Từ đó có những người đưa ra nhiều giả thuyết, trong đó có giả thuyết Trung cộng sẽ đánh Việt Nam, người khác thì đưa ra giả thuyết hoàn toàn trái lại.
Những người đưa ra giả thuyết này viện một số lý lẽ như sau:
Trên thực tế Việt Nam đã lệ thuộc Trung cộng, nếu nói gần thì Hội nghị Thành Đô năm 1990, nếu nói xa thì từ ngày Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) nổi lên cướp chính quyền, đưa Việt Nam vào gông cùm cộng sản Nga-Tàu. Họ Hồ đã thản nhiên tuyên bố: “Tôi không có tư tưởng gì cả, tư tưởng của tôi đã có Staline và Mao nghĩ hộ.” Ngày hôm nay, con cháu họ Hồ cũng vậy, sẵn sàng gọi dạ, bảo vâng bởi Trung cộng. Việt Nam hiện nay đang ở vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ năm, như chính ngoại trưởng cộng sản Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố sau Hội nghị Thành đô, mặc dầu ông là ngoại trưởng vào lúc đó, nhưng không được tham dự hội nghị này, vì yêu cầu của Trung cộng.
Giới lãnh đạo CSVN hiện nay chỉ là những thái thú của Trung cộng, sẵn sàng làm bất cứ việc gì khi nước này đòi hỏi. Như hai Hiệp ước với Trung cộng năm 1999, dâng cho Trung cộng gần 1000 km vuông đất liền ở vùng biên giới, và với Hiệp ước năm 2000, dâng cả chục ngàn cây số vuông vùng biển. Ngày xưa với Hiệp ước Thiên Tân thời Pháp thuộc, ảnh hưởng của Việt Nam ở vùng Vịnh Bắc bộ là 60%, nay với Hiệp ước mới chỉ còn 45%, nhượng cho Trung cộng 15%.
Về chính trị, kinh tế và văn hóa, bất cứ một quyết định chính trị nào cũng phải được sự đồng ý của Bắc Kinh, cán cân ngoại thương luôn có lợi cho Trung cộng, hại cho Việt Nam, hàng năm cả 20 tỷ USD; nước này có thể thuồn dễ dàng những hàng bị tẩy chay trên thế giới, hàng độc hại, ô nhiễm sang Việt Nam, bằng đường chính thức hay buôn lậu qua biên giới; người Tàu có thể qua nước ta một cách dễ dàng, không cần visa, đấy là chưa nói đến những khu đất dọc theo biên giới hay tại các địa điểm trọng yếu khắp nơi trong nước, từ nam chí bắc, được nhượng cho Tàu cả hàng trăm năm. Có những nơi họ ngang nhiên đề bảng “Cấm người Việt Nam lai vãng”; ngay cả người của chính phủ cũng không được vào, huống chi là dân thường, như trường hợp ở Vũng áng. Về văn hóa thì sách báo, phim ảnh được bày bán đầy đường ở Việt Nam. Viện Khổng tử chỉ là một trung tâm tuyên truyền cho chính sách bành trướng của Trung cộng.
Trước tình trạng như vậy, nhiều người nghĩ rằng: “Vạ gì Trung cộng đánh Việt Nam cho hao người, tốn của”. Những người này không phải là họ không có lý.
II) Giả thuyết cho rằng Trung cộng sẽ đánh Việt Nam
Tuy nhiên những người cho rằng Trung cộng sẽ đánh Việt Nam cũng đưa ra một số lập luận, vừa dựa trên lịch sử, vừa dựa trên chính sách hiện nay của Tập Cận Bình, và nhất là họ dựa trên một số bài báo của một số cánh diều hâu trong quân đội Trung cộng.
Thật vậy, nếu chúng ta theo dõi tình hình chính trị Trung cộng từ năm 1979, tức là ngày Đặng Tiểu Bình trở lại nắm chính quyền, rồi chủ trương mở cửa, hiện đại hóa nước Tàu, từ đó đến giờ, thì có một số điểm cần ghi nhớ:
Họ Đặng khuyên đàn em hãy cố gắng chờ thời, một cách nín thở qua sông với câu nói “Thao quang, dưỡng hối” mà nhiều người biết đến. Về nội bộ, thì “Không tố cáo lẫn nhau, nhất là đối với những người trong Bộ Chính trị và Ban Thường vụ Bộ Chính trị”. Chính sách vừa quốc nội và hải ngoại này đã được Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào tuân theo. Tuy nhiên từ ngày Tập Cận Bình kế vị Hồ Cẩm Đào vào năm 2012 tới giờ thì hoàn toàn đi ngược lại.
Không còn chính sách nín thở qua sông, mà là chính sách bành trướng, dương oai, dũng võ ra nước ngoài, qua việc đề cao “Giấc mộng Trung quốc”, thiết lập Con đường Tơ lụa, chính sách Đường Lưỡi bò, bành trướng để khống chế Biển Đông. Về quốc nội, thì Tập Cận Bình bỏ qua lời khuyên của họ Đặng, đưa Chu Vĩnh Khang, Từ Tài Hậu và có thể ngay cả Giang Trạch Dân ra tòa.
Từ điểm đó, một số quân đội theo phái diều hâu, đã chủ trương một cuộc “Chiến tranh Chớp nhoáng” đối với Việt Nam. Họ đưa ra những luận cứ sau đây:
Đây là một cuộc chiến tranh chớp nhoáng, không phải là một cuộc chiến lâu dài, mục đích là làm cho tiềm lực quân đội Việt Nam yếu đi.
Cần dạy cho Việt Nam một bài học thứ nhì, vì nếu lâu ngày, Việt Nam sẽ lớn mạnh về quân sự, vì vậy, cần phải vào lúc này, khi Việt Nam còn yếu về quân sự. Theo họ, Cộng sản Việt Nam chỉ là “Phường ăn cháo, đái bát” như lời của Đặng Tiểu Bình. Ngày hôm nay CSVN lấp ló theo Tây phương, đang tìm cách “Thoát Trung”, ngày mai khi mọc lông, mọc cánh, thì “Tìm cách chống Trung.”
Những tướng lãnh theo cánh diều hâu, trong quân đội Trung cộng hiện nay, còn đưa ra một kế hoạch cho “Cuộc Chiến tranh Chớp nhoáng” này.
Theo đó:
Chỉ cần 200 chiếc máy bay, 100 chiếc hỏa tiễn, 10 chiếc tàu ngầm, và 20 sư đoàn đóng ở biên giới phòng bất trắc, còn cuộc chiến chủ yếu là không quân, hỏa tiễn và hải quân.
Họ dự đoán, Việt Nam hiện nay có vào khoảng 40 chiếc máy bay, 6 chiếc tàu ngầm, mấy chục hỏa tiễn và 15 sư đoàn. Với cuộc không chiến và hải chiến chớp nhoáng, mà có thể tiêu diệt được 1/3 lực lượng quân sự của CSVN, tức là tiêu hủy được vào khoảng trên dưới 10 chiếc máy bay, 2 hay 3 chiếc tàu ngầm và 3 hay 4 sư đoàn, thì đã là quá thành công, dù giá phải trả có cao chăng nữa.
Họ còn cảnh báo: Ngày hôm nay tình báo Trung cộng trải khắp Việt Nam, biết rõ đâu là chỗ đóng quân, đâu là chỗ ẩn náu, mai sau lâu ngày CSVN sẽ di tản, không biết đâu mà tìm.
Tất nhiên, khi có ý định “Cho Việt Nam một bài học thứ nhì”, những tướng lãnh cánh diều hâu, không phải là không nghĩ đến phản ứng của thế giới, nhất là của Mỹ.
Theo họ, khi “Chiến tranh Chớp nhoáng” Việt Trung xảy ra, thì Mỹ sẽ phản ứng, như việc tố cáo Trung cộng vi phạm luật lệ quốc tế, xây cất trái phép lên những hòn đảo chiếm của Việt Nam, việc đang làm hiện nay. Mỹ có thể đi xa hơn, đó là dùng không quân, hải quân tiêu diệt những căn cứ quân sự ở quần đảo Trường Sa này. Tuy nhiên, Mỹ sẽ ngừng ở đây, theo lời tiên đoán của nhóm diều hâu. Chẳng khác nào như trong lịch sử: Khi Kim Nhật Thành tràn quân xuống Nam Hàn, thì Mỹ đổ bộ quân vào năm 1950, đẩy lùi quân của họ Kim tới sông Áp Lục, vĩ tuyến thứ 36, rồi ngừng ở đó, không dám dùng nguyên tử đánh tiếp Trung cộng, như lời đề nghị của tướng Mac Arthur, Tư Lệnh quân đội Hoa kỳ trong Chiến tranh Triều tiên.
Vấn đề Trung cộng đánh hay không đánh Việt Nam, chúng ta không thể nhìn theo con mắt hữu lý của lịch sử. Nếu theo trường phái hữu lý, thì Hitler không bao giờ dám gây chiến với Anh, Pháp, Đệ Nhị thế Chiến không xảy ra, Trung cộng không bao giờ dám cho Việt Nam một bài học vào năm 1979, vì trước đó CSVN mới ký một Hiệp ước hỗ tương quân sự với Liên sô, theo đó “Nếu một trong hai nước bị nước thứ ba tấn công, thì nước thứ hai phải có nhiệm vụ giúp đỡ nước thứ nhất.”, hơn thế nữa lúc đó đang có cả mấy chục sư đoàn Liên sô đóng ở biên giới phía bắc Trung cộng. Thế mà Trung cộng của Đặng Tiểu Bình dám gửi quân qua biên giới, “Dạy cho CSVN một bài học”.
Ngày hôm nay, đánh hay không đánh Việt Nam, vấn đề nó không thuộc trường phái hữu lý của lịch sử, mà nó tùy thuộc cá nhân của Tập Cận Bình, mà ông này đã được nhiều người ví với Hitler. Việc ví này không phải là không có lý do.
Việc Tập Cận Bình dám như Hitler gây ra Đại Chiến thế giới không, thì không chắc, nhưng rất có thể họ Tập dùng không quân và hải quân, làm một cuộc chiến tranh chớp nhoáng, dạy cho CSVN bài học thứ nhì, như Đặng Tiểu Bình, vì có một điều trùng hợp là vào thời đó, họ Đặng đang tranh quyền khốc liệt với Hoa Quốc Phong, ngày hôm nay họ Tập cũng đang tranh quyền khốc liệt với phe Giang Trạch Dân. Dùng ngoại chiến để tranh giành quyền hành, để giữ, củng cố quyền hành, điều này xẩy ra rất thường trong lịch sử Tàu.
Lịch sử biết đâu chỉ là cái gì lập lại, tất nhiên nó không thể nào giống như hai giọt nước, nhưng tương đối, nó có những khuynh hướng giống nhau. (1)
Paris ngày 01/07/2016