Hằng năm đến ngày Tết Nguyên Đán người dân trong nước và ở hải ngoại đều nhớ đến hai cái Tết lịch sử của dân tộc:
- Tết Mậu Thân 1968, vành khăn sô đã đặt lên đầu người dân Huế, sự bạo tàn đã chôn hàng ngàn người mà cho đến ngày hôm nay, có nhiều gia đình chưa tìm được xác của thân nhân.
- Tết Kỷ Dậu 1789, một cái Tết mà hằng năm dân Bình Định, huyện Tây Sơn đã tổ chức Lễ Tưởng Niệm để tưởng nhớ ba vị anh hùng áo vải Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ đã cứu nước khỏi giặc Tàu. Đó là năm 1789 mà vua Quang Trung Nguyễn Huệ đại thắng quân Thanh.
Lúc ấy anh em Nguyễn Nhạc dân áo vải, dấy binh ở ấp Tây Sơn, chống nhau với chúa Nguyễn trong Nam để lập nghiệp ở đất Quy Nhơn. Nguyễn Huệ là vua Thái Tổ nhà Nguyễn Tây Sơn, trước giúp anh bốn lần vào Gia Định đều được toàn thắng, phá hai vạn quân Xiêm La, sau lại ra Bắc Hà, dứt họ Trịnh, tôn vua Lê. Nhưng vì vua nhà Lê nhu nhược, triều thần lúc bấy giờ không ai có tài kinh luân, lại để cho Trịnh Bồng và Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền sinh tán loạn. Nguyễn Huệ phải ra Bắc lần thứ hai mới dẹp yên. Sau vua Chiêu Thống và bà Hoàng Thái Hậu sang cầu cứu bên Tàu, vua nhà Thanh nhân dịp ấy mượn tiếng cứu nhà Lê, bèn sai binh tướng sang giữ thành Thăng Long, nước ta lại rơi vào tay người Tàu.
Quang Trung Nguyễn Huệ là ai?
Nguyễn Huệ tên thật là Hồ Thơm, chào đời năm 1753 tại huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định, là con ông Hồ Phi Phúc và bà Nguyễn Thị Đồng. Tại sao Hồ Thơm lại đổi tên thành Nguyễn Huệ, theo Từ Điển Hán Việt của Đào Duy Anh, Huệ (惠) có nghĩa là lòng nhân ái khác với chữ Huệ (蕙) có bộ thảo (艹) trên đầu là hoa huệ, tức là Thơm, có thể hai lối giải thích về việc đổi tên từ Thơm ra Huệ đều đúng cả.
Nói đến Nguyễn Huệ là nói đến thiên tài quân sự, có thể so sánh với Alexandre Đại Đế, nhà quân sự bách chiến bách thắng của Âu Châu (lời của Giáo Sĩ Lefroy, 1789). Theo Tôn Tử một thiên tài quân sự phải gồm sáu yếu tố: Trí, Nhân, Kính, Tín, Dũng và Nghiêm, vua Quang Trung Nguyễn Huệ hội đủ sáu yếu tố này.
Vua Quang Trung Nguyễn Huệ, sau đổi tên là Nguyễn Quang Bình, là một người có sức khỏe tuyệt trần, lại có mưu trí quyền biến, mẹo mực như thần, khởi binh ở đất Tây Sơn (thuộc huyện An Khê, Bình Định) giúp anh là Nguyễn Nhạc lập nên nghiệp lớn, được phong làm Bắc Bình Vương, đóng đô ở đất Phú Xuân. Năm Mậu Thân (1788) quân nhà Thanh mượn tiếng sang cứu nhà Lê, chiếm giữ thành Thăng Long, có ý muốn lấy đất An Nam, Bắc Bình Vương lên ngôi Hoàng Đế đặt niên hiệu là Quang Trung, rồi đem binh ra Bắc đánh giặc.
Khi vua Lê Chiêu Thống cùng Hoàng Thái Hậu sang Tàu nương náu và cầu binh cứu viện, Quan Tổng Đốc Lưỡng Quảng bấy giờ là Tôn Sĩ Nghị dâng biểu tâu với vua Càn Long nhà Thanh, đại lược nói rằng: "Họ Lê là cống thần nước Tàu, nay bị giặc lấy mất nước, mẹ và vợ tự quân sang cầu cứu, tình cũng nên thương. Vả nước Nam vốn là đất cũ của nước Tàu, nếu sau khi cứu được nhà Lê, và lại lấy được đất An Nam, thực là lợi cả đôi đường." Vua Càn Long nghe lời tâu ấy sai Tôn Sĩ Nghị khởi quân bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam, đem sang đánh Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị chia quân ra làm 3 đạo, sai Quan Tổng Binh tỉnh Vân Nam và Quý Châu đem một đạo sang mạn Tuyên Quang, sai Sầm Nghi Đống là Tri Phủ Điền Châu đem một đạo sang mạn Cao Bằng. Sĩ Nghị cùng với Đề Đốc là Hứa Thế Hanh đem một đạo sang mạn Lạng Sơn, hẹn ngày tiến binh sang đánh An Nam.
Tướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở ở Thăng Long được tin quân Tàu đã sang, sợ thế yếu đánh không nổi, bèn rút quân thủy bộ về đóng giữ từ núi Tam Điệp ra đến bờ bể, rồi sai người về Phú Xuân cấp cáo. Tôn Sĩ Nghị kéo quân đến Kinh Bắc (Bắc Ninh), vua Chiêu Thống ra chào mừng rồi theo quân Tàu về Thăng Long. Sĩ Nghị đóng đồn ở giữa bãi, về mé nam sông Nhị Hà, bắc cầu phao ở giữa sông để tiện đi lại, và chia
quân ra giữ các mặt. Ngày hôm sau, Sĩ Nghị làm lễ tuyên đọc tờ Sắc của vua nhà Thanh phong cho vua Chiêu Thống làm An Nam Quốc Vương. Vua Chiêu Thống tuy đã thụ phong, nhưng các tờ văn thư đều phải đề niên hiệu Càn Long. Mỗi khi buổi chầu xong rồi, lại đến dinh Sĩ Nghị để chầu chực việc cơ mật quân quốc. Vua cưỡi ngựa đi với độ mười người lính hầu mà thôi. Sĩ Nghị thì ngạo nghễ, tự đắc, ý tứ xử với vua rất là khinh bạc, có khi vua Chiêu Thống lại hầu, không cho vào yết kiến, chỉ sai một người đứng dưới gác chiêng truyền ra rằng: "Không có việc quân quốc gì, xin ngài hãy về cung nghỉ." Người bấy giờ bàn riêng với nhau rằng: "Nước Nam ta từ khi có đế vương đến giờ, không thấy vua nào hèn hạ đến thế. Tiếng là làm vua mà phải theo niên hiệu vua Tàu, việc gì cũng phải bẩm đến Quan Tổng Đốc, thế thì có khác gì đã là nội thuộc rồi không?". Vua và triều thần bấy giờ việc gì cũng trông cậy vào Tôn Sĩ Nghị, ngày đêm chỉ lo việc báo ân báo oán, giết hại những người trước đã đi theo Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị thì càng ngày càng kiêu ngạo thêm, coi việc binh làm thường, lại thả quân lính ra cướp phá dân gian, làm lắm sự nhiễu nhương.
Bắc Bình Vương Quang Trung được tin quân nhà Thanh đã sang đóng ở Thăng Long, lập tức hội các tướng sĩ để bàn việc đem binh ra đánh. Để yên lòng người rồi sẽ khởi binh, Bắc Bình Vương bèn sai đắp đàn ở núi Bàn Sơn, ngày 25 tháng Mười một năm Mậu Thân (1788), Vương làm lễ lên ngôi Hoàng Đế, rồi tự mình thống lĩnh thủy bộ đại binh ra đánh giặc Thanh.
Ra đến Nghệ An nghỉ lại 10 ngày để lấy thêm binh, cả thảy được 10 vạn quân và hơn 100 con voi. Vua Quang Trung điểm duyệt quân sĩ, truyền dụ mọi người phải cố gắng đánh giặc giúp nước. Đoạn rồi kéo quân ra Bắc, đến ngày 20 tháng Chạp thì đến núi Tam Điệp. Ngô Văn Sở, Ngô Thời Nhiệm đều ra tạ tội, kể chuyện quân Tàu thế mạnh, sợ đánh không nổi cho nên phải lui về giữ chỗ hiểm yếu. Vua Quang Trung cười mà nói rằng: "Chúng nó sang phen này là mua cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này đã định mẹo rồi, đuổi quân Tàu về chẳng qua 10 ngày là xong việc. Nhưng chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp 10 nước ta, cho nên sau khi chúng thua một trận, tất chúng lấy làm xấu hổ, lại tìm dịp báo thù, như thế thì đánh nhau mãi không thôi, dân ta hại nhiều, ta sao nỡ thế. Vậy đánh xong trận này, ta phải nhờ Thời Nhiệm dùng lời nói cho khéo để đình chỉ việc chiến tranh. Đợi mươi năm nữa, nước ta được phú cường, ta không cần phải sợ chúng nữa."
Vua Quang Trung truyền cho tướng sĩ ăn Tết Nguyên Đán trước, đến hôm trừ tịch thì cất quân đi, định ngày mồng Bảy tháng Giêng thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Đoạn rồi, truyền lệnh cho ba quân đến nghe lệnh điều khiển. Đại Tư Mã Sở, Nội Hầu Lân đem tiền quân đi tiên phong. Hô Hổ Hầu đem hậu quân đi đốc chiến. Đại Đô Đốc Lộc, Đô Đốc Tuyết đem hữu quân cùng thủy quân, vượt qua bể vào sông Lục Đầu. Tuyết thì kinh lược mặt Hải Dương, tiếp ứng đường mé Đông, Lộc thì kéo về vùng Lạng Giang, Phượng Nhỡn, Yên Thế để chặn đường quân Tàu chạy về. Đại Đô Đốc Bảo, Đô Đốc Mưu đem tả quân cùng quân tượng mã đi đường núi ra đánh phía Tây. Mưu thì xuyên ra huyện Chương Đức (nay là Chương Mỹ), tiện đường kéo thẳng đến làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, đánh quân Điền Châu, Bảo thì thống suất quân tượng mã theo đường huyện Sơn Lãng ra làng Đại Áng thuộc huyện Thanh Trì tiếp ứng cho mặt tả. Năm quân được lệnh đều thu xếp đâu đấy.
Đến hôm 30 Tết khua trống kéo ra Bắc. Khi quân sang sông Giản Thủy, cánh nghĩa quân của nhà Lê tan vỡ chạy cả. Vua Quang Trung thân đốc các quân đuổi theo đến huyện Phú Xuyên bắt sống hết được toán quân Tàu đóng ở đấy, không một người nào chạy thoát được, vì thế cho nên không có tin báo về, những quân Tàu đóng ở làng Hà Hồi và làng Ngọc Hồi không biết gì cả. Nửa đêm ngày mồng 3 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789) quân vua Quang Trung đến làng Hà Hồi vây kín đồn giặc, rồi bắc loa lên gọi, các quân dạ ầm cả lên, có hàng muôn người. Quân canh đồn bấy giờ mới biết, sợ hãi, đều xin hàng, bởi thế, lấy được hết cả quân lương và đồ khí giới. Sáng mờ mờ ngày mồng Năm, quân Tây Sơn tiến lên đến làng Ngọc Hồi, quân Tàu bắn súng ra như mưa. Vua Quang Trung sai người lấy những mảnh ván, ghép ba mảnh lại làm một, lấy rơm cỏ tẩm nước quấn ở ngoài, rồi sai quân kiêu dũng cứ 20 người khiêng một mảnh, mỗi người dắt một con dao nhọn, lại có 20 người cầm khí giới theo sau. Vua Quang Trung cưỡi voi đi sau đốc chiến, quân An Nam vào đến gần cửa đồn, bỏ ván xuống đất, rút dao ra, xông vào chém, quân đi sau cũng kéo ùa cả vào đánh. Quân Tàu địch không nổi, xôn xao tán loạn, xéo lẫn nhau mà chạy. Quân Nam thừa thế đánh tràn đi, lấy được các đồn, giết quân Thanh thây nằm ngổn ngang khắp đồng, máu chảy như tháo nước. Quân các đạo khác cũng đều được toàn thắng. Quan nhà Thanh là đề đốc Hứa Thế Hanh, Tiên Phong Trương Sĩ Long, Tả Dực Thượng Duy Thăng đều tử trận cả. Quan Phủ Điền Châu là Sầm Nghi Đống đóng ở Đống Đa bị quân An Nam vây đánh cũng thắt cổ mà chết. Tôn Sĩ Nghị nửa đêm được tin báo, hoảng hốt không kịp thắng yên ngựa và mặc áo giáo, đem mấy tên lính kỵ chạy qua sông sang Bắc. Quân các trại nghe tin như thế, xôn xao tan rã chạy trốn, tranh nhau sang cầu, cầu sập, nhào cả xuống sông chết đuối, sông Nhị Hà đầy những thây người chết. Vua Chiêu Thống cũng theo Tôn Sĩ Nghị sang sông cùng với bà Hoàng Thái Hậu và mấy người cận thần chạy sang Tàu. Đạo quân Vân Nam và Quý Châu đóng ở miền Sơn Tây nghe tin Tôn Sĩ Nghị đã thua, cũng rút quân chạy về. Ngày hôm ấy vua Quang Trung đốc quân đánh giặc, áo ngự bào bị thuốc súng bắn vào đen như mực. Đến trưa thì vào thành Thăng Long, sai tướng đem binh đuổi đánh quân nhà Thanh đến cửa Nam Quan. Những dân Tàu ở gần Lạng Sơn sợ khiếp, đàn ông, đàn bà dắt díu nhau mà chạy, từ cửa ải về mé bắc hơn mấy trăm dặm, tịnh không nghe thấy tiếng một người
nào! Vua Quang Trung vào thành Thăng Long, hạ lệnh chiêu an, phàm những người Tàu trốn tránh ở đâu ra thú tội, đều được cấp cho áo mặc, lương ăn. Lại bắt được cả ấn tín của Tôn Sĩ Nghị bỏ lại, trong những giấy má bắt được có tờ mật dụ của vua Càn Long.
nào! Vua Quang Trung vào thành Thăng Long, hạ lệnh chiêu an, phàm những người Tàu trốn tránh ở đâu ra thú tội, đều được cấp cho áo mặc, lương ăn. Lại bắt được cả ấn tín của Tôn Sĩ Nghị bỏ lại, trong những giấy má bắt được có tờ mật dụ của vua Càn Long.
Vua Quang Trung sai sứ đem thư sang Tàu, và lại sai đem những
quân nhà Thanh đã bắt được, để ở một nơi, cấp cho lương thực, đợi ngày cho về nước. Xếp đặt mọi việc xong rồi, đem quân về Nam, lưu Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân ở lại coi các việc quân quốc, còn những việc giao thiệp với nước Tàu thì ủy thác cho Ngô Thời Nhiệm và Phan Huy Ích.
quân nhà Thanh đã bắt được, để ở một nơi, cấp cho lương thực, đợi ngày cho về nước. Xếp đặt mọi việc xong rồi, đem quân về Nam, lưu Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân ở lại coi các việc quân quốc, còn những việc giao thiệp với nước Tàu thì ủy thác cho Ngô Thời Nhiệm và Phan Huy Ích.
Quang Trung Nguyễn Huệ đại thắng quân Tàu Tết Nguyên Đán Kỷ Dậu (1789) là chiến thắng cuối cùng của dân Việt đối với nước Tàu. Vua Quang Trung mất năm Nhâm Tý (1792), làm vua được 4 năm, thọ được 40 tuổi, miếu hiệu là Thái Tổ Võ Hoàng Đế.
Tiếc thay vua Quang Trung mất sớm, nếu không nước Việt đã được mở rộng, hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây sẽ thuộc về nước Việt chứ không phải đến ngày hôm nay đất và biển lại bị nước Tàu lấn chiếm.
Lệnh Hồ Công Tử tổng lược
Montreal, 31 tháng Giêng năm 2018