, đưa đến sự sụp đổ khối xã hội chủ nghĩa Đông
Âu. Từ đó Hungary theo thể chế cộng hòa tự do và dân chủ. Hungary hiện nay là một
trong những địa điểm du lịch hấp dẫn, thủ đô Budapest là một trong những thành
phố đẹp ở Châu Âu.).
Thời đại Xô viết
1945-1989
Sau khi Phát xít Đức thất bại, Hồng quân Nga chiếm
đóng hầu hết đất nước và qua ảnh hưởng của họ Hungary dần dần trở thành một nước
cộng sản thân cận với Liên Xô. Sau năm 1948, lãnh đạo Cộng sản Mátyás Rákosi
thiết lập chế độ theo kiểu Stalin với bắt buộc hợp tác xã hóa và kinh tế kế hoạch.
Sự cầm quyền của nhà nước Rákosi vượt quá sức chịu đựng của người dân Hungary
sau chiến tranh. Điều này đã dẫn tới cuộc chính biến tại Hungary 1956 và
Hungary tạm thời rút lui khỏi khối Hiệp ước Warszawa. Liên Xô đã trả đũa mạnh mẽ
với biện pháp vũ trang, gửi trên 150.000 quân và 2.500 xe tăng. Gần một phần tư
triệu người đã bỏ chạy khỏi đất nước trong khoảng thời gian ngắn khi các biên
giới để ngỏ vào năm 1956. Quân đội Xô viết cuối cùng rời đất nước Hungary vào
năm 1991 và kết thúc sự hiện diện của quân đội Liên Xô ở Hungary.
Cộng hòa Hungary
1989
Trong cuối thập kỉ 1980, Hungary đã dẫn đầu phong trào
giải tán Hiệp ước Warszawa và chuyển sang một thể chế dân chủ nhiều ứng cử
viên. Điều này nghĩa là mặc dù có nhiều ứng cử viên, đảng cộng sản, MSZMP, vẫn
không được đem ra bàn cãi. Tuy nhiên, các ứng cử viên độc lập được bầu lên để
phản đối lại đảng. Vào thời điểm đó, áp lực cải cách tăng dần từ bên trong đảng.
Họ cũng di chuyển về phía một nền kinh tế thị trường. Vào 23 tháng 10 năm 1989,
Mátyás Szűrös tuyên bố Cộng hòa Hungary thứ III và trở thành tổng thống lâm thời.
Bầu cử tự do ở Hungary diễn ra lần đầu tiên vào năm 1990. Theo sau sự sụp đổ của
Liên Xô vào năm 1991, Hungary phát triển một mối quan hệ gần hơn với Tây Âu
cũng như các nước Trung Âu. Nước này trở thành một thành viên của nhóm Visegrad
vào năm 1991, gia nhập NATO năm 1999, và trở thành một nước thành viên của Liên
Minh Châu Âu vào 1 tháng 5 năm 2004.