Tuesday 5 March 2019

Bàn sơ lược về viễn cảnh Hoa Kỳ đặt hỏa tiễn tại Việt Nam - Nguyễn Trọng Dân

Những vị trí thuận lợi đặt hỏa tiễn khống chế Trung Cộng ở biển Đông

Giới chiến lược gia tại Hoa Thịnh Đốn từ lâu tin rằng nếu Hoa Kỳ ráp đặt đủ loại hỏa tiễn hiện đại của mình tại Phi Luật Tân và Việt Nam thì sẽ khiến Tập Cận Bình chùn tay do dự khi tiếp tục chương trình quân sự hóa và bành trướng lãnh hải của mình. Vào năm 2016 và 2017, khi Hoa Kỳ quyết định ráp đặt dàn hỏa tiễn THAAD tại biên giới Nam-Bắc Hàn, người ta thấy Bắc Kinh lo sợ ra mặt và phản ứng dữ dội về ngoại giao đối với Hoa Thịnh Đốn. Bắc Kinh biết rõ hệ thống radar của dàn hỏa tiễn THAAD đặt tại nơi này, với khả năng phạm vi dò tìm lên đến một ngàn cây số bán kính, có thể thu thập mọi hoạt động trên lãnh thổ Trung cộng, từ quốc phòng đến dân sự, khống chế vùng trời Trung cộng một cách dễ dàng. Điều này cũng khiến các dàn hỏa tiễn của Trung cộng vô hình chung bị theo dõi và vô hiệu hóa.
Trong bối cảnh Trung cộng hiện nay tiếp tục gia tăng sức mạnh quân sự của mình tại biển Đông, thì việc chính phủ Trump cho các tướng lãnh ra hù dọa lung tung có vẻ như không hữu hiệu cho lắm. Đáp trả lời hù dọa là quân đội Hoa Kỳ sẵn sàng nhấn chìm các đảo nhân tạo của Trung tướng Kenneth F. McKenzie, Giám đốc Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, Trung cộng cho điều phản lực cơ H-6K có khả năng phóng hỏa tiễn hạch tâm ra các đảo nhân tạo.
Nhằm tiếp tục áp lực lên Trung cộng, ngoài việc để cho các tướng lãnh của mình hù dọa Trung cộng tối đa, chính phủ Trump còn lần lượt điều hàng loạt các tàu chiến của mình và Đồng Minh tuần tra biển Đông và cập bến Việt Nam.
Uss Carl vinson in Danang
Vào tháng Ba năm 2018, Hàng Không Mẫu Hạm (HKMH) của Hoa Kỳ Carl Vinson đến Đà Nẵng. Thủy thủ của Hoa Kỳ được lệnh cho mở sân khấu hát hò “nối vòng tay lớn” ầm ỷ như là tín hiệu để phát ra cho đồng minh của mình, nhắc nhở là đã đến lúc phải bày tỏ thái độ của quốc gia mình về vấn đề biển Đông.

Kể từ đó, mảnh đất miền Nam từng mang tên Việt Nam Cộng Hòa nhộn nhịp chào đón hết tàu chiến của quốc gia này đến tàu chiến của quốc gia khác cập bến. Miền Nam Việt Nam trở thành cái thùng bỏ phiếu thuận hay chống Trung cộng của các cường quốc. Hể nước nào đồng tình với Hoa Kỳ về việc chống lại sự bành trướng lãnh hải của Trung cộng tại biển Đông thì cho tàu chiến cập bến miền Nam Việt Nam.
Điểm qua sơ sơ trong năm 2018 chúng ta thấy, vào tháng Năm, tàu chiến Ấn Sahyadri vào bãi Tiên Sa của Đà Nẵng. Trong tháng Bảy, tàu chiến La Fayette Surcouf của Pháp đến Sài Gòn, gần cuối tháng Bảy, tàu ngầm Kuroshio của Nhật đến cảng Cam Ranh. Tháng Chín, tàu HMS Albion của Hải quân Anh đến Sài Gòn. Cuối tháng Chin, tàu chiến Canada HMCS Calgary đến Đà Nẵng. Đó là chưa kể tàu của Nam Hàn, của New Zealand, Úc cũng lần lượt cập bến miền Nam Việt Nam.
Điều này thật sự làm cho Trung cộng có phần do dự khi tiếp tục quân sự hóa các đảo ở biển Đông trong thời gian qua, thế nhưng, sách lược này của Hoa Kỳ vẫn bị phê bình là chưa đủ vì sự đe dọa quân sự của Hoa Kỳ lên Trung cộng không được thường xuyên. Mà muốn cho Trung cộng chùn tay đổi ý, thì sự đe dọa quân sự lên Bắc Kinh phải thường xuyên hơn và hung hiểm hơn.
Từ đó, giải pháp đặt hàng loạt các dàn hỏa tiễn ở các vị trí chiến lược từ trong nội điạ của Việt Nam và từ các hải đảo của Phi được bàn đến.
Trong cuộc gặp gỡ với Trần Đại Quang và Nguyễn Xuân Phúc vào tháng 11 năm 2017, Tổng thống Trump đã nói bóng nói gió là hỏa tiễn do Hoa Kỳ làm ra tốt nhất thế giới, nhưng Quang lại cự tuyệt ý định của Trump, bảo rằng Việt Nam muốn gìn giữ chủ quyền thông qua con đường hòa đàm hòa bình. Báo chí đồn đoán là Trump muốn bán hỏa tiển cho cộng sản Việt Nam (csVN).
Trên thực tế, lời đồn từ báo chí là Trump muốn bán hỏa tiễn cho csVN có thể chỉ là sự che đậy vì Việt cộng chưa đủ khả năng về ngân sách để mua bất cứ hệ thống hỏa tiễn nào do Hoa Kỳ sản xuất. Đó là chưa kể chi phí vận hành, chi phí đạo tạo, mướn chuyên viên.
Một điểm khó khăn khác cho Hoa Kỳ khi tiến hành đặt các dàn hỏa tiễn của mình tại Việt Nam là Hoa Kỳ cần có một căn cứ quân sự hiện diện thường trực tại Việt Nam để hỗ trợ bảo vệ vùng trời cho sự an toàn của các dàn hỏa tiễn. Điều này vẫn còn trong vòng thương thảo kể từ sau khi Bộ trưởng Quốc phòng Panetta viểng thăm Cam Ranh vào tháng Sáu năm 2012. Tuy nhiên, người ta cũng đã thấy Bộ trưởng Quốc phòng Mattis viếng thăm sân bay Biên Hòa vào tháng 10 năm nay. Sân bay Biên Hòa từng là căn cứ Không quân của Hoa Kỳ vào thời Việt Nam Cộng Hòa.
Hoa Kỳ đã bỏ ra 390 triệu Mỹ kim để tu sửa phi trường và loại trừ những di hại của các hóa chất khai hoang khi xây dựng mở rộng phi trường này trong thời chiến nhằm đem đến sự an toàn cần thiết cho quân nhân Hoa Kỳ quay trở lại phi trường này trong tương lai. Ngoài phi trường Biên Hòa, phi trường quân sự Đà Nẵng cũng nằm trong danh sách được Hoa Kỳ chi viện. Lấy cớ là đổ chuyên viên thiết bị xuống phi trường Đà Nẵng và Biên Hòa trong kế họach giải trừ di hại của hóa chất khai hoang, phi cơ vận tải quân sự của Hoa Kỳ mang theo nhiều thiết bị lần lượt đáp xuống hai phi trường này thường xuyên. Hiện cả Hoa Kỳ và csVN vẫn giấu kín số lượng chuyên viên quân sự Hoa Kỳ làm việc thường trực tại hai phi trường này. Cũng lấy cớ là để tạo thuận lợi cho vấn đề tẩy trừ di hại của hóa chất khai hoang, các đường bay quân sự bị hư hại được tu chỉnh lại, các nhà kho quân sự ở hai phi trường này được làm mới lại. Các hệ thống thiết bị điều hành không vận cũng được đổi mới. Điều đó cũng cho thấy từng bước từng bước, Hoa Kỳ thực hiện xây dựng nền tảng cần thiết cho các dự tính quân sự lâu dài của mình trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam.
Biết rõ Bắc Kinh đang cố hoàn thiện khả năng tấn công bằng hỏa tiển của mình tại biển Đông, Hoa Kỳ lần lượt đưa các chiến hạm phóng hỏa tiển hiện đại của mình vào Hoàng Sa như muốn khẳng định với Bắc Kinh và các nước trong vùng là thế mạnh hỏa tiễn của Bắc Kinh không ăn thua gì. Cụ thể là gần đây nhất, báo chí loan tin Hoa Kỳ đưa chiến hạm phóng hỏa tiển hiện đại USS Chancellorsville đi vào vùng biển Hoàng sa vào 30 tháng 11 năm 2018, và vào ngày 7 tháng Giêng năm 2019, chiến hạm phóng hỏa tiển USS McCampbell cũng được có lệnh tuần tra vùng biển này. Cả hai đợt tuần tra chỉ cách nhau không đầy hai tháng.
Mức độ tuần tra bởi các chiến hạm phóng hỏa tiễn hiện đại của Hoa Kỳ vào Hoàng Sa ngày càng dồn dập cho thấy Hoa Thịnh Đốn thật sự đang gia tăng sức ép quân sự của mình lên Bắc Kinh để buộc Bắc Kinh phải từ bỏ tham vọng khống chế biển Đông bằng hỏa tiễn. Điều này rõ ràng làm Bắc Kinh bực tức nhưng vẫn chưa đủ để Bắc Kinh e dè mà hủy bỏ dã tâm tăng cường sức mạnh hỏa tiển của mình để khống chế biển Đông, trừ phi các dàn hỏa tiễn hiện đại của Hoa Kỳ thật sự được ráp đặt tại Việt Nam và Phi, đe dọa đến sức mạnh Hải quân của Bắc Kinh một cách thường trực.
Theo ý của Tom Rogan viết bài gởi cho Washington Examiner với tựa đề: “To deter Chinese imperialism, the US should ask to station long range missiles in Vietnam and the Philippines” (1), tạm dịch ý là: “Để chống lại chủ nghĩa bá quyền của Trung cộng, Hoa Kỳ nên yêu cầu ráp đặt các dàn hoả tiễn tầm xa tại Việt Nam và Phi“, Rogan lý giải rằng Hoa Kỳ cần phải đặt hỏa tiễn tầm xa hiện đại một cách thường trực tại Việt Nam và Phi theo lối lấy độc trị độc, nghĩa là nếu Trung cộng muốn đọ sức bằng hỏa tiển, ráp đặt các dàn hỏa tiển tại các đảo tạm chiếm trái phép ở biển Đông thì Hoa Kỳ cũng phải ráp đặt các dàn hỏa tiễn của mình tại Phi và Việt Nam để đáp lại. Theo ý của Rogan, có “ăn miếng trả miếng” như vậy thì mới khiến Bắc Kinh chùn bước. Trung cộng không muốn thấy hỏa tiễn tầm xa của Hoa Kỳ đe dọa mình từ Việt Nam hay Phi thì phải tháo dỡ ngay lập tức các dàn hỏa tiễn của mình tại biển Đông.
Mặc dù đối sách của Rogan đưa ra, ráp đặt đủ loại hỏa tiễn hiện đại của Hoa Kỳ tại Phi và Việt Nam để tăng thêm thế mạnh ngoại giao cho Hoa Kỳ khi thương thảo với Trung cộng về biển Đông, nhưng trên thực tế, bước đi này nếu Hoa Kỳ thực hiện, sẽ khiến Hoa Thịnh Đốn tiến thêm bước nữa trong việc đối đầu trực diện quân sự với Trung cộng, và vì vậy, Tòa Bạch Ốc cần hậu thuẫn mạnh từ Quốc Hội và công chúng Hoa Kỳ, vốn vẫn còn chưa dứt khoát ủng hộ chính phủ đẩy mạnh căng thẳng quân sự với Trung cộng.
Chính phủ Trump gia tăng tuần tra bằng các chiến hạm phóng hỏa tiễn hiện đại vào Hoang Sa trong thời gian gần đây là một giải pháp tạm thời thích hợp nhất trong lúc những điều đình thương thảo giữa csVN và Phi còn đang trong vòng thương thảo.
Đối với csVN, tình thế ngặt nghèo bị Trung cộng o ép tại biển Đông đã khiến Hà Nội buộc lòng phải đi đến cộng tác với Hoa Kỳ về mặt quân sự ngày một sâu rộng hơn. Càng cộng tác sâu rộng về quân sự với Hoa Kỳ bao nhiêu, thì ý nghĩa của cuộc chiến được ca ngợi là “kháng chiến chống Mỹ cứu nước” trong quá khứ càng lúc càng bị lộ ra là một cuộc chiến hy sinh xương máu của dân tộc một cách vô ích, vì người dân Việt ngày nay thông qua sự hợp tác quân sự này, ai cũng thấy kẻ thù xâm lược nước nhà không phải là Mỹ như đảng đã tuyên mà ngược lại chính là Trung cộng, một chế độ mà csVn ngữa tay nhận viện trợ vũ khí dài hạn để bắn giết đồng bào.
Nhưng đó cũng không phải là điều mà csVN lo lắng. Điều mà csVn lo lắng chính là hình ảnh của Việt Nam Cộng Hòa, đồng minh của Hoa Kỳ, vốn bị csVN kết tội là tay sai Mỹ ngụy, sẽ trở lại trong tâm trí của người dân Việt trong tiến trình hợp tác quân sự ngày một sâu rộng giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Nay, csVn đang đứng vào tình thế mà Việt Nam Cộng Hòa phải chịu đựng trước đó, tức là buộc phải nhận vũ khí của Mỹ, cộng tác quân sự với Mỹ để tự vệ trước thảm họa bị thôn tính cũng bởi cộng sản. Điều này khiến nền tảng lý luận chính trị của csVN bị hụt hẫng.
Cộng sản Việt Nam được tồn tại đến ngày nay, không phải vì có sức mạnh đủ để đàn áp người dân như nhiều người lầm tưởng, mà là nhờ ngoại viện từ khối cộng sản để có kinh phí hoạt động, và nay là nhờ ngoại viện kinh tế từ thế giới tư bản trong đó có Hoa Kỳ, cộng với một nền tảng lý luận chính trị vững chắc để lợi dụng lòng yêu nước của người dân Việt một cách tối đa trong việc duy trì quyền lực. Sư cộng tác quân sự với Hoa Kỳ đang từng bước làm nền tảng lý luận chính trị, thế mạnh của csVN trong viêc duy trì quyền lực chính trị càng lúc càng đổ vỡ, dẫn đến sự băng hoại chính trị toàn diện từ thượng tầng lãnh đạo đến hạ tầng cán bộ.
Một khi kết cấu tập trung quyền lực đã không còn sự hậu thuẫn tuyệt đối của người dân, kết cấu này từng bước bổng trở thành là mục đích của mọi sức phản kháng lật đổ của toàn xã hội, và trong lúc nội bộ cộng sản không còn nhất quán về tư tưởng chính trị, thì quyền lợi kinh tế lại càng làm mâu thuẫn nội bộ thêm gây gắt chia rẽ. Do đó, csVn thật sự tự đào hố chôn mình khi tiếp tục cộng tác quân sự với Hoa Kỳ.
Theo thống kê của viện nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, hơn 75% dân số Việt Nam bài Trung kịch liệt (2). Điều này cho thấy cơ sở nền tảng lý luận chính trị cho quyền lực của csVN sẽ không còn nếu csVn tiếp tục quy lụy Trung cộng để cầu an trong thập kỷ tới. Nhưng nếu theo Mỹ chống Trung cộng để lấy lại cơ sở hậu thuẫn quyền lực, thì sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ thường trực tại Việt Nam lại khiến hình ảnh Việt Nam Cộng Hòa quay trở lại, lan rộng và thiết lập nền tảng hậu thuẫn chính trị một cách tự nhiên dễ dàng.
Giới chức chóp bu của csVn đã nhìn thấy được tác động của quân đội Mỹ rất mãnh liệt lên người dân Việt Nam thông qua thời gian HKMH Carl Vinson ghé thăm Đà Nẵng. Sự sôi động hào hứng của người dân Việt khi tự nguyện đón tiếp thủy thủ Hoa Kỳ đang làm giới chức chóp bu của csVN lo lắng. Điều này cho thấy, nền tảng chính trị của Việt Nam Cộng Hòa chưa hề bị mất đi vì không có người dân Việt nào tin rằng Việt Nam Cộng Hòa cộng tác quân sự với Mỹ là tay sai cả. Cũng theo bản thống kê từ Singapore, tỷ lệ người dân Việt Nam tin vào Mỹ cao nhất Đông Nam Á, vượt quá 54%. Cho nên, một chính thể chính trị mang tiếng là “thân Mỹ” như Việt Nam Cộng Hòa không có lý do gì mà không thể tồn tại tại Việt Nam theo đúng ý nguyện của người dân trong tương lai.
Do đó, sự hiện quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam chắc chắn đem đến một tác động rất mạnh lên xã hội và chính trị của Việt Nam mà csVN không thể nào chống đỡ nổi. Mà sự tác động này chỉ có lợi cho kẻ thù cũ của csVn là Việt Nam Cộng Hòa, một “bóng ma” cứ ám ảnh csVn cho đến ngày nay.
Do sự ngần ngại về mặt tâm lý như đã trình bày, các vòng thương thảo để Hoa Kỳ có thể hiện diện Hải quân thường trực tại Cam Ranh hay đặt các dàn hỏa tiển thường trực lúc nào cũng bị csVN trì hoản, dè chừng.
Chính phủ Hoa Kỳ đã năm lần bảy lượt khẳng định họ không có thâm ý muốn can thiệp vào nội tình chính trị của Việt Nam cũng như không hề có ý hậu thuẫn chính thể Việt Nam Cộng Hòa quay trở lại để trấn an csVN. Tuy nhiên, Hoa Kỳ không thể nào thay đổi bản chất chính trị tại Việt Nam, mà trong đó, sự hậu thuẫn của người dân dành cho Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa cứ ngày mỗi tăng.
Một yếu tố nghịch cảnh khác mà csVn cũng phải trải qua giống như Việt Nam Cộng Hòa trước đó. Đó là Việt Nam Cộng Hoà lúc khởi thủy không muốn đồng bào nồi da xáo thịt nên cự tuyệt sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ trên lãnh thổ. Nhưng csVN không ngừng tấn công khủng bố sát hại dân lành nên Việt Nam Cộng Hòa buộc phải cộng tác quân sự với Hoa Kỳ để tồn tại.
Cộng sản Việt Nam ngày nay nếu có thể tránh né được việc cộng tác quân sự với Hoa Kỳ thì Hà Nội đã tránh né tới cùng, nhưng Trung cộng không hề dừng lại trong dã tâm độc chiếm nguồn dầu hỏa và thủy sản ở biển Đông cũng như lãnh hải khiến csVN hết cách mà phải mở cửa cho HKMH của Hoa Kỳ vào Đà Nẵng tạm thời thử nghiệm.
Trong đối sách quan trọng của mình tại biển Đông, Hoa Kỳ không thể nào cứ tiếp tục nhẫn nại mãi trước thái độ dỡ dỡ ương ương miễn cưỡng của csVn trong khi hợp tác, nhất là khi trong tình huống cuộc đối đầu quân sự Mỹ Trung có biến leo thang. Đến lúc đó, để có thể chu toàn đối sách chiến lược cho mình, giới chức Hoa Kỳ sẽ tìm cách buộc Hà Nội ngoan ngoãn hơn, mà các đối sách này thường là dẫn đến chính biến hay sự thay đổi nhân sự trong chế độ một cách đột biến. Và đối với mọi cơ chế chính trị chuyên chính tập trung, chính biến hay sự thay đổi nhân sự đột biến chỉ khiến sự tan rã hệ thống chính trị thêm nhanh hơn mà thôi
Từ đó có thể nói, dàn hỏa tiễn của Hoa Kỳ chưa đến được Việt Nam thì những ảnh hưởng của dàn hỏa tiễn này lên xã hội và chính trị đã bắt đầu và sẽ tiếp tục ảnh hưởng ngày một mạnh mẽ hơn cho đến khi thật sự hiện diện.
Nguyễn Trọng Dân