Kính tặng tất cả quân nhân đã phục vụ
tại Giang-Đoàn 26 Xung-Phong
ĐIỆP-MỸ-LINH
Ánh nắng mai
lấp lánh trên dòng sông, lung linh trên khóm lá khi đoàn giang đỉnh thuộc
Giang-Đoàn 26 Xung-Phong rời sông Hậu-Giang, rẽ vào kinh Cái Sắn, đi về hướng
Rạch-Giá. Từ Rạch-Giá, đoàn giang đỉnh lầm lủi tiến trên sông Cái Lớn, mở đầu
cuộc hành quân dài hạn tại U-Minh.
Sau khi rẽ từ
sông Cái Lớn vào Kinh Ngang, đoàn giang đỉnh phát hiện chướng ngại vật chận
ngang sông, phía trên gắn hình đầu lâu và hai xương chéo nhau. Hai chiếc LCVP
(Tiểu-Vận-Đỉnh) vượt lên, thực hiện công tác gỡ mìn.
Trong khi đoàn
giang đỉnh thả trôi, chờ LCVP gỡ mìn, tôi thấy một chiếc tắc ráng từ trong khóm
dừa nước chui ra, chạy thẳng đến chiếc Command. Trên chiếc ghe bé xíu ấy, một
cô gái cầm chèo. Trong lòng ghe một người đàn bà nằm im, bên trên phủ vài nhánh
dừa nước. Nơi mũi ghe, một người con trai ngồi xếp bằng, trên đầu mang nhiều
lớp băng mà máu đã đặc quánh, trở nên nâu sậm. Chiếc đầu khổ nạn của người con
trai gục lên vai người đàn ông đứng tuổi. Hai tay ôm lấy vai nạn nhân, đôi mắt
của người đàn ông hun hút nhìn về rặng dừa nước phía xa. Trong đôi mắt của
người đàn ông tôi thấy những đớn đau òa vỡ, cuồn cuộn theo từng đường gân máu
nhỏ li ti.
Những nét đớn
đau trong đôi mắt của người đàn ông trên chiếc tắc ráng gợi nơi lòng tôi ánh
mắt u uất của Ba tôi vào những ngày gia đình tôi tản cư, nương náu trong mái
tranh, cạnh bờ sông Triêm-Đức.
Tôi không nhớ
lúc đó tôi bao nhiêu tuổi; nhưng hình ảnh tôi không thể quên được là mỗi sáng,
Má tôi quảy gánh bún vào bán cho công nhân viên ở công xưởng. Ba tôi đi làm
trong bộ đồ kaki xám, nón cối, dép võ xe hơi. Em tôi – Bảo-Ngọc – và tôi chơi
cạnh hầm tròn, dưới gốc cây khế, với bốn đứa con của bác Ca.
Mỗi chiều, khi
mặt trời khuất sau dãy Trường-Sơn, Ba tôi ngồi nơi võng, thổi Harmonica. Tối đến, Ba tôi bảo tôi đóng
cửa trước lại để không ai có thể biết là bác Ca qua nhà tôi để Ba tôi dạy Bác
học Pháp văn. Khi bác Ca đến, Má tôi, tôi và Bảo-Ngọc phải ra ngoài sân chơi.
Bảo-Ngọc gần
hai tuổi rồi mà chỉ biết bò chứ chưa thể đứng chựng. Má tôi phải cho Bảo-Ngọc
thôi bú sớm, vì Má tôi ăn uống quá kham khổ, không có sữa nuôi em.
Sáng nào Ba tôi
cũng dặn: “Đừng ham chơi với mấy đứa con
của bác Ca mà bỏ bê Bảo-Ngọc. Con phải luôn luôn ngồi cạnh em, hễ nghe tiếng
kẻng báo động là ôm em nhảy ngay xuống hầm tròn.” Tôi “Dạ, dạ.” Nhưng tôi chỉ là đứa bé gái tóc còn cắt bum-bê, khi thấy
bốn đứa con của bác Ca chơi búng hột mãn cầu, đánh thẻ, chơi ô, nhảy lò cò, nhảy
dây mà tôi không được chơi, tôi giận Bảo-Ngọc “cành hông”; vì nghĩ rằng
Bảo-Ngọc là “chướng ngại vật”. Tôi nạt nộ, cố làm cho Bảo-Ngọc sợ. Khi nào sợ
Bảo-Ngọc cũng khóc, gọi “Ma! Ma!” Tôi
biết ý Bảo-Ngọc, khi em khóc, em thường buồn ngủ. Tôi chỉ cần để Bảo-Ngọc lên
võng, đẩy nhẹ vài lần, hát vài câu bâng quơ là em ngủ; và tôi rãnh rang chơi
tất cả mọi trò chơi hấp dẫn với bốn đứa con của bác Ca.
Một buổi trưa,
trong khi tôi đang hăng say “ăn thua đủ” với bốn đứa bạn về mấy hột mãng cầu đen bóng thì kẻng báo
động vang lên. Chỉ độ vài tích tắc sau, hai chiếc máy bay sơn cờ Pháp ào tới,
chúc mũi xuống, nghiêng cánh, thả từng loạt bom xuống công xưởng. Một trái bom
rơi gần xóm nhà của chúng tôi, tạo sức ép khiến tôi và đám bạn đều khó thở và
bùng tai.
Sau khi hai
chiếc máy bay khuất xa, tôi và đám bạn leo lên và thấy, phía công xưởng, lửa
cháy ngút ngàn, tôi không biết số phận của Ba tôi như thế nào! Nhưng quanh tôi
nhiều người đang khóc than vì bị thương, bị chết. Bất ngờ tôi nghe thằng Khó
hét lên: “Con Bảo-Ngọc! Trời ơi!...”
Lúc này tôi mới chợt nhớ đến em tôi. Tôi quay lại chiếc võng trước hiên nhà và
thấy vài người xúm vào Bảo-Ngọc. Tôi chưa kịp phản ứng gì cả thì thấy Má tôi
vất đôi gióng và đòn gánh xuống, nhào đến Bảo-Ngọc. Thấy Má tôi, mấy người đang
xúm quanh Bảo-Ngọc từ từ đứng lên, tỏ ý muốn “nhường chỗ” cho Má tôi.
Má tôi đứng bất
động, nhìn Bảo-Ngọc nằm nghiêng đầu trên võng, bên dưới, một vũng máu còn tươi!
Trong thế đứng câm lặng như loài cây khô hết sức sống đó, môi của Má tôi mếu
xệ, run run. Tôi nghĩ Má tôi muốn gọi tên Bảo-Ngọc – đứa con ra đời trong khổ
nạn; đứa con èo uột vì vú Mẹ khô sữa; đứa con lìa đời trong giấc ngủ trẻ thơ –
nhưng Má tôi không thể phát âm thành lời!
Tôi không hiểu
tại sao Má tôi không kêu gào, không khóc than hoặc quằn quại đớn đau như mấy
người hàng xóm; cũng như tôi không hiểu tại sao Bảo-Ngọc không được chôn gần
nhà mà phải theo con đò nhỏ, qua bên kia sông Triêm-Đức.
Trên con đò
nhỏ, Ba tôi ngồi ở mũi chiếc đò, lưng xoay về phía bên kia sông. Trên hai bắp
vế của Ba tôi là xác của Bảo-Ngọc. Cái xác nhỏ xíu tội nghiệp đó được cuộn vào
chiếc chiếu rách – mà thường ngày tôi trải dưới gốc khế cho em bò quanh – rồi
cột lại bằng ba đoạn giây dừa. Hai tay Ba tôi mân mê mối giây dừa và mắt Ba tôi
chăm chăm nhìn lên gốc cây khế, nơi Ba tôi đã cẩn thận đào cho chị em tôi một
hầm tròn! Đôi mắt Ba tôi lặng lờ như hai khối thủy tinh màu; nhưng tôi như thấy
được những vụn vỡ trong hồn Ba tôi đang theo những mạch máu căng lên, đỏ rực!
Đôi mắt của Ba
tôi như soi vào hồn tôi để tôi thấy rõ hậu quả về sự ham chơi của tôi. Nhưng
với thời gian, ánh mắt của Ba tôi dịu bớt niềm đau – nhất là sau khi Má tôi
sinh cu Chinh.
Nhờ sự ra đời
của cu Chinh và cũng nhờ những đổi thay của không gian, thời gian cùng những
biến chuyển của cuộc sống, sự dằn vặt
trong lòng tôi tạm nguôi ngoai. Giữa lúc tôi tưởng rằng tôi đã quên đi ánh mắt
đớn đau của Ba tôi vào buổi chiều xưa, trên dòng sông Triêm-Đức, thì tôi lại
bắt gặp ánh mắt đầy uất hờn như muốn làm vỡ tung đôi võng mô khô lệ của bác
nông phu nơi vùng Chương-Thiện!
Ánh mắt uất hờn
của bác nông phu trở nên van nài khẩn thiết khi anh thủy thủ chỉa súng, không
cho chiếc tắc ráng đến gần chiếc Command. Vài phút sau, một chiếc fom được phái đến, cặp sát vào chiếc tắc
ráng. Một anh thủy thủ bước qua chiếc tắc ráng xem xét tình hình. Nhận thấy
không có dấu hiệu khả nghi, chiếc tắc ráng được phép cặp sát chiếc Command và
anh y tá đã tận tình cứu giúp nạn nhân.
Sau nhiều ngày
hành quân ở Kinh Ngang, đoàn giang đỉnh trở lại kinh Trèm-Trẹm, còn gọi là kinh
Thứ, thuộc quận Kiên-An.
Kinh Trèm-Trẹm
là một dòng sông nhỏ, thẳng tắp, sâu hun hút. Hai bên bờ sông là rừng tràm thâm
u, lòng sông eo hẹp quyện lá khô và máu. Rải rác dọc theo dòng sông câm nín đó
là mấy đồn Nghĩa-Quân. Đoàn giang đỉnh thường ủi bãi trước đồn thứ 9. Trưởng
đồn là Thiếu-Úy Sao, tốt nghiệp trường Sĩ-Quan Thủ-Đức.
Khi cặp fom ra Tắc-Cậu công tác, Thiếu-Úy Sao
xin quá giang để ghé đồn thứ 6 thăm người bạn thân, Thiếu-Úy Y, cùng khóa
Thủ-Đức. Thiếu-Úy Y xin đổi về đồn thứ 6 chỉ vì muốn được làm việc gần Sao.
Sau vài ngày
bình yên, đoàn giang đỉnh được lệnh trở ra sông Cái Lớn, ủi bãi ngay trước một
đồn Nghĩa-Quân. Mỗi khi thấy tàu Hải-Quân ủi bãi trước đồn, lòng người
Nghĩa-Quân dấy lên chút tình cảm hân hoan, yên dạ: Sẽ được một giấc ngủ yên
lành trong đêm. Để tỏ bày niềm hân hoan đối với đơn vị bạn, mấy anh Nghĩa-Quân
đem ra vài xị đế. Vài chú chuột đồng được nướng vàng trên khóm than hồng, làm
mồi cho những tràng cười vui.
Blust – anh
chàng cố vấn “chịu chơi” của Giang-Đoàn – vừa cười vừa nhăn mũi hít mùi thơm
của chuột nướng. Sau khi ăn thử, Blust thích quá, không tiếc lời khen món ăn
đồng quê này. Với món ăn lạ và vài ly rượu cay, Blust không còn tự chủ được,
bắt đầu hát Hallelujah… Tiếng hát
nhừa nhựa, nghèn nghẹn, vang xa từ mũi chiếc Command tan loãng trong không gian
mênh mông của dòng sông và rừng dừa nước. Hát mãi, hát hoài vẫn không ai hưởng
ứng, Blust cảm thấy cô đơn vô cùng rồi nỗi nhớ nhà dâng cao, dâng cao mãi khiến
Blust khóc vùi như trẻ thơ.
Khóc thỏa thuê
một lúc, Blust trở vào lòng chiếc Command vừa khi Thiếu Tá Quang – Chỉ-Huy-Trưởng
Giang-Đoàn – đang giận dữ, gào lên trong ống liên hợp:
- Mày nói với Đại Bàng của mày, không
cho tao vào bây giờ thì ai cứu tụi nó? Chờ đến sáng không còn ‘mống’ nào sống
sót đâu. Mời Đại Bàng của mày lên máy, nhanh đi!
Không hiểu
tiếng Việt, nhưng thấy thái độ của Thiếu Tá Quang, Blust hiểu phần nào những gì
đang xảy ra. Trong khi Blust ngượng ngùng, cứ loay hoay cạnh Thiếu Tá Quang và
lập đi lập lại: “I’m sosrry, sir!” thì
Thiếu Tá Quang ra lệnh cho đoàn giang đỉnh sẵn sàng tiến vào tiếp cứu đồn Thứ
6. Chỉ vài phút sau Thiếu Tá Quang ra “phản lệnh”. Quay nhìn Blust, Thiếu Tá Quang
giải thích: Đồn thứ 6 bị vây, bị tấn công nặng, kêu cứu; nhưng Đại-Tá Tỉnh
Trưởng sợ trách nhiệm, không cho đoàn giang đỉnh vào!
Ánh trăng lưỡi
liềm tỏa ánh sáng xanh xao nhưng cũng không thể làm loãng đi ánh hỏa châu chập
chùng, lơ lửng, hướng kinh Trèm Trẹm. Tôi nghĩ đến Thiếu Úy Y với nhiều lo lắng.
Sáng hôm sau,
đoàn giang đỉnh không trở vào kinh Trèm Trẹm mà lại nhận vùng trách nhiệm mới:
Gò Quau, thuộc tỉnh Kiên-Hưng.
Con đường từ
nơi đoàn giang đỉnh ủi bãi vào văn phòng Quận rất gồ ghề, loan lỗ. Chiếc cấu
nhỏ bắt ngang từ làng vào Quận trông già nua, thảm hại. Quận đường chỉ là dãy
nhà tôn, tường gạch cũ kỷ, màu sơn úa vàng. Sân Quận đường còn hằn sâu nhiều
vết đạn pháo kích. Quận Trưởng là Trung-Tá Phép, người miền Nam, ăn nói thật
thà, dễ thương như những hạt cơm gạo nàng Hương.
Những ngày ở
Gò-Quau, đoàn giang đỉnh hằng ngày hải hành trên Kinh Ngang để chuyển quân,
quân trang và quân cụ. Vài chiếc tắc ráng chở đầy khóm chạy gần đoàn tàu. Có
tiếng xua đuổi:
- Dang ra. Cặp vô là bị bắn đó.
- Dạ, em biếu các anh mấy trái khóm ăn
chơi mà!
Anh lính chỉ về
cặp fom:
- Tới đưa cho
mấy chiếc tàu nhỏ kia kìa; đừng tới gần mấy chiếc tàu lớn, nghe hôn.
Vừa cho ghe
lách ra, cô gái vừa quay lui:
- Mèn ơi! Có
mấy anh tụi em mới dám đi buôn ở khúc sông này chớ hổng có mấy anh đố ai dám
bén mảng qua đây đó!
Mấy anh lính
cảm thấy lòng mình xao xuyến, muốn làm quen nhưng đoàn giang đỉnh được lệnh trở
lại kinh Trèm Trẹm.
Ngang đồn thứ
6, vết tích lửa đạn vẫn còn đó nhưng lá cờ vàng vẫn ngạo nghễ tung bay; người
Nghĩa-Quân vẫn nghêu ngao câu vọng cổ trên tháp canh. Tất cả dường như không
mang nét thê lương, đau đớn nào cả. Tất cả chấp nhận sự điêu linh một cách bình
thản đến tội nghiệp!
Đến đồn thứ 9,
tôi gặp lại Thiếu-Úy Sao. Sao chào tôi, môi nở nụ cười buồn. Hai chữ Y-Sao màu
đen thêu trên túi áo của Sao đập nhanh vào mắt tôi. Thấy ánh mắt khó hiểu của
tôi, Sao nhìn vội xuống hai chữ Y-Sao rồi nhìn ra xa. Trong mắt Sao tôi tưởnh
như thấy được những hận thù vỡ ra tung tóe như những vệt máu hồng của Y kéo dài
từ chông hào đến cửa hầm chống pháo kích! Nhìn Sao và nghe câu chuyện thương
tâm của Y, tự dưng tôi nghĩ đến Chinh. Không biết giờ này Chinh đang phiêu bạt
ở chiến trường nào trên núi cao!
Cơn mưa trái
mùa chợt đến. Rừng tràm và dừa nước chìm trong màn mưa xám đục. Tiếng ca vọng
cổ trên tháp canh ngân dài thê lương kèm theo tiếng gõ nhịp nhặt khoan của hai
thanh tre nghe sao não nề, nhức buốt! Chỉ một lúc sau tất cả âm thanh đều chìm
lấp trong cơn mưa nặng hạt và trong tiếng gió thét gào. Mọi sinh hoạt đều ngưng
đọng. Bỗng…Ầm! Ấm! Tiếng nổ làm rung chuyển vùng không gian nho nhỏ quanh tôi,
trên chiếc Combat. Từng khối nước tung cao ngất trời trong khi chiếc Command từ
từ chìm xuống. Hằng loạt trái sáng được bắn lên như đưa tiễn chiếc Command vào
lòng sông sâu! Dòng phù sa thêm màu mỡ nhờ máu, thịt và xương của những thủy
thủ vừa xong lóp đệ Nhị!
Sau những tan
thương rách nát trong hồn, tôi theo đoàn giang đỉnh trở lại Kinh Ngang. Mấy cô
bán khóm đâu không thấy mà chỉ thấy mặt sông gợn lăn tăn những làn sóng nhỏ.
Dòng sông tưởng hờ hững nhưng nỗi chết đang giăng đầy! Ngoài tiếng gío lao xao
trên rừng dừa nước và tiếng máy tàu vi vu, không còn một âm thanh nào khác nữa.
Tất cả đều im lặng. Cái im lặng rình rập, cái im lặng hồi hộp, cái im lặng rợn
người như một đoạn phim căng thẳng quá độ, đạo diễn không cho nhạc đệm!
Trong khi mọi
người, mọi nòng súng đều chỉa về khúc quanh như đợi chờ, như thách thức
thì…đoàn tàu đi qua êm xuôi. Tôi chưa kịp mừng thì nghe một tiếng nổ rền trời
rồi từng khối nước khổng lồ tung lên. Chiếc LCM8 bị mìn! Sau khi cứu vớt và
nhặt xác của đoàn viên, mọi người đều lúng túng, vì không biết những bộ phận cơ
thể “rời” này thuộc về nạn nhân nào để “ráp” vào cho đúng! Thôi, chia đều trong
mỗi bao ny-lông để người thân bớt đau lòng!
Trong mấy bao
ny-lông đựng xác người có phần cơ thể không nguyên vẹn của Chuẩn-Úy Mẫn. Mẫn
mới biết miền Tây Nam Việt sau chuyến xe đò Saigon qua Bắc Vàm-Cống về
Long-Xuyên để trình diện Giang-Đoàn 26, sau khi Mẫn mãn khóa Sĩ Quan Trừ-Bị
Thủ-Đức! Mẫn đến đơn vị chỉ được một ngày, chưa biết gì về những danh từ chuyên
môn của Hải-Quân.
Mẹ của Mẫn đứng
chết lặng nơi cửa, sau khi một sĩ quan đến báo tin. Ánh mắt của Bà cũng thất
thần, mất hết sức sống, như ánh mắt của Má tôi dạo nào!
Chuyến hải hành
từ Kinh Ngang về Chương-Thiện chiếc Combat lại bị mìn. Nhìn hai chiếc LCM kè
hai bên để đưa chiếc Combat về bến, tôi gục đầu vào lóng bàn tay. Vì thương mến
đoàn giang đỉnh, tôi âm thầm nhân cách hóa mỗi chiến đỉnh bằng một cái tên rất
đáng yêu. Vì lẽ đó, mỗi khi giang đỉnh nào bị bắn hoặc bị mìn, tôi cảm thấy như
chính một phần cơ thể của tôi bị thương!
Sau khi chỉnh
trang, đoàn giang đỉnh theo sông Hậu, rẽ vào Long-Phú, xuôi theo Bãi Sầu, đi
xuống Bạc-Liêu, về quận Gia-Rai. Nhìn những con kinh đào nhỏ hẹp, chỉ đủ rộng
cho chiến đỉnh chạy hàng một – chứ không đủ rộng để chiến đỉnh có thể xoay
ngang, trở đầu – lòng tôi cứ ái ngại thầm!
Sáng hôm sau,
đoàn giang đỉnh chuyển quân từ Gia-Rai đi Cà-Mau. Thiếu Tá Quang đã cẩn thận
dặn tất cả Bộ-Binh ngồi trong lòng tàu, không để lộ dấu hiệu là mình đang
chuyển quân. Vậy mà địch quân vẫn rình rập! Khi đoàn tàu vừa qua khỏi xã
Hộ-Phòng thì từng loạt, từng loạt B40 nã xối xả vào những mục tiêu không có
đường xoay trở!
Trong khi chờ
trực thăng tản thương, thủy thủ Hiển ra dấu cho tôi cúi xuống gần anh. Hiển
thều thào:
- Đừng cho dợ em biết em bị thương, nó
lo, tội nghiệp. Để ít bữa, em dìa!
Nhìn máu và
nước sóng sánh trên chiếc băng-ca và người Hiển run rẩy, tôi chỉ biết khóc, gật
đầu, trong khi tay tôi cứ đẩy cái kéo, cố cắt bộ quân phục đẫm máu của Hiển.
Cắt xong, tôi xin một chiếc áo nhà binh khác. Tôi lấy tất cả giấy tờ và cái ví
của Hiễn, cho vào túi áo rồi phủ chiếc áo lên người Hiển. Tôi nhờ một người
đứng gần phụ tôi, nghiêng băng-ca cho máu và nước thoát ra rồi tôi từ từ rút
từng mảnh vải đã bị cắt để Hiển đỡ bị lạnh.
Trước khi tôi
quay sang giúp một thương binh khác, Hiển lại ra dấu cho tôi cúi xuống gần Hiển
một lần nữa. Nước mắt ràng rụa, tôi xúc động quá cho nên chỉ nghe tiếng được
tiếng mất:
- Trong bóp em
còn mấy ngàn, …chị đưa giùm cho… dợ em để nó mua sữa cho con. Dợ em đẻ con
trai, hôm qua… Chỉ-Huy-Trưởng nói mai cho em đi phép đặc ân…
Nói ngang đó,
gương mặt của Hiển trông tươi tỉnh; nhưng rồi Hiển cong người sang một bên như
muốn ho. Một dòng máu đỏ chảy mềm mại từ môi Hiển, rồi mắt Hiển khép lại!
Sau những cảnh
đau lòng, đoàn giang đỉnh di chuyển về Kiên-Lương. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy
các vị sư mặc áo vàng, ăn hủ tiếu, uống bia 33. Đám trẻ con đứng dưới gốc cây,
nhìn mấy anh thủy thủ như nhìn những dị nhân vừa từ một hành tinh khác đến. Mấy
cụ già tươi cười nhận dầu ăn, cơm sấy, cá hộp từ mấy anh thủy thủ. Một cụ vỗ vỗ
lên tay Triều, hỏi:
- Làm sao được
đi lính như mấy chú, hả chú?
- Dạ, dễ mà.
Lên Saigon ghi tên là đi liền hà.
- Saigon ở đâu
vậy, chú em?
- Nói giởn chơi
chớ bộ Cụ tính đăng lính Hải-Quân thiệt sao?
- Hỏng phải!
Thằng cháu ngoại của ‘wa’, nó đóng ở đồn kia cà. Nó muốn đi.
- Thôi, đi
Nghĩa-Quân gần nhà sướng hơn; Hải-Quân xa nhà hoài, chán lắm.
- Bị nó ở trong
đồn thằng em của nó cứ bắt loa kêu nó bỏ súng dìa dới nhơn dân hoài hà.
- Sao kỳ vậy, Cụ?”
Cụ bước đến gần
Triều hơn và nói nhỏ như sợ ai nghe được:
- Thì thằng em
của nó theo ‘bộ đội giải phóng’. Dậy mới có chiện chứ.
Chẳng biết nói
gì, Triều đưa mắt nhìn tôi. Tôi cúi mặt, cảm thấy buồn buồn, đi dần về cặp fom.
Tôi thấy một
đứa bé len lén sờ vào mũi chiếc fom rồi
rút cổ cười khúc khích. Đứa khác bước tới, vuốt vào thành tàu rồi giật mình,
nhảy lùi lại, reo to:
- Bằng sắt, tụi bây ơi!
A, thì ra đám
trẻ con này bị Việt Cộng tuyên truyền rằng tàu của Hải-Quân bằng…giấy!
Đoàn giang đỉnh
được lệnh trở lại Chương-Thiện. Khi ghé lại quận Gò-Quau tôi mới biết Trung Tá
Phép đã đổi vào một quận trong xa mà tôi không nhớ tên. Trên đường đoàn giang
đỉnh lên Tân-Châu, Hồng-Ngự, tôi hay tin Trung Tá Phép tử trận trong cuộc tiếp
cứu một đồn Nghĩa-Quân!
Tôi từ biệt
Giang-Đoàn 26 Xung-Phong để trở lại U-Minh bằng Giang-Đoàn Tuần-Thám. Thiếu Tá Chỉ-Huy-Trưởng
Giang-Đoàn không cho tôi ngồi phía mũi tàu; Ông bắt tôi ngồi trong lòng tàu để
khỏi bị bắn sẻ. Tôi cười, thầm nhủ, vận tốc PBR chứ đâu phải vận tốc LCM mà sợ.
Mặc dù nghĩ như vậy, tôi cũng vẫn “tuân lệnh” Chỉ-Huy-Trưởng…không phải của
tôi.
Đến sông Cái
Lớn đoàn PBR vẫn phăng phăng lướt trên nước, sát bờ, bỏ lại phía sau từng chuỗi
bọt tắng xóa, hình chữ V. Đến gần
Chương-Thiện, trời tối hẳn. Đoàn tàu neo giữa sông. Nhìn ánh trăng long lanh
trên mặt sông và nghe văng vẳng từ radio một
tình khúc tiền chiến, tôi chợt nhớ đến hai câu thơ của Ba tôi, bút hiệu
Điệp-Linh:
Mắt trinh nữ lệ mờ bên sông cũ.
Đợi cung đàn nghệ sĩ vắng bao Thu!
Hôm sau, tôi
theo một giang đoàn Tuần-Thám khác, đi sâu vào U-Minh. Vì chưa bao giờ đến đoạn
sông này, tôi tò mò, vui thích nhìn quanh những vườn khóm thênh thang.
Đoàn PBR đang
lướt qua một khúc quanh rất ngặt. Tôi nghe tiếng B40 nổ liên tục phía trước.
Chíếc PBR chỉ huy trúng B40. Trung Tá Minh – Chỉ-Huy-Trưởng Liên-Đoàn 5
Tuần-Thám – bị thương. Đoàn PBR bắn trả dữ dội. Nhiều người chạy lom khom trong
vườn khóm. Đoàn PBR đâm thẳng vào bờ để Bộ-Binh đổ bộ. Khi Bộ-Binh trở lại
chiến đỉnh, tôi thấy họ mang theo nhiều chiến lợi phẩm như súng trường Nga và
B40, B41…
Phiêu lãng trên
những dòng sông vấy máu suốt thời gian dài, lòng tôi mang nặng niềm đau của
những thanh niên cùng thời với tôi; và, dường như tôi quên đi nỗi đau xưa, bên
dòng sông Triêm-Đức.
Tôi trở lại
dòng sông Triêm-Đức vào những ngày sôi sục nhất của cuộc chiến để thuyết phục
Ba tôi dọn vào Saigon. Ba tôi bảo đất đai, nhà cửa và mộ của Bảo-Ngọc còn đó,
đi sao đành! Tôi đề nghị Chinh vào Saigon với tôi. Chinh dứt khóat:
- Ba Má già
rồi, em không thể bỏ Ba Má được.
Ba tôi tiếp lời
Chinh:
- Tại sao con
có vẻ sợ? Họ cũng là người Việt-Nam như mình mà. Còn Chinh chỉ là Đại-Úy, có gì
đâu mà lo. Hơn nữa, họ về họ cũng phải dùng sĩ quan của mình chứ sĩ quan của họ
đốt đặc, xài gì được!
Nói ngang đó,
Ba tôi vỗ hai tay vào nhau kêu “bốp” rồi tíếp, giọng rất vui:
- Nè, con nhớ
bác Ca không? Nghe nói bác làm lớn lắm. Bác Ca với Ba bề gì cũng còn cái tình
cách mạng chống Tây. Và hồi đó, tuy nghèo, nhưng Ba dạy Pháp văn cho bác Ca Ba
không nhận thù lao.
Giọng tôi nghẹn
lại như muốn khóc:
- Chức Phó Quận
Hành Chánh rồi Trưởng Ty Nội-An của Ba, Ba có giấu được bác Ca hay không?
- Bác biết thì
biết. Mình “ăn cây nào, rào cây đó”, ai nỡ trách mình. Con đừng lo. Có bác Ca
là mọi việc đều xong.
Tôi đành quay
về Saigon với chút tin tưởng vào bác Ca.
Khi những sôi
động trong trong dòng lịch sử và trong lòng tôi ở vào đỉnh cao nhất, tôi hay
tin bác Ca giữ một chức vụ rất quan trọng trong chính phủ Việt-Cộng.
Một người bạn
của tôi có ông Bố đi tập kết, vì Ông bị chiêu dụ khi Ông du học tại Pháp. Sau
tháng Tư năm 1975, người bạn này tổ chức tiệc để ông Bố mời những người bạn của
Ông. Bạn tôi nhờ tôi giúp trang hoàng để bữa tiệc thêm phần trang trọng.
Chính trong bữa
tiệc trang trọng này, tôi được gặp một cụ già tên Ca. Sau vài câu làm quen, Cụ
hỏi tôi người miền nào mà nói tiếng lơ lớ nửa Nam nửa Huế. Tôi đáp tôi được
sinh tại Dalat, Má tôi Huế, Ba tôi Nha-Trang. Dường như “lý lịch” của tôi gợi
trong ký ức của Cụ điều gì đó, Cụ hỏi tiếp:
- Hồi trước Bố
của Cô làm gì?
Tôi nghi đây là
bác Ca, bố của thằng Khó, con Khăn, thằng Khắc, con Phục cho nên tôi muốn làm thân,
muốn khơi lại trong lòng Cụ hình ảnh của Ba tôi:
- Thưa Cụ, Ba
cháu ngày xưa đi kháng chiến chống Tây. Ba cháu giỏi nhạc và Pháp văn lắm.
- Ba cô tên gì?
Hồi kháng chiến sống ở đâu?
- Dạ, Ba cháu
tên Kinh. Hồi tản cư gia đình cháu sống gần sông Triêm-Đức.
- Thế cô là con
bé Linh, phải không?
- Dạ, vâng.
- Ba cô còn ở
bên sông Triêm-Đức không?
- Dạ, còn. Xin
lỗi Cụ, cháu nhớ hồi xưa Ba cháu có người bạn rất thân, tên Ca. Thưa Cụ, có phải
Cụ là bác Ca không ạ?
- Ừ, tôi là bác
Ca đây.
Tự dưng tôi cảm
thấy mất bình tĩnh! Thật lòng, tôi muốn nhân cơ hội này, xin bác Ca giúp đỡ hoặc che chở cho Ba tôi và các
em tôi; vì lệnh kêu gọi sĩ quan và công chức “Ngụy” đi “đăng ký” cứ ra rả trên
đài phát thanh. Nhưng đồng thời tôi cũng cảm thấy khó chịu khi trực diện với
một nhân vật quan trọng trong guồng máy đầy ác tính mà tôi không thích.
Bác Ca nhíu mày
như vận dụng trí nhớ rồi hỏi:
- Thằng gì em
của bé Ngọc đó, nó làm gì?
- Dạ, em cháu
tên Chinh, Đại-Úy.
Không hiểu vì
già lẩn thẩn hay là vì bác Ca muốn đâm vào hồn tôi, Bác hỏi:
- Đại-Úy bên
nào?
Tôi nghẹn! Tay
tôi run lẩy bẩy. Tôi muốn khóc nhưng uất quá khóc không được! Tôi không nỡ dùng
chữ “Ngụy” mà tôi cũng không dám nói bốn chữ Việt-Nam Cộng-Hòa trước mặt bác
Ca. Tôi cố né người khi chủ nhà bưng thức ăn lên để khỏi phải trả lời.
Một cách từ tốn
bác Ca lấy thức ăn cho vào chén của tôi, mời:
- Cô dùng chút
tiết canh đi, bổ lắm đấy.
Tôi lí nhí cảm
ơn, nhìn bác Ca, thầm nghĩ: Thức ăn miền Nam đầy đủ, ê hề, Bác đâu cần phun
nước bọt vào dĩa để dành ăn, như ngày Bác còn ở Liên Khu V! Bác Ca lại hỏi:
-Thế Ba Má cô
có tất cả mấy người con?
-Dạ, cháu,
Chinh và hai em trai nữa.
-Thế hai thằng
ấy làm gì?
-Dạ, cũng sĩ
quan…
Tôi không dám
nói hết câu. Như ngầm hiểu, Bác Ca không hỏi tiếp mà lại nhỏ nhẹ mời tôi lần
nữa. Tôi nâng đũa, trộn phần tiết canh trong chén. Nhìn phần tiết canh tươm ra
nơi lòng chén và phần tiết canh sánh lại quanh mấy miếng lòng, tôi chợt liên
tưởng đến những phần máu thịt của những Người Lính V.N.C.H. mà tôi đã thấy tận
mắt trên những dòng sông oan nghiệt! Từ mối tình cảm dành cho Người Lính
V.N.C.H., tôi không thể làm thân với bác Ca để nhờ Bác giúp cho Ba và các em
tôi.
Sau khi nghe
tôi trình bày sự việc, Ba tôi đích thân vào Saigon tìm gặp bác Ca. Không hiểu
kết quả của lần gặp gỡ giữa hai người bạn già như thế nào, nhưng Chinh và hai
em của Chinh bị bắt trước khi Ba tôi từ Saigon trở về. Và sau đó Ba tôi cũng
phải trình diện để đi cải tạo.
Trong căn nhà
thăm nuôi, Ba tôi ngồi im, mắt đỏ rực nhìn xuống dòng sông Triêm Đức khi tôi
nhắc đến các em tôi. Ba tôi hỏi tôi đã đi thăm các em tôi chưa? Tôi đáp “Dạ, chưa”. Ba tôi dúi vào tay tôi ba
mảnh giấy vo tròn, nói rất nhỏ:
- Con đưa cho các
em.
Tôi chưa kịp “dạ” thì tên quảng giáo nhảy tới, hùng
hổ như con thú vồ được mồi:
- Chuyển tài
“niệu” gì đấy? Đưa xem.
Tôi xám mặt.
Tôi không hiểu tôi sợ cho tôi hay là tôi sợ cho Ba tôi; nhưng tôi run quá! Ba
tôi rất điềm tĩnh:
- Trình cho anh
quảng giáo xem đi, con.
Tôi mở bàn tay.
Ba cuộn giấy nhỏ xíu lăn trên bàn, tên quảng giáo chụp lấy. Trong khi tên quảng
giáo vuốt cho thẳng để đọc, tôi liết nhanh vào mảnh giấy và thấy: “Con! Ba tủi hổ và hối hận về cái bác ‘Ca…ca…’
đó lắm!”
ĐIỆP-MỸ-LINH