Năm 2016 là năm Bính Thân tức năm con Khỉ. Tên gọi Hán- Việt của Khỉ là Hầu.
Nhân lúc thế giới sắp chào đón năm Bính Thân chúng tôi xin trình bày vài nét tổng quát về Hầu tộc.
Nhân lúc thế giới sắp chào đón năm Bính Thân chúng tôi xin trình bày vài nét tổng quát về Hầu tộc.
THÂN THẾ VÀ THÂN THUỘC CỦA KHỈ
Khỉ là loài động vật có vú, có xương sống, có máu đỏ và sinh con. Về hình dạng Khỉ là động vật có hình dáng giống người hơn cả. Khỉ đi hai chân, dùng tay để đu bay trên cây hay cầm sào để hái trái cây. Bàn tay Khỉ có 05 ngón; bàn chân cũng có 05 ngón như loài người. Khỉ cái cũng có kinh nguyệt! Khỉ có trí thông minh hơn các loại thú vật khác. Loài người thuần hoá chúng và huấn luyện chúng biểu diễn trong các gánh hát xiệc.
Khỉ chưa hoàn toàn giống người vì có nhiều lông, có đuôi, không biết nói cũng không có chữ viết. Cũng có loài Khỉ to lớn không có đuôi như đười ươi, dã nhân, tinh tinh v. v..
Có trên 200 loại khỉ khác nhau trên thế giới. Khỉ sống trên cây, trong rừng, trên đồng cỏ ở miền núi rừng Nam Á, Đông Nam Á, Phi Châu, Trung Mỹ và Nam Mỹ. Khỉ cũng sống được ở vùng lạnh có tuyết như miền núi ở Nhật và trên dãy Hi Mã Lạp Sơn. Âu Châu, Bắc Mỹ và Úc Đại Lợi không có khỉ trong trạng thái hoang dã.
Có loại khỉ có đuôi (monkey) và loại khỉ không đuôi ( ape). Khỉ có đuôi rất nhiều. Chúng thuộc các gia đình Cebidae, Callitrichidae, Aotidae, Pitheclidae, Atelidae và đông đảo nhất là gia đình Cercopithecidae.
Các loại Khỉ có đuôi quan trọng là:
1. Khỉ guenon gốc ở vùng gần sa mạc Sahara. Loài khỉ guenon (tiếng Pháp có nghĩa là con khỉ cái) có lông cổ màu đỏ, xám, xanh, vàng. Khỉ guenon có lông xanh mang tên khoa học Cercopithecus mitis.
2. Khỉ mangabey như Cercocebus atys có bộ chân mày màu trắng được tìm thấy nhiều ở Senegal, Ghana. Khỉmangabey có hai dòng lớn: dòng Cercocebus và dòng Lophocebus.
3. Khỉ macaque như Macaca sylvanus được tìm thấy từ quần đảo Nhật Bản sang tận các nước Trung Á.
4. Khỉ baboon dòng Papio như Papio cynocephalus có lông vàng; Papio anubis có lông màu ô-liu v. v.
5. Khỉ colobus có lông dài màu trắng và màu đen pha lẫn nhau. Khỉ Colobus guerera không có ngón tay cái. Khỉ con sinh ra màu trắng dần dần có lông đen mọc xen lẫn với lông trắng.
Các loại Khỉ không có đuôi gồm có:
- con tinh tinh (chimpanzee) Pan paniscus, gia đình Homnidae.
- con vượn ( gibbon) thuộc dòng Hylobates và Symphalangus và gia đình Hylobatidae
- dã nhân (gorilla) Gorilla gorilla, gia đình Homnidae
- đười ươi (Orang- utan) Pongo borneo, gia đình Homnidae
Các loài Hầu to lớn và không đuôi này được tìm thấy nhiều trong rừng Đông Nam Á, Nam Á, Phi Châu và Nam Mỹ nhiệt đới.
Loài Khỉ có đuôi nhỏ con hơn loài khỉ không có đuôi. Loài khỉ sóc Samiri ustus, gia đình Cebidae cân nặng lối 1 ki-lô. Trái lại dã nhân đực có thể cao gần 2 m và nặng từ 70 ki-lô đến 180 ki lô. Đuôi khỉ có thể dài đến 91 cm tức là lối 03 feet. Đuôi Khỉ giúp cho Khỉ giữ thăng bằng khi leo trèo. Khỉ đỉnh đuôi như là một sự bày tỏ uy quyền, sự hài lòng hay không hài lòng. Loài vượn có tay dài nên đu bay trên cây rất giỏi.
Loài Khỉ có đuôi nhỏ con hơn loài khỉ không có đuôi. Loài khỉ sóc Samiri ustus, gia đình Cebidae cân nặng lối 1 ki-lô. Trái lại dã nhân đực có thể cao gần 2 m và nặng từ 70 ki-lô đến 180 ki lô. Đuôi khỉ có thể dài đến 91 cm tức là lối 03 feet. Đuôi Khỉ giúp cho Khỉ giữ thăng bằng khi leo trèo. Khỉ đỉnh đuôi như là một sự bày tỏ uy quyền, sự hài lòng hay không hài lòng. Loài vượn có tay dài nên đu bay trên cây rất giỏi.
Khỉ ăn lá cây, khoai, củ, chuối, các loại trái cây trong rừng, hột, trứng chim, các loại côn trùng v. v.
Khỉ có đuôi từ 4 đến 6 tuổi bắt đầu bắt cặp và sinh con. Thời kỳ mang thai kéo dài lối 05 tháng. Thời gian mang thai dài hay ngắn tuỳ thuộc vào giống Khỉ.
Dã nhân cái bắt cặp khi được 06 hay 07 tuổi. Dã nhân đực làm công tác truyền giống khi được 09 hay 10 tuổi. Thời gian mang thai của dã nhân xê dịch từ 250 đến 290 ngày tức 08 tháng 10 ngày hay 09 tháng 20 ngày (hơn cả thời gian mang thai của loài người: 09 tháng 10 ngày). Cứ mỗi 04 năm dã nhân mới bắt cặp một lần.
Như loài người thông thường Khỉ hay dã nhân chỉ sinh một con mà thôi. Ít khi xảy ra tình trạng sinh đôi hay sinh ba. Loài vượn ngày càng hiếm dần vì suốt quá trình sống vượn chỉ bắt cặp một lần và mỗi lần sinh cũng chỉ có một con mà thôi!
Tuổi thọ của Khỉ có đuôi ngắn hơn tuổi thọ của loài Khỉ không có đuôi. Tuổi thọ thường thấy của Khỉ có đuôi xê dịch từ 10 - 20 tuổi tuỳ theo tình trạng sống hoang dã hay bị giam cầm trong nhà hay trong sở thú. Khỉ sống hoang dã có tuổi thọ ngắn hơn Khỉ bị giam cầm vì không được ăn uống đầy đủ, không có người chăm lo thuốc men và bị các loài dã thú đe doạ.
Tuổi thọ của loại dã nhân hay tinh tinh có thể đến 40, 50 tuổi trong các sở thú. Kẻ thù của Hầu tộc là cọp, beo, sư tử, chó sói, điểu tộc v. v. Kẻ thù đáng sợ nhất đối với chúng vẫn là loài người. Loài người đốt rừng làm rẫy, thu hẹp không gian sinh tồn của Hầu tộc. Loài người săn bắn Khỉ để ăn thịt, ăn óc Khỉ, bán mật, xương cốt Khỉ. Tín đồ Hồi Giáo bị ngăn cấm không ăn thịt khỉ.
Xã hội Hầu tộc là xã hội đa thê, trọng nam và trọng lão niên. Hầu tộc sống từng đàn dưới sự chỉ huy của một con Khỉ đực lớn tuổi và đầy uy quyền. Con khỉ đực này là chồng của nhiều con Khỉ cái trong đàn. Con khỉ đực uy quyền này ngăn chặn không cho Khỉ cái trong đàn giao tình với Khỉ đực khác đàn. Nó cũng ngăn chặn bằng sức mạnh của hàm răng và móng vuốt của nó ngăn cản không cho Khỉ đực trong đàn giao tình với Khỉ cái. Khỉ mẹ rất thương con và chăm sóc Khỉ con rất chu đáo. Khỉ đực con lớn lên bỏ đàn đi sống cô đơn và phiêu bạt như là một sự phản kháng ngầm chống con Khỉ đực già đầy uy quyền trong đàn và độc quyền trong công tác truyền giống.
HẦU TỘC TRONG XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI
Ở Việt Nam những người đánh xe ngựa đều nuôi Khỉ ở chuồng ngựa để rút phong(?). Khỉ được dùng trong các gánh xiệc. Khỉ cởi xe đạp. Khỉ đánh trống. Khỉ nhảy múa. Khỉ nhảy vòng lửa. Khỉ vặn nhạc v. v.
Dã nhân có hình dáng và cơ thể giống người. Vào thế kỷ XIX Darwin (1809 - 1882) đưa ra thuyết tiến hoá được các môn đồ chủ nghĩa Marxism dựa vào đó để giải thích nguồn gốc của con người từ con vượn người thành người qua quá trình lao động. Các nhà khoa học ngày nay cho rằng loài khỉ macaque có vi khuẩn Herpes B Virus và loài dã nhân có vi khuẩn SIV (Simian Immunodeficiency Virus). Ngày nay người ta dùng Khỉ và dã nhân trong các phòng thí nghiệm để thí nghiệm thuốc và nghiên cứu tâm lý. Người ta dạy cho dã nhân biết xin thức ăn, bấm các dấu hiệu trên computer và thi hành nhiều điều chỉ dẫn khác.
Từ năm 1948 Hoa Kỳ đã đưa Khỉ Albert I lên không gian bằng hoả tiễn V 2. Albert I bị chết ngộp. Albert II là con Khỉ đầu tiên lên không gian và trở về trái đất an toàn năm 1949. Năm 1959 một Khỉ sóc cái tên Baker được du hành 16, 000 km trên không gian và trở về trái đất an toàn. Hầu thị Baker chết năm 1984 và được chôn ở Trung Tâm Không Gian và Hoả Tiễn Huntsville, Alabama. Đó là sự đối xử vô cùng nhân hậu đối với loài vật từng phục vụ cho ngành Không Gian Hoa Kỳ trong khi đa số ngôn từ của nhân loại dành cho Hầu tộc đều mang màu sắc khinh miệt, biếm nhẽ, thậm chí còn ăn óc tươi của loài động vật có hình dáng và cấu trúc cơ thể giống loài người để con vật chết trong đau đớn kinh hoàng. Năm 1967 Pháp thành công trong việc đưa Khỉ cái Martine lên không gian. Không biết vì sao những con Khỉ được đưa lên không gian đều là Khỉ cái. Sự chịu đựng của Khỉ cái cao hơn Khỉ đực chăng?
Trong Đông Y người ta dùng xương Khỉ để nấu cao. Không nghe ai khen thịt Khỉ. Trái lại người ta rùng mình khi thấy làm thịt Khỉ vì sau khi cạo sạch lông, con khỉ giống như một đứa bé 6, 7 ki- lô. Nhưng môi đười ươi được xem là món ăn cầu kỳ và quí hiếm trong Bát Trân tức tám món ăn quí. Đó là: 1. gan rồng(?) 2. tuỷ phượng 3. chả cú 4. bào thai beo 5. đuôi cá gáy (cá chép) 6. tay gấu 7. môi đười ươi 8. nhượng heo con. Ở Trung Hoa người ta truyền tụng việc ăn óc Khỉ uống trảm mã trà để được bổ dưỡng. Cách ăn ghê rợn và đầy ác tính này từng có trong một nhà hàng nổi tiếng ở Chợ Lớn.
Khỉ sống tự do trong các đền ở Ấn Độ. Khỉ xám với mặt và tai đen Hanuman langur mang tên khoa họcSemnopithecus hector được xem là loại Khỉ thiêng. Dù vậy, khi bị đói người ta cũng ăn thịt chúng và dùng xương cốt chúng làm bùa!
Trong truyện Tây Du Ký có Sun Xing Zhe ( Tôn Hành Giả) là người Khỉ nóng nảy, hiếu động gây náo động cả Thiên Đình. Năng nổ và hiếu động, Tôn Hành Giả luôn luôn bị Chen Hsuan Tsang (Trần Huyền Trang) trừng phạt vì thiếu kỷ luật. Đó là ý tưởng nghịch Thiên của tác giả Tây Du Ký với nhân vật mang hình hài Hầu tộc này.
Tượng Ba Con Khỉ Khôn Ngoan được đặt ở đền Tosho- gu ở Nikko, Nhật Bản. Ba con Khỉ Khôn Ngoan đó tượng trưng cho triết lý Tam Không của ba con Khỉ:
- Khỉ Mizaru bịt mắt để không thấy điều xấu
- Khỉ Kizaru bịt tai để không nghe điều xấu
- Khỉ Iwazaru bịt miệng để không nói điều xấu
Trước kia nhà in Phạm Văn Thìn ở Sài Gòn có in chuyện Bạch Viên Tôn Các.
Hầu tộc không có vai trò quan trọng trong ngôn ngữ Việt Nam.
Người ta ví những đứa trẻ cười giòn liên miên với khỉ và đười ươi.
Người gầy đét, xương xẩu, mặt teo má hóp được ví với con Khỉ già hay Khỉ chết khô.
Người nhăn mặt nhíu mày vì đau đớn bị ví với cảnh khỉ ăn ớt.
Trẻ nít chạy nhảy lăng xăng được ví với khỉ mắc phong.
Nuôi người phản phúc trong nhà người ta nói:
Nuôi ong tay áo,
Nuôi khỉ dòm nhà.
Nuôi khỉ dòm nhà.
với ý nghĩa tương đương với câu:
To set a fox to keep one' s geese.
Những chữ “khỉ khô”, “khỉ mốc”, “khỉ cùi”, “đồ khỉ đột” đều không có nghĩa tốt và nghiêm chỉnh mong mỏi. Vùng xa xôi, hẻo lánh ít người lai vãng thì gọi là vùng khỉ ho cò gáy.
Trong tiếng Anh những từ Monkey hay Gorilla cũng không có nghĩa tốt đẹp gì.
Bị bịnh AIDS loài người cũng qui tội cho Hầu tộc là kho chứa chấp vi khuẩn gây ra bịnh hiểm nghèo này. Người ta cũng sợ bị Khỉ cắn như bị chó điên cắn vậy.
Vào thế kỷ XIV thái thượng hoàng Trần Nghệ Tôn thiếu sáng suốt để cho Lê Quí Ly ( Hồ Quí Ly sau này) chi phối chánh trường khiến cho nhà Trần bị suy yếu. Tương truyền rằng một hôm Trần Nghệ Tôn nằm chiêm bao thấy dòng chữ Bạch Kê Xích Chủy (Con Gà Trắng và Con Khỉ Mõm Đỏ). Trần Nghệ Tôn hiểu rằng Lê Quí Ly là con Khỉ mõm đỏ dòm ngó ngai vàng của nhà Trần. Thái Thượng Hoàng Trần Nghệ Tôn tuổi Dậu biểu tượng bởi lầu Bạch Kê. Năm 1400 Lê Quí Ly đoạt ngôi nhà Trần và lập ra nhà Hồ (1400 - 1407).
Trong Thiền người ta thường nhắc đến Tâm Viên Ý Mã tức là tâm xao động như Khỉ nhảy nhót lung tung và ý di chuyển như ngựa phi.
Trong thiên văn học có cụm mây Đầu Khỉ (Monkey’s Head Nebula- Thủ Hầu Vân) được tìm thấy trong chòm sao Orion.
Trong thực vật học có vài loại thảo mộc mang tên gọi có chữ monkey ( Hầu; Khỉ) như:
- Monkey jack: Mít Hầu Artocarpus lakoocha
- Monkey nut: Đậu Phộng Arachis hypogaea
- Monkey orchid hay Monkey- like dracula: Phong Lan Hầu Massaevallia simia
- Monkey pot tree: Cây Nồi Khỉ Lecythis pisonis
- Monkey tail tree: Cây Thông Chile Araucaria araucana
- Monkey s pawn: Thạch Tùng Chân Khỉ Lycopodium cernum
- Monkey s tail: Hoa Huệ Hầu Vĩ Xerophyta tetinervis
- - Monkey s bread: Cây Baobab Adansonia digitata
- Monkey pod: Cây Me Tây Pithecellobium saman
- Monkey nut: Đậu Phộng Arachis hypogaea
- Monkey orchid hay Monkey- like dracula: Phong Lan Hầu Massaevallia simia
- Monkey pot tree: Cây Nồi Khỉ Lecythis pisonis
- Monkey tail tree: Cây Thông Chile Araucaria araucana
- Monkey s pawn: Thạch Tùng Chân Khỉ Lycopodium cernum
- Monkey s tail: Hoa Huệ Hầu Vĩ Xerophyta tetinervis
- - Monkey s bread: Cây Baobab Adansonia digitata
- Monkey pod: Cây Me Tây Pithecellobium saman
Hầu là tên Hán- Việt của Khỉ. Hầu là một họ ở Trung Hoa. Hầu là một trong ngũ tước quí tộc dưới chế độ quân chủ: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Thoại Ngọc Hầu là hầu tước Nguyễn Văn Thoại.
Trong đề 40 con Khỉ mang số 23 sau chim bồ câu số 22 và trước con ếch số 24.
Người có mặt giống Khỉ thì không đẹp nhưng người có tướng Hầu tất được phú quí, tiếng tăm. Người có tay dài như tay vượn là người giàu có, quyền cao chức trọng. Mạc Đĩnh Chi đậu trạng nguyên tức thủ khoa trong khoa thi đình năm 1304 là người có tướng Hầu. Tướng Trương Chi Động thời nhà Mãn Thanh là người có tướng Hầu. Ông có nhiều tài năng, thích ăn trái cây uống rượu và đặc biệt không thể thiếu phụ nữ một đêm!
Trong 12 con giáp Khỉ đứng sau Mùi ( Dê) và Dậu (Gà). Năm Con Khỉ được gọi là năm Thân. Người sinh năm Thân thường cô đơn trong gia đình, ly biệt trong dòng họ và thường có trên một người phối ngẫu (vì ly dị, ly thân hay sinh ly tử biệt v. v.). Nặng nhất về mặt này là Canh Thân.
Năm Thân là năm Dương (+). Trong chu kỳ 60 năm có 05 năm Thân:
NĂM | HÀNH | MÀU SẮC |
Giáp Thân : 1884, 1944, 2004, 2064 | Thuỷ | Đen |
Bính Thân: 1896, 1956, 2016 | Hoả | Đỏ |
Mậu Thân: 1908, 1968, 2028 | Thổ | Vàng |
Canh Thân: 1920, 1980, 2040 | Mộc | Xanh |
Nhâm Thân: 1872, 1932, 1992, 2052 | Kim | Trắng |
Tuổi Thân hợp với tuổi Tí (Chuột), Thìn và không hợp với tuổi Dần, Hợi, Tỵ.
BIẾN CỐ LỊCH SỬ TRÊN THẾ GIỚI VÀO NĂM THÂN
1908: Biểu tình chống sưu thuế ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Thừa Thiên; Phan Châu Trinh bị án tử hình (không hành quyết vì có sự can thiệp của Hội Quốc Tế Nhân Quyền); Trần Quí Cáp bị xử chém mặc dù ông không tham gia cuộc biểu tình ở Quảng Nam năm 1908 (dạy học ở Nha Trang); Kiểu xe hơi Model T của Henry Ford; Các tướng lãnh trẻ Thổ Nhĩ Kỳ buộc quốc vương nước này tu chính hiến pháp và tiến tới việc kỹ nghệ hoá xứ sở và thế tục hoá chánh quyền.
1920: Liên Đoàn Cử Tri Phụ Nữ Hoa Kỳ được thành lập; Tác phẩm Main Street của Sinclair Lewis và This Side of Paradise của Scott Fitzgerald; Red Scare: các đảng viên Cộng Sản, vô chánh phủ (anarchists) và cấp tiến bị bắt ở Hoa Kỳ; Hiệp ước Sevres ( Đồng Minh- Thổ Nhĩ Kỳ); Hiệp ước Trianon ( Đồng Minh- Hung Gia Lợi).
1932: Bảo Đại về nước sau 10 năm du học ở Pháp; Tổng thống Pháp Paul Doumer (1857 - 1932), cựu toàn quyền Đông Dương, bị ám sát chết; Nhật thành lập Mãn Châu Quốc ( Manchukuo) và đưa Pu Yi ( Phổ Nghi), vị hoàng đế cuối cùng của nhà Thanh (Qing) về làm vua.
1944: Nạn đói ở Bắc Bộ Việt Nam; Cuộc đổ bộ Normandy của quân Đồng Minh; Paris được giải phóng; Hội nghị Dumbarton Oak (21 - 08 đến 07 - 10 - 1944) ở Washington DC để bàn về một tổ chức quốc tế đảm bảo an ninh và hoà bình thế giới thay thế Hội Quốc Liên. Đó là Tổ Chức Liên Hiệp Quốc thời hậu đệ nhị thế chiến thứ hai.
1956: Cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu ở miền Bắc; Cuộc đàn áp nông dân Quỳnh Lưu nổi dậy; Xe tăng Nga đàn áp cuộc đấu tranh đòi tự do của người Ba Lan và Hung Gia Lợi; Do Thái chiếm bán đảo Sinai; Anh và Pháp kiểm soát kinh đào Suez; Hiến pháp Việt Nam Cộng Hoà; Chánh phủ Sài Gòn từ chối tổ chức tổng tuyển cử; Phong Trào Trăm Hoa Đua Nở ở Trung Quốc; Nhân Văn Giai Phẩm ở miền Bắc Việt Nam.
1968: Biến cố năm Mậu Thân ở Nam Việt Nam; Tàu USS Pueblo của Hoa Kỳ bị Bắc Hàn bắt giữ; Tiến sĩ Martin Luther King và Robert Kennedy, em của tổng thống John F. Kennedy, bị ám sát chết; Tổng thống Johnson không ra tái tranh cử.
1980: Hoa Kỳ đoạn giao với Iran; 06 nhân viên sứ quán Hoa Kỳ vượt khỏi Iran nhờ sự giúp đỡ của Canada; Hoa Kỳ tẩy chay Thế Vận Hội Moscow; Chủ tịch CHXHCNVN Tôn Đức Thắng chết; Ronald Reagan đắc cử tổng thống Hoa Kỳ; Chiến tranh Iraq- Iran; Nhà độc tài Somoza bị lật đổ ở Nicaragua.
1992: Bạo động của người Da Đen ở Los Angeles sau khi những cảnh sát đánh Rodney King được trắng án; Bill Clinton đắc cử tổng thống Hoa Kỳ; Nhật xin lỗi Đại Hàn về việc cưỡng bách phụ nữ Hàn làm nô lệ tình dục trong đệ nhị thế chiến; Tổng thống Nga Yeltsin tập tễnh học hỏi kinh tế thị trường; Hiệp ước Maastricht chuyển Cộng Đồng Âu Châu sang Liên Hiệp Âu Châu, liên hiệp hợp tác ngoại giao, quốc phòng, tư pháp, nội vụ, kinh tế, tiền tệ tiến đến sự ra đời của đồng Âu kim (Euro); Toà đại sứ Do Thái ở Buenos Aires bị chiến binh Hồi Giáo đánh bom; Đền thờ Hồi Giáo Babri Masjd ở Ấn Độ bị người Ấn Giáo đốt: Xung đột đẫm máu giữa người Ấn Giáo và Hồi Giáo về chuyện này ở Ấn Độ nơi dân chúng theo Ấn Giáo.
2004: Bom nổ ở Madrid; Toà Án Quốc Tế chống lại sự thành lập bức tường Do Thái; Lãnh tụ Palestine, Arafat, chết sau khi điều trị ở Pháp; Tổng thống Bush II tái đắc cử nhiệm kỳ hai; Sóng thần ở Đông Nam Á gây thiệt mạng cho hàng chục ngàn người Indonesia, Thái Lan, người Ấn Độ trên các đảo Nicobar và Andaman.
DANH NHÂN THẾ GIỚI SINH VÀO NĂM THÂN
Danh nhân thế giới sinh vào năm Thân đại cương gồm có: Harry Truman (1884 - 1972), Lyndon Baine Johnson (1908 - 1973), Salvador Allende (1908 - 1973), Lin Biao ( Lâm Bưu (1908 - 1971, Tojo Hideki (1884 - 1948) v. v.
Harry Truman (1884 - 1972)
Từ năm 1935 đến 1944 Harry Truman là thượng nghị sĩ. Năm 1944 ông là ứng cử viên phó tổng thống của tổng thống Franklin Delano Roosevelt. Tổng thống Roosevelt (DC) tái đắc cử nhiệm kỳ thứ tư. Tuyên thệ nhậm chức tổng thống nhiệm kỳ thứ tư được 03 tháng thì tổng thống Roosevelt chết. Ông chưa chứng kiến thành quả do ông lập ra trong đệ nhị thế chiến. Phó tổng thống Truman lên thay. Tổng thống Truman là người quyết định dùng bom nguyên tử thả xuống Hiroshima và Nagasaki để chấm dứt đệ nhị thế chiến trong chiến thắng cho phe Đồng Minh. Năm 1948 ông ra tranh cử tổng thống và gặp phải những kết quả thăm dò dư luận hoàn toàn bất lợi cho ông nhưng ông đã đắc cử. Tổng thống Truman chủ trương giúp đỡ các quốc gia bị Cộng Sản đe doạ về quân sự lẫn kinh tế. Ngay cả Nhật, Ý, Tây Đức đều được viện trợ của Hoa Kỳ để phục hồi kinh tế thời hậu chiến. Chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Liên Sô bắt đầu vào năm 1949. Nhưng chủ thuyết Truman là cầm cự chớ không chiến thắng. Chính vì vậy mà ông cách chức vị tướng tài ba Mc Arthur và thay thế bằng tướng Ridway ngay khi chiến tranh Triều Tiên đang tiếp diễn. Năm 1952 tổng thống Truman không tái tranh cử nhiệm kỳ hai. Nhưng ông vẫn có ảnh hưởng rất lớn trong đảng Dân Chủ.
Lyndon Baine Johnson (1908- 1973)
Từ năm 1937 đến 1961 ông Johnson là thượng nghị sĩ đại diện tiểu bang Texas tại Quốc Hội. Năm 1960 ông là đối thủ lợi hại đối với thượng nghị sĩ Kennedy trong cuộc bầu cử sơ bộ của đảng Dân Chủ. Thượng nghị sĩ Kennedy được đảng Dân Chủ chọn ra ứng cử tổng thống đối lại với ứng cử viên đảng Cộng Hoà là phó tổng thống Richard Nixon. Ông Johnson là ứng cử viên phó tổng thống cho Kennedy. Năm 1963 tổng thống Kennedy bị ám sát chết. Phó tổng thống Johnson hành sử chức vụ tổng thống. Năm 1964 ông ra tranh cử đương đầu với ứng cử viên Cộng Hoà là Barry Goldwater, một thượng nghị sĩ mang dòng máu Do Thái có chủ trương cứng rắn về vấn đề Việt Nam. Ông Goldwater thất bại nặng nề trong cuộc bầu cử năm 1964 trước tổng thống Johnson. Ông chỉ được 56 phiếu cử tri đoàn (38.5%) so với 486 phiếu (61.1%) của tổng thống Johnson. Tổng thống Johnson thất bại nặng nề trước dư luận phản chiến ở Hoa Kỳ và trên thế giới. Hoa Kỳ oanh tạc miền Bắc, xử dụng cả B- 52 trên chiến trường, đưa hàng trăm ngàn binh sĩ sang Nam Việt Nam, thanh niên Hoa Kỳ đều phải trưng binh để đưa sang miền Nam Việt Nam chiến đấu nhưng kết quả thu hoạch được không được như ý. Năm 1968 ông Johnson không tái tranh cử. Phó tổng thống Humphrey thất cử trước Richard Nixon, người bị Kennedy đánh bại năm 1960. Tổng thống Johnson chứng kiến sự tái đắc cử vẻ vang của ông Nixon năm 1972 vì câu “Hoà bình trong tầm tay” của Henry Kissinger (Nixon CH: được 49 tiểu bang bầu với 520 phiếu cử tri đoàn. Mc Govern DC chỉ được 01 tiểu bang DC bầu vỏn vẹn có 17 phiếu cử tri đoàn). Ông Johnson mất 05 ngày trước khi hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết.
Salvador Allende (1908- 1973)
Salvador Alende là một bác sĩ y khoa và chánh trị gia ở Chile thuộc khuynh hướng xã hội cấp tiến thân Cộng Sản. Xuất thân từ một gia đình thuộc giới trung lưu cao cấp, Allende chịu ảnh hưởng xã hội, tự do phóng khoáng của gia đình. Thuở nhỏ ông chịu ảnh hưởng của một người thợ đóng giày thuộc khuynh hướng vô chánh phủ (anarchist) tên là Juan de Marchi. Ông bị bắt nhiều lần vì có hoạt động chống chánh phủ khi còn là một sinh viên đại học.
Allende tốt nghiệp y khoa bác sĩ năm 1933. Ông là một trong những thành viên sáng lập của đảng Xã Hội ở Chile. Năm 1937 ông được bầu vào Hạ Viện. Ông được cử làm tổng trưởng bộ y tế. Đó là cơ hội cho ông thực thi vài cải cách nhỏ về y tế xã hội như cơm trưa miễn phí cho học sinh, luật bảo đảm lương tối thiểu cho công nhân. Khi đắc cử vào Thượng Nghị Viện Allende kịch liệt đả kích tư bản chủ nghĩa và đế quốc chủ nghĩa và bày tỏ lập trường thân Marxist của ông bằng cách dựa vào công nhân và nông dân tức vô sản nông thôn và vô sản thành thị. Ông ra tranh chức vụ tổng thống vào những năm 1952, 1958, 1964 nhưng đều thất bại. Đến năm 1970 ông đắc cử tổng thống và thực thi chương trình xã hội theo các nước Cộng Sản như quốc hữu hoá các nhà máy, xí nghiệp, tập thể hoá nông nghiệp. Ngành kỹ nghệ đồng của Hoa Kỳ bị quốc hữu hoá mà không có bồi thường. Allende đụng chạm với Hoa Kỳ về mọi mặt: kinh tế, chánh trị, xã hội. Ông đụng chạm với cánh hữu trong nước. Ngày 11 - 09 - 1973 quân đội dưới quyền chỉ huy của tướng Pinochet và với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, đảo chánh lật đổ tổng thống Marxist đầu tiên ở Nam Mỹ: Salvador Allende. Ông bị phe đảo chánh bao vây nhưng cương quyết không đầu hàng. Người ta tìm thấy ông chết nhưng không biết vì sao ông chết. Năm 2011, khi quật mộ để cải táng, người ta khán nghiệm và cho biết ông tự gây cái chết cho ông chớ không phải do quân đảo chánh gây ra.
Lin Biao (1908- 1971)
Lin Biao ( Lâm Bưu) là thống chế, đệ nhất phó thủ tướng, tổng trưởng bộ Quốc Phòng, phó chủ tịch đảng Cộng Sản Trung Quốc. Có tài liệu ghi ông sinh cuối năm 1907 (Mùi). Một tài liệu của Anh ghi năm sinh của ông là 1908 (Thân).
Lin Biao là đoàn viên bí mật của Thanh Niên Cộng Sản Đoàn khi còn học trung học ở Shanghai. Ông tốt nghiệp trường Võ Bị Whampoa (Hoàng Phố) năm 1926. Ông trở thành sĩ quan của Quốc Dân Đảng. Năm 1927 ông là đại tá trong quân đội Quốc Dân Đảng. Năm 1928 ông tham dự trong đạo quân Bắc Phạt của Quốc Dân Đảng. Cùng năm nầy ông theo Mao Zedong trong vùng Jiangxi Sô- Viết ( Sô Viết Giang Tây) và mạnh dạn ủng hộ Mao chống lại những đảng viên Cộng Sản do Liên Sô huấn luyện và đưa về nước điều khiển đảng Cộng Sản Trung Quốc. Ông là một nhà quân sự có tài được Mao tín nhiệm. Nhưng ông thường bất đồng ý kiến với Zhou Enlai ( Châu Ân Lai). Khi Lin Biao học trường Võ Bị Whampoa thì Zhou Enlai là phó giám đốc của trường bên cạnh giám đốc Chiang Kaishek (Tưởng Giới Thạch). Lúc ấy Liên Minh Quốc- Cộng lần thứ nhất còn tồn tại một cách vá víu. Lin Biao tham dự cuộc Vạn Lý Trường Chinh năm 1934 - 1935 cùng với Mao Zedong.
Năm 1948 ông chỉ huy hồng quân chiếm Mãn Châu.
Năm 1955 ông là thống chế Quân Đội Nhân Dân Giải Phóng.
1958 đến 1971: phó chủ tịch đảng Cộng Sản Trung Quốc
1969: được chánh thức xem như người kế vị Mao Zedong
1959 - 1971: tổng trưởng bộ Quốc Phòng.
Trên nguyên tắc Mao Zedong cử Lin Biao làm người kế vị sau khi ông mất. Thực tế đó là cách thử lòng Lin Biao mà thôi. Người ông muốn kế vị ông là vợ ông: Jiang Qing (Giang Thanh). Lin Biao chắc chắn thừa hiểu thâm ý của Mao. Ông là người có tài quân sự và có tham vọng quyền hành nên tỏ ra năng nổ trong Cách Mạng Văn Hoá do Mao và Jiang Qing phát động nhằm triệt hạ tất cả những người có thế lực và uy tín khả dĩ thay thế Mao dù đó là những người từng trải qua gian khổ với Mao trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh và tại chiến khu Yenan (Diên An) trong thời kỳ bị Quốc Dân Đảng áp đảo và trong chiến tranh Hoa- Nhật (1937 - 1945). Lin Biao thất bại trong âm mưu lật đổ Mao Zedong. Phi cơ chở ông và gia đình bị bắn rớt ở Mông Cổ năm 1971.
Tojo Hideki (1884- 1948)
Tojo Hideki ( Đông Điều) là tướng lãnh và thủ tướng Nhật trong đệ nhị thế chiến. Ông là người trung thành với Nhật hoàng và là biểu tượng của phái quân phiệt cực đoan ở Nhật.
Tojo xuất thân từ một gia đình tướng lãnh trong quân đội Nhật hoàng. Bản thân ông tốt nghiệp trường Võ Bị Lục Quân Hoàng Gia Nhật năm 1905. Năm 1915 ông tốt nghiệp thủ khoa Đại Học Tham Mưu. Trong thời gian 1919 - 1922 ông phục vụ ở Thuỵ Sĩ và Đức và học ở đó. Năm 1929 Tojo là trung tá. Ông bắt đầu tham gia chánh trị bằng cách gia nhập vào nhóm Tosei- ha (Kiểm Soát) do tướng Uzaki thành lập. Nhóm này cạnh tranh ảnh hưởng với nhóm Kodoha (Nhật Hoàng Đạo). Cả hai nhóm đều chủ trương tôn thờ Nhật hoàng, phát huy chủ nghĩa quân phiệt, chống chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Cộng Sản, chủ nghĩa vô chánh phủ (anarchism). Năm 1933 Tojo là thiếu tướng. Năm sau ông thăng lên trung tướng. Năm 1935 ông chỉ huy Kempetai trong lực lượng Kwantung ( Quan Đông) ở Mãn Châu Quốc (Manchukuo). Năm 1937 ông là tham mưu trưởng lực lượng Kwantung. Ông cho người xâm nhập vào Hoa Bắc, Nội Mông. Đó là năm xảy ra biến cố Marco Polo Bridge ( Lư Cầu Kiều) mở màn cho chiến tranh Hoa- Nhật lần thứ hai. Năm 1938 tướng Tojo là thứ trưởng bộ Chiến Tranh. Trong thời gian 1940 - 1943 ông là thủ tướng từng nắm các bộ Quốc Phòng, Nội Vụ, Ngoại Giao, Giáo Dục, Thương Mại và Kỹ Nghệ. Ngôi sao của ông đắc thời từ năm 1940 đến 1944 với chủ trương bành trướng lãnh thổ Nhật Bản trên lục địa Đông Á, Đông Nam Á đến các quần đảo ở phía Tây và Nam Thái Bình Dương bằng chủ thuyết Đại Đông Á Thịnh Vượng Chung hầu thay thế các đế quốc bạch chủng trong vùng như Hoa Kỳ ở Phi Luật Tân, Pháp trên bán đảo Đông Dương, Anh ở Mã Lai và Miến Điện, Hoà Lan ở Indonesia. Trận đánh Pearl Harbor diễn ra khi Tojo làm thủ tướng Nhật. Đó là năm đế quốc Nhật lan rộng xuống Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương. Năm 1942 Hoa Kỳ bắt đầu phản công. Nhật lần lượt bị đánh bại trong các trận đánh trên Biển San Hô, Midway, Guadalcanal. Việc thất trận Saipan năm 1944 cho thấy Nhật ở vào thế tuyệt vọng. Tojo từ chức thủ tướng. Lãnh thổ Nhật không còn là nỗi bất khả xâm phạm đối với các oanh tạc cơ Hoa Kỳ. Trận đánh Okinawa rất đẫm máu. Quân Nhật chết rất nhiều nhưng Nhật vẫn không chịu đầu hàng. Cuối cùng tổng thống Truman phải dùng bom nguyên tử để kết thúc chiến tranh.
Ngày 02 - 09 - 1945 Nhật ký văn kiện đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện trên tàu USS Missouri. Đại tướng Mc Arthur ra lịnh bắt thủ tướng Tojo, người được liệt vào danh sách tội phạm chiến tranh loại A. Tojo tự tử bằng súng nhưng viên đạn không trúng tim mà trúng ruột. Ông được các bác sĩ Hoa Kỳ giải phẫu và chữa lành bịnh trước khi đưa ra toà xét xử về tội ác chiến tranh đối với nhân loại vào tháng 11 năm 1948. Tojo thẳng thắn nhận trách nhiệm đã ra lịnh cho quân Nhật gây chiến ở Trung Hoa, tấn công Pearl Harbor, xâm chiếm các quốc gia Đông Nam Á và chấp nhận bản án tử hình dành cho ông ta. Ông chỉ xin Đồng Minh thắng trận đừng làm khổ dân tộc ông. Họ vô tội. Họ cũng là nạn nhân của chiến tranh. Đất nước bị chiến tranh tàn phá. Chính ông là người chịu trách nhiệm về cuộc chiến gây ra hậu quả thảm khốc đó. Tojo bị treo cổ vào ngày 23 - 12 - 1948. Một phần tro hài cốt của ông được đặt trong đền Yasakuni.
Tướng Tojo được người Nhật thời đệ nhị thế chiến gọi là Kamisori tức Dao Cạo vì những quyết định nhạy bén, nhanh chóng, chính xác và đầy tính nguyên tắc của ông. Những quyết định đó sắc bén tựa như dao cạo vậy.
PHẠM ĐÌNH LÂN, F.A.B.I.