Để tưởng nhớ Trung Tá Phạm Việt Châu, tác giả “Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh” người đã ra đi như một thuyền trưởng ở lại với con tàu lịch sử tháng 4 năm 1975.
Người Việt chúng ta thường cho rằng mọi hình thức văn hoá và con người phát xuất từ phương bắc của Việt Nam, đặc biệt là từ vùng Hoa Nam của Trung quốc, đều thuộc về Trung Hoa. Chúng ta vẩn gọi chung người Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam, Hẹ là ngươì Tàu hay người Hoa, kể cả toàn bộ người dân sống ở những vùng này cách đây hàng mấy ngàn năm cũng là người Tầu. Chữ “Tầu” hay “Hoa” hàm ý nghĩa họ là những người khác chủng với dân tộc Việt. Họ là người Trung Hoa, hay ngườì Hán.
Quan điểm sai lầm nầy của người Việt đối với người Hoa phát xuất từ quá trình đồng hoá quá lâu của người Hán đối với các dân tộc Bách Việt tại vùng Hoa Nam. Đồng thời nó phát xuất từ những nhận định sai lầm về lịch sử của các triều đại trước đây.
Ngày nay những nổ lực khám phá về lịch sử và địa lý miền Hoa Nam cổ đại, cũng như những nghiên cứu về chủng tộc dựa trên DNA đã chiếu nhứng ánh sáng mới giúp chúng ta đặt lại một số vấn đề cơ bản về chủng tộc và lịch sử. Những nhận định cơ bản nầy sẽ là nền tảng lý luận giúp chúng ta có một cái nhìn hợp lý về sử học nước nhà, một chính sách ngoại giao dựa vào văn hoá đồng chủng với các nước Đông Nam Á và các đảo quốc ở Thái Bình Dương, và một sách lược văn hoá đối với người Hoa đang sinh sống tại Việt Nam.
Địa Lý Bách Việt miền Hoa Nam thời cổ đại
Sự hiện diện của văn minh Bách Việt thời Thương Chu trong lịch sử Trung Hoa được đánh dấu bằng câu chuyện sứ giả Việt Thường ở phương nam đem Bạch Trĩ và Ruà sống ngàn năm để cống dâng cho vua nhà Chu. Lúc bấy giờ lãnh thổ của nhà Chu chỉ kéo dài tới sông Hoàng Hà. Đến thời Chiến Quốc, khoảng 500 trước công nguyên, một số dân tộc ở Nam Trung Hoa mới xuất hiện trong sử Trung Quốc. Nổi bật nhất là các nước Sở, nước Ngô và nước Việt.
Khi Sở, Ngô, Việt bị Tần Thủy Hoàng sát nhập vào Trung Hoa, và Lưu Bang đã diệt được Hạng Võ, cuối triều đại nhà Tần và đầu thời kỳ Hán khi Lưu Bang mới lên ngôi (256-195 TCN) phía nam nước Sở vẫn còn là chủ quyền của các dân tộc Bách Việt hoàn toàn độc lập và tự chủ. (Xem bản đồ Trung Hoa thời Tần Thủy Hoàng Cao tổ).
Truyền thuyết xác định rằng dân tộc Việt phát xuất từ Động Đình Hồ miền Lĩnh Nam. Sách Lĩnh nam Chích Quái của Trần Thế Pháp ở thế kỷ 15 kể Truyện họ Hồng Bàng như sau:
“Đế Minh cháu ba đời họ Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, sau nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục. Tục dung mạo đoan chính, thông minh phúc hậu, Đế Minh rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình.
Ngũ Lĩnh là năm rặng núi lớn ở Nam Trung Hoa thuộc miền Lĩnh Nam. Miền Lĩnh nam đưọc sử tây phương viết như sau “Lĩnh nam là vùng đất phia nam của rặng Ngũ Lĩnh gồm các rặng Đại Dũ /Dữu Lĩnh, Kỵ Điền Lĩnh, Đô Bàng Lĩnh, Manh Chử Lĩnh và. Việt Thành Lĩnh. Vùng nầy gồm các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam và Giang Tây của Trung Hoa hiện đại. Vùng nầy do dân Bách Việt sinh sống và là tổ quốc của dân Nam Việt cổ đại” (xem http://en.wikipedia.org/wiki/Jiangxi )
Tác giả Việt Sử Thông Luận cho rằng, sau khi mất bản địa Thái Sơn (tỉnh Sơn Đông, bắc Trung Hoa), Con cháu Thần Nông đã rút quân về Động Đình Hồ để xây dựng căn cứ địa văn hoá mới cho dân Việt. Tướng của Đế Minh là Si Vưu ở lại giữ Thái Sơn và sau ba năm chiến đấu chống tù trưởng của nòi Hán là Hiên Viên, quân của Si Vưu tan rã và từ đó, dân Việt mất căn cứ địa văn hoá Thái Sơn. Hiên Viên chiếm đưọc thái Sơn lên ngôi là Hoàng Đế. Ngày nay, dân tộc Việt chỉ còn câu ca dao: “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” để ghi dấu cái nôi văn hoá đầu tiên của dân Việt.
Khi Lưu Bang cướp ngôi nhà Tần ở phưong bắc, thì ở phương nam, Triệu Đà thống nhất được các nước Bách Việt trong đó có cả nước Âu Lạc của tổ tiên chúng ta. Đó là cuộc thống nhất Bách Việt lần thứ nhất. Nhà Triệu truyền ngôi được 4 đời thì bị nhà Hán xâm chiếm và miền Lĩnh Nam bị bắc thuộc từ đó.
Đến thời kỳ Hai Bà Trưng, 40 năm sau công nguyên, Hai Bà đã thống nhất được 65 thành miền Lĩnh Nam. Sử viết: “Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Hai bà lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam. Trưng Trắc tự lập làm vua, xưng là Trưng Nữ Vương.” Đây là cuộc thống nhất Bách Việt lần thứ hai.
Do đó, khi truy tầm nguồn gốc Bách Việt của dân tộc Việt cần để ý các vần đề sau đây:
- Thời cổ đại đã xuất hiện các dân tộc Bách Việt ở phía nam sống Dương Tử. Một số nước Việt giáp biên giới với nhà Chu thường được đề cập đến trong sử sách Trung Hoa, đó là Sở, Việt (với Viêt Vương Câu Tiển), Ngô Việt (với Ngô Phù Sai). Khi nhà Tần thống nhất thiên hạ, các nước Việt trên bị sáp nhập vào nhà Tần. Còn các nước Việt khác như Âu Việt, Mân Việt, Thái Việt, Điền Việt, Lạc Việt, Việt Thường và một số nước Việt khác phiá nam vẫn còn giữ được nền độc lập.
- Cần xem khám phá mới của Stephen Oppenheimer tác giả Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast Asia (Địa Đàng ở Phương Đông: Lục Địa Đông Nam Á Bị Chìm Dưới Đáy Biển) để thấy nền văn minh Hoa Nam trãi dài xuống Đông Nam Á và các hải đảo ở Thái Bình Dương. Các dân tộc như Mân Việt, Ngô Việt, Âu Việt gồm các bộ tộc, Phúc Kiên, Triều Châu, Quảng Đông, Quảng Tây, Hẹ, Hải Nam, Đai Loan, Thái, Nam Dưong và các thổ dân ở vủng đảo Thái Bình Dương đều có nguồn gốc Bách Việt. - Do các dân tộc Bách Việt đã sinh sống ở miền Hoa Nam trưóc khi vùng nầy bị Tần Hán xâm lược, dân Việt phải là chủ nhân ông nền văn hoá thời bấy giờ. Các khám phá khảo cổ về văn minh Hoa Nam trước thời Tần và Hán thuộc phải được coi là chỉ dấu của văn minh Việt, chứ không thể là của Hán tộc. Người Việt cần phải coi đó là di sản của Việt tộc và phải mạnh dạn giành lại chủ quyền văn hoá của mình. Các nhà nhân chủng học Đài Loan gần đây đã tìm cách phục hồi lại nguồn gốc Bách Việt của ngừời Đài Loan như Phúc Kiến (Minnan, có lẽ là Mân Việt) và Hẹ (Hakka) là hai giống dân đông nhất trên đảo.
Hiện nay có nhiều nghiên cứu về DNA đã xác định quan hệ chủng tộc của các dân tộc Bách Việt. Cụ thể là trong tác phẩm nghiên cứu nguồn gốc chủng tộc dựa vào gen di truyền (DNA) của nhà nghiên cứu M. Liu của Mackay Memorial hospital và được viện Nghiên Cứu Sức Khoẻ quốc gia của Đài Loan tài trợ, tác giả M. Liu chứng minh là các giống dân miền Hoa Nam, Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương có liên hệ gen di truyên khác biệt với chủng tộc Hán ở miền bắc. (http://www.wufi.org.tw/eng/linmalie.htm).
Những khám mới về nhân chủng học của Đài Loan đã chiếu ánh sáng vào lịch sử nòi giống Bách Việt. Chúng ta có thể xác định rằng dân Bách Việt đã từng chiếm lĩnh miền Hoa Nam và dần dà bị Hán tộc xâm lăng và đồng hoá. Chỉ có Việt Nam hiện nay tức là Âu Lạc, Lạc Việt, Việt Thường và Đại Việt sau nầy, là còn giữ được văn hoá của Bách Việt.
Vấn đề người Tàu lập đế nghiệp ở Đại Việt
Sau khi đã xác định được địa lý văn hoá vùng Bách Việt chúng ta hãy trở về với một bí ẩn lịch sử của dân tộc ta. Đó là từ nhà tiền Lý (Lý Nam Đế) đến nhà Tây Sơn, một số các các triều vua lớn được sử sách của ta cho là có gốc từ Tàu.
Về Lý Nam Đế, sử gia Trần Trọng Kim viết: “Lý Bôn, có người gọi là Lý Bí, vốn dòng dõi người Tàu. Tổ tiên ở đời Tây Hán phải tránh loạn chạy sang Giao Châu, đến lúc bấy giờ là bảy đời, thành ra người bản xứ.”
Về dòng dõi nhà Trần, Đại Việt Sử Toàn Thư viết về gia phà của vua Trần Thái Tông như sau: “trước kia tổ tiên vua là người đất Mân, (có ngườì nói là Quế Lâm), có người tên là Kinh, đến ở hương Tức Mặc phủ Thiên Tường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua con của Thừa, mẹ họ Lê … (ĐVSKTT tr 159)
Về Hồ Quí Ly, Đại Việt Sử Ký toàn Thư viết: “Quý Ly, tự là Lý Nguyên, tự suy tổ tiên là Hồ Hưng Dật vốn ở Chiết Giang, đời Hậu Hán, thời Ngũ Quí sang làm thái thú Diễn Châu.” (ĐVSKTT tr 293).
Về nhà Tây Sơn, Việt nam Sử Lược của Trần Trọng Kim viết: “Nguyên tổ bốn đời của Nguyễn Nhạc là họ Hồ, cùng một tổ với Hồ Quí Ly ngày trước…” (VNSL Trần trọng Kim tr. 144).
Như thế thì có ít nhất là bốn triều đại như Tiền Lý, Trần, Hồ, Tây Sơn đều là người gốc ở phương bắc và xuống phương nam lập nên đế nghiệp.
Phải chăng những vị lập nên các triều đại nầy là người Hán? Để giải đáp bài toán lịch sử nầy chúng ta phải xét lại hiện tượng phục hoạt của Việt tính hay ý thức Việt ở trong các triều đại nói trên.
SỰ PHỤC HOẠT CỦA VIỆT TÍNH TRONG THỜI KỲ BẮC THUỘC
Từ khi cuộc kháng chiến chống quân Hán xâm lược của Lữ Gia và Triệu Dương Vưong thất bại (111 TCN) đất Nam Việt bị nhà Hán chiếm đóng và danh xưng Việt đã bị linh lạc bởi quá trình đô hộ và đồng hoá. Từ thời kỳ Hán thuộc trở đi, danh xưng Việt đã biến mất trong các sách sử của Trung Quốc, và được thay thế bằng hai chữ An nam và Giao Chỉ. Ngay cả thời kỳ Hai Bà Trưng danh xưng Việt cũng chưa được phục hoạt.
Khoảng cách thời gian giữa Lữ Gia và Lý Bôn là hơn 650 năm. Tại sao khi Lý Bôn (544) lên ngôi ông lấy đế hiệu là Nam Việt Đế? Ý thức Việt trong đế hiệu đó ở đâu ra? Phải chăng suốt 650 năm bị Hán hoá, một tầng lớp nhân dân Bách Việt từ miền Lĩnh Nam rút về vùng đất  Lạc, Việt Thường vẫn giữ vững ý thức Việt, lưu giữ và bảo tồn nó qua không gian và thời gian.
Lịch sử chiếm đóng miền miền Lĩnh Nam của nhà Hán đi liền với những nổi dậy của dân tộc Việt và những cuộc đàn áp khốc liệt. Suốt hai ngàn năm, địa danh Lĩnh Nam biểu tượng cho tinh thần chống lại Hán hoá. Ngưòi dân miền nầy đưọc gọi là “Lục Lương” hay “Cường Lương” nghĩa là dân cứng cổ. (theo Lê Văn Siêu và Lý Đông A). Người đọc sử cần hiểu ý nghĩa về xã hội loạn lạc thời Hán ở vùng Lĩnh Nam. Khi sử gia Trần Trọng Kim viết: “ Tổ tiên (Lý Bôn) ở đời Tây Hán phải tránh loạn chạy sang Giao Châu.” người đọc sử phải hiểu rằng “Loạn” là những cuộc nổi dậy của dân bản địa nổi lên đánh đuổi chính quyền đô hộ phưong bắc.
Đây là lý do hợp lý nhất để giải thích sự kiện dòng họ Lý Bôn đã đi về phương Nam. Khi đã định cư ở Âu Lạc, dòng họ nầy vẫn ấp ủ tinh thần Phục Việt từ thế hệ nầy qua thế hệ khác. Họ chờ đợi để được thấy một ngày nào đó danh xưng Việt được tái hiện trong lịch sử. Dòng họ Lý Bôn và những dòng họ Bách Việt khác đã đã truyền lại cho con cháu mối quyết tâm nuôi dưỡng tinh thần quật khởi đợi ngày giành lại non sông.
Chỉ bằng sự xác định được quan hệ giữa Bách Việt và Lý Bôn chúng ta mới hiểu được tại sao ý thức Việt đã được phục hoạt trong phong trào độc lập của nhà Tiền Lý. Nếu nói “Lý Bôn là dòng dõi người Tàu” như sử gia Trần Trọng Kim viết, thì e rằng chúng ta không giải thích được hiện tượng phục hoạt danh xưng Việt ở thời kỳ đó.
Đặc biệt là thời kỳ Lý Trần là thời kỳ cực thịnh của văn hoá Việt. Câu hỏi có thể đặt ra là nếu họ Trần có gốc Tàu thì tại sao họ Trần phải phục hưng văn hoá Việt?
Hay như trong hịch Tây Sơn của đức Quang Trung Hoàng đế kêu gọi : “đánh cho được để tóc dài, đánh cho được nhuộm răng đen, đánh cho nó chích luận bất phản, đánh cho nó phiến giáp bất hoàn, đánh cho sử tri Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ”. Nếu cho rằng Quang Trung mang dòng máu Tàu thì tại sao ông đòi đánh Tàu để dân tộc Việt được giữ gìn tục để tóc dài, ăn trầu, nhuộm răng đen, để cho bọn Tàu biết là nước Nam nầy là có chủ. Và khi đã diệt được quân xâm lược ngài đã yêu sách đòi nhà Thanh phải trả lại miền Lưỡng Quảng, tức là vùng Lĩnh nam thời cổ đại?
Chỉ có một câu trả lời hữu lý duy nhất là ông tổ của các dòng họ như Lý Bôn, Trần Thừa, Hồ Quí Ly và nhà Tây Sơn là những người thuộc giòng giống Bách Việt. Những dòng tộc nầy đã thất bại trong những lần nổi dậy chống quân xâm lược và đã lui về phương nam tìm đất sống. Họ đã hoà nhập vào văn hoá Âu Lạc, Lạc Việt và Việt Thường để trở thành người dân địa phương. Họ đã cùng với các dòng tộc Việt địa phương nuôi duỡng ý chí Phục Việt âm thầm dưới đáy tầng quốc dân từ đời nầy qua đời khác để lấy ý thức dân tộc làm sức mạnh kháng cự tham vọng của Hán tộc để bảo tồn văn hoá và giành lại độc lập cho dân tộc Việt.
Bách Việt trong Lòng Đại Việt
Nói tóm lại, lịch sử tồn tục và tiến hoá của dân tộc Việt là hành trình lui dần về phương nam trước sự lớn mạnh của Hán tộc để bảo tồn nòi giống. Từ thời cổ đại, dân tộc Việt đã mất Thái Sơn là cái nôi văn hoá đầu tiên. Sau khi Thái Sơn bị Hoàng Đế xâm chiếm, con cháu Thần Nông đã rút về Đông Đình Hồ vùng Lĩnh Nam để xây dựng lại căn cứ địa văn hoá lần thứ hai. Khi Lữ Gia thất trận, các dân tộc Bách Việt thuộc nước Nam Việt đã chạy vê Phong Châu ở phương nam hội nhập vào Âu Lạc để xây dựng lại căn cứ địa văn hoá thứ ba. (Xem Việt Sử thông Luật của LĐA, và Dịch Kinh Linh Thể của Kim Định)
Đây là lý do khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa các dân tộc Bách Việt thuộc 65 thành ở Lĩnh nam đã hưởng ứng. Địa lý chính trị thời kỳ Hai Bà chính là vùng Lĩnh Nam và nước Nam Việt cũ. Mặc dầu cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thất bại, công cuộc thống nhất Bách Việt của Hai Bà đã tái hợp Bách Việt và kéo các dân tộc Bách Việt ngồi lại với nhau. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà đã cho các dân tộc Bách Việt và các gia đình vọng tộc ở miền Hoa Nam niềm hy vọng phục hoạt dân tộc Việt. Vùng đất Âu Lạc với những địa linh như Phong Châu, Mê Linh và những nhân kiệt như Hai Bà Trưng và Bà Triệu, và những danh tướng trong đoàn quân kháng chiến, đã nêu tấm gương yêu nước và là niềm hy vọng cho nòi giống Bách Việt.
Sau thời kỳ Hai Bà Trưng các dân tộc Bách Việt với dân tộc Âu Lạc đã hội nhập lại với nhau. Bên cạnh đó sự xuất hiện của Phật Giáo như là một hệ thống triết học và văn hoá trong thời kỳ nầy đã tạo nên một sức mạnh văn hoá mới được dân Việt nhanh chóng tiếp thu, và đã giúp cho dân Việt có chổ dựa tinh thần và vật chất. Về tinh thần, Phật Giáo hoà nhập vào văn hoá dân tộc để chống lại quá trình Hán hoá. Về vật chất, chùa chiền trở thành những trung tâm nối kết và vận động lịch sử từ miền Ngũ Lĩnh xuống đến tận Việt Thường. Luy Lâu (Bắc Ninh) trở thành trung tâm Phật Giáo miền Hoa Nam.
Các tổ sư Mâu Bác, Huệ Năng đưa Phật giáo tới đỉnh cao của thiền học. Võ thuật cũng được phát triển mạnh mẽ vùng Lĩnh Nam trong thời kỳ nầy. Do đó, chúng ta thấy bên cạnh những phong trào kháng chiến thời Hán thuộc đều có bóng dáng của những cao tăng. Và trong thời kỳ độc lập, các thiền sư như Ngô Chân Lưu, Khuông Việt và Vạn Hạnh đã đóng một vai trò tích cực trong việc phục hồi văn hoá dân tộc và xây dựng đất nước. Nhờ những định chế văn hoá mới dưới hình thức tôn giáo nầy các dân tộc Bách Việt ở Âu Lạc đã tụ họp với nhau, bảo lưu được văn hoá và lịch sử dân tộc, và nuôi dưỡng được ý chí phục Việt.
Chiến Lược Phục Hoạt Văn Hoá Bách Việt
Sau gần một nghìn năm bị nòi Hán đô hộ, hai triều đại Lý-Trần, khởi đi từ Lý Nam Đế, đã phục hưng và phục hoạt lại nền độc lập và văn hóa Việt, xây dựng một nước Đại Việt hùng mạnh suốt gần 500 năm.
Ngày nay đất nước ta đang bước vào thế kỷ thứ 21. Sự lớn mạnh của Trung Hoa ngày nay hiện đang là mối đe doạ cho sự tồn vong của dân tộc. Vấn đề biên giới, lãnh hải, lãnh thổ giữa hai nước vẩn chưa ổn định và sẽ là mầm mống mâu thuần trong tương lai và cho thế hệ mai sau. Vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa vẫn là mối ưu tư hàng đầu của mọi người Việt còn thao thức với đất nước.
Trong bối cảnh đó, xác định được văn hoá Bách Việt và quan hệ chủng tộc giữa người Việt và các dân tộc miền Hoa Nam là tiền đề cho một sức mạnh tinh thần để đối phó với nước láng giềng phương bắc. Để khai quật được sức mạnh tinh thần nầy, Người Việt cần có một suy nghĩ mới và một chính sách văn hoá mới đối với các nước đồng chủng trong vùng và đối với Hoa Kiều đang định cư tại Việt Nam.
Cái cơ sở nền tảng để khai quật được sức mạnh tinh thần Đại Bách Việt hiện đại là ý thức rằng dân tộc Việt ngày nay là dân tộc thừa kế chân truyền di sản văn hoá Bách Việt ngày xưa. Và di sản văn hoá và văn minh Bách Việt cổ xưa đã được lưu giữ và bảo tồn trong trong quá trình hình thành nước Đại Việt và Việt Nam hiện đại. Với ý thức đó, người Việt hiện đại phải có cái nhìn mới về lịch sử nước nhà, phải mạnh dạn xác định sự đóng góp của các dòng họ Bách Việt trong quá trình hình thành lịch sử và văn hoá nước Đại Việt và Việt Nam hiện đại. Đồng thời chúng ta phải hãnh diện xác nhận dân tộc Việt hiện đại là dân tộc kế thừa và là chủ nhân ông di sản văn hoá Đại Bách Việt. Chúng ta phải đóng vai trò chủ động làm sống lại lịch sử và văn hoá của các dân tộc đồng chủng ở trong vùng và Hoa kiều trong nước.
Từ cơ sở đó, người viết đề nghị ba sứ mạng văn hoá như sau:
- Thứ nhất, cần phải có một nghiên cứu sử chính thức và học trình sử để chính thống hoá giá trị văn hoá Bách Việt trong sự hình thành văn hoá Việt Nam ngày nay.
- Thứ hai, phái có một chính sách hợp tác văn hoá đối với các nước đồng chủng ở Á Châu, đặc biệt là vùng Đông nam Á. - Thứ ba, phải có một quan niệm mới đối với người Hoa hiện đang ở Việt Nam. Sự xác định tính đồng chủng của các dân tộc Hoa Nam và Đông nam Á có chung huyết thống Bách Việt như các nước Đông Nam Á, các dân tộc miền Hoa Nam và Đài Loan và sự tái kiến thiết văn minh Bách Việt, sẽ là đối lực thích hợp đối với tham vọng về lãnh thổ, lãnh địa và văn hoá của Trung Hoa.
Từ nhận định đó, chúng ta phải có một chính sách ngoại giao mới đối với các nước Đông Nam Á. ASEAN sẽ có một vai trò văn hoá mới ngoài vai trò kinh tế, chính trị và quân sự. Ý thức đồng chủng sẽ giúp cho ASEAN mở rộng vòng tay để đón Đài loan và các đảo quốc ở Thái Bình Dương nhằm mở rộng không gian Bách Việt mới và để gây sức mạnh tinh thần trong liên minh các nước ở vùng Biển Đông.
Vấn đề quan trọng hơn là khi đã nhận diện được tính đồng chủng Bách Việt, người Việt trong nước và hải ngoại phải có một quan niệm mới và sách lược mới về Hoa Kiều ở Việt Nam.
Đối với thành phần Hoa Kiều xuất xứ từ Hoa Nam hay Lĩnh Nam như người Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Đài loan, Hải Nam, trước hết người Việt chúng ta cần phải chấm dứt não trạng xem họ là những người Trung Hoa hay người Hán. Chúng ta phải coi họ là người Bách Việt, người Lĩnh Nam. Họ là nạn nhân lâu đời của quá trình Hán hoá. Nhiệm vụ của chúng ta là phải tái hội nhập họ vào cộng đồng văn hoá Bách Việt hiện đại.
Công tác văn hoá chủ yếu đối với thành phần Hoa Kiều nầy là giúp họ ý thức được họ là dòng dõi Bách Việt. Chúng ta phải giúp cho các dân tộc miền Lĩnh Nam phục hồi được lịch sử Việt để cho dòng máu Việt bắt đầu chảy lại. Chúng ta phải giúp họ ý thức rằng mọi dân tộc xuất phát từ miền Bách Việt Lĩnh Nam đều là ngươì gốc Việt như chúng ta. Những người Hoa vùng Hoa Nam trưóc đây sẽ trở lại với nguồn gốc chân chính của họ là người Bách Việt.
Từ đó, một cộng đồng dân tộc Việt mới sẽ được hình thành. Và cộng đồng dân tộc mới nầy sẽ có sức mạnh văn hoá chất chứa 5,000 năm của Đại Bách Việt và một vùng địa lý văn hoá trãi rộng từ Hoa Nam xuống tận Đông Nam Á. Sức mạnh văn hoá mới đó có khả năng hoá giải sách lược dùng Hoa Kiều làm nội gián cho chiến dịch xâm thực tầm gửi của Trung Quốc hiện nay trên đất nước ta và các nước trong vùng Biển Đông.
Kết luận
Hồn sử là sự tồn tục và tiến hoá của dân tộc trên sự thành lập của nòi giống. Cái ý thức của tổ tiên khai sinh ra nòi giống tạo thành cái quốc túy dân tộc. Do đó, quốc hồn và quốc túy của một dân tộc là thành tố gốc của lịch sử. Một dân tộc mất quốc hồn và quốc túy là một dân tộc sẽ bị lịch sử đào thãi.
Mọi con người, mọi triều đại khi cầm nắm vận mệnh đất nước nếu không nắm giữ được quốc hồn và quốc túy sẽ bị lạc đường lịch sử và đưa đất nước vào tình trạng vong thân. Vì thế, những phong trào chống xâm lăng đều lấy ý thức dân tộc làm động lực lịch sử và lấy văn hoá thủy chuẩn dân tộc làm nền tảng nội dung cho sứ mệnh cứu nước. Ý thức lịch sử nầy đã thúc đẩy Lý Thường Kiệt viết Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư thời kỳ Phá Tống Bình Chiêm; Trần Hưng Đạo viết Hịch Tướng Sĩ thời kỳ Kháng Nguyên; Nguyễn Trãi viết BìnhNgô Đại Cáo và bộ Địa Dư Chí, Quang Trung viết hịch tướng sĩ với những dòng chữ “Đánh cho đưọc để tóc dài”; giúp cho Phan Bội Châu viết Việt Nam Quốc Sử Khảo; và Lý Đông A viết bộ Việt Sử Thông Luận trong thời kỳ chống Pháp.
Ý thức dân tộc vượt lên mọi định kiến về văn hoá kinh tế và chính trị. Ý thức dân tộc tồn tại qua mọi không gian, thời đại và triều đại. Nó nằm trong lòng mỗi một người dân. Nó phủ định mọi tư duy phủ nhận văn hoá dân tộc. Nó phủ định mọi nổ lực xử dụng văn hoá dân tộc ở mức độ hình thức để phục vụ cho nền văn hoá ngoại bang ở nội dung. Tìm về cội nguồn chính là quá trình tìm lại hồn sử.
Suốt một ngàn năm bị bắc phương đô hộ và đồng hoá, ý thức dân tộc vẫn nằm ẩn tàng trong đáy tầng của quốc dân. Nó được bảo quản và lưu truyền từ đời nầy qua đời khác. Nó là DNA lịch sử làm cho giòng máu Lạc Hồng tiếp tục chảy, và chảy mãi xuyên suốt thời đại.
Khi nền cai trị của ngoại bang suy yếu, khi tâm thức nô lệ ngoại bang ở mặt tầng suy sụp, ý thức dân tộc từ đáy tầng sẽ bùng dậy như những đợt sóng đáy, thúc đẩy những người yêu nước đứng lên giành lấy quyền làm chủ đất nước, làm chủ vận mạng của mình để phục hồi văn hoá thủy chuẩn dân tộc, để bảo tồn và phát huy ý thức dân tộc, và để khơi dậy nguồn sống cho dân tộc.
Với tâm thức đó, lịch sử có được một Lý Bôn với một dòng họ bôn ba từ miền Lĩnh Nam nổi trôi về miền Âu Lạc, và ông đã đứng lên giành độc lập cho dân tộc, lấy đế hiệu là Nam Việt Đế, đặt tên nước là Vạn xuân.
Sự việc Lý Bôn làm tái sinh danh xưng Việt với đế hiệu là Nam Việt Đế là một hành động lịch sử khởi động cho nền văn hoá Bách Việt được hồi sinh để nền văn hoá Bách Việt còn lưu truyền mãi trong lòng dân tộc Đại Việt; và từ đó Đại Việt đã trở thành căn cứ địa phục hoạt và phục hưng nền văn minh Bách Việt.
Nguyễn Xuân Phước
Xuân Kỷ Sửu 2009
Tham khảo:
- Các tác giả: Lý Đông A, Trần Ngọc Thêm, Cung Đình Thanh, Phạm Việt Châu, Lê Văn Siêu, Đào Duy Anh, Stephen Oppenheimer, Keith Weller Taylor, National Geographics, Trần Thế Pháp, Kim Định, Trần Trọng Kim, Đại Việt Sử Ký
- Google search: “Bách Việt, Lĩnh Nam, Linnan, Yueh, bǎi yuè, Lý Nam Đế, Lý Bôn, Quang Trung, Việt Sử, Taiwanese DNA, betel taiwan, Hoàng Đế, Suy Vưu, miêu, miao” |