THÁNG 1192013
Trận hải chiến đẫm máu ở Hoàng Sa-Trường Sa giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa và Hải Quân Trung Cộng bắt nguồn từ ngày 11-1-1974 khi Trung Cộng lên tiếng tuyên bố các quần đảo nầy thuộc lãnh thổ của họ, đồng thời họ gởi nhiều tàu chiến ngụy trang tàu đánh cá đổ quân lên các đảo lân cận.
Hạm trưởng HQ16 là Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thự, xuất thân từ Khóa 10 Trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang, chiến hạm có chở theo phái đoàn Công Binh gồm Thiếu Tá Hồng, 2 sĩ quan cấp úy và 2 trung sĩ Công Binh để khảo sát địa thế cho kế hoạch thiết lập một phi trường trên đảo nầy, ngoài ra còn có ông Gerald Emil Kosh thuộc cơ quan DAO của Hoa Kỳ ở Đà Nẳng đi theo cho biết đảo. Chiến hạm đến Hoàng Sa vào lúc chiều tối ngày 15-1-1974. Đêm đó con tàu bỏ neo trong vùng chờ trời sáng sẽ đưa phái đoàn vào đảo.
Đêm không trăng, bầu trời cao thăm thẳm lấp lánh những vì sao, tiếng sóng vỗ rì rào quanh mạn con tàu. Thật là đêm bình yên thơ mộng giữa trùng dương mênh mông đối với những chàng lính biển. Quân chủng Hải Quân như một người cha, luôn luôn mở rộng vòng tay âu yếm đón nhận những chàng trai trẻ mang mộng hải hồ vào đại gia đình “áo trắng”. Có biết bao nhiêu thiếu nữ yêu kiều đã gởi con tim mình cho những người lính áo trắng mà “mỗi bến nước là một bến tình” cho nên bị dân gian “mắng yêu” bằng hai câu ca dao dễ thương:
Đường nào dài bằng đường Trần Hưng Đạo,
Lính nào xạo cho bằng lính Hải Quân.
Lính nào xạo cho bằng lính Hải Quân.
Buổi sáng ngày 16-1-1974, HQ16 cho xuồng đổ bộ phái đoàn Công Binh lên đảo Pattern, công tác hoàn tất tốt đẹp. Đến trưa, vị sĩ quan trực Quart 1200-1500H là Hải Quân Trung Úy Đào Dân bỗng phát hiện một con tàu lạ trước mặt đảo Cam Tuyền (đảo Robert), chiếc tàu nhỏ, cỡ tàu đánh cá. Chiến hạm đánh đèn yêu cầu tàu lạ cho biết xuất xứ, đúng theo quy luật hàng hải quốc tế nhưng tàu lạ vẫn im lặng. Để gợi sự chú ý và cũng để đuổi tàu lạ ra khỏi lãnh hải, chiến hạm cho bắn chỉ thiên một tràng đại liên 30. Tiếng súng nổ dòn dã giữa buổi trưa yên tĩnh trên mặt biển nhưng đối tượng vẫn lì lợm, không nhúc nhích. Khi tàu ta đến gần hơn thì mọi người đều chưng hửng vì tàu lạ là tàu Trung Cộng, mang cờ nền đỏ với các ngôi sao vàng ở ngay góc. Sự xuất hiện của chiến hạm Việt Nam cũng làm khuấy động sự sinh hoạt trên tàu Trung Cộng, hàng chục binh sĩ của họ lên boong nhìn sang tàu ta bằng những đôi mắt soi mói, kỳ lạ lẫn ngạc nhiên.
Hạm trưởng HQ16 khẩn báo về Bộ Tư Lệnh Hải Quân để xin chỉ thị, đồng thời cho nhân viên dùng đèn, dùng cờ, dùng máy phóng thanh yêu cầu tàu Trung Cộng rời khỏi hải phận Việt Nam. Lúc đầu cuộc đối thoại như với người câm nhưng sau đó họ cũng dùng loa phóng thanh cầm tay yêu cầu ta ra khỏi lãnh hải Trung Quốc. Hai bên tiếp tục đấu võ mồm suốt cả buổi chiều ngày 16-1-1974 mà không bên nào nhượng bộ. Đêm đến, HQ16 phải lui ra xa để giữ an toàn cho chiến hạm. Buổi sáng ngày 17-1-1974, ta lại phát hiện thêm một tàu địch cạnh đảo Vĩnh Lạc (đảo Money) và hàng trăm lá cờ Trung Cộng được cắm dọc bờ biển. Chỉ có đảo Cam Tuyền mà HQ16 đang ở gần là còn trinh bạch, chưa bị hoen ố bởi cái rừng cờ màu máu đó.
Ngay khi nhận được báo cáo của HQ16 phát hiện tàu Trung Cộng xâm phạm hải phận Việt Nam, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tư lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải chỉ thị cho Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ4 ra Hoàng Sa tăng cường. Khu Truc Hạm Trần Khánh Dư, chiến hạm mang tên danh tướng đã oanh liệt chiến thắng trận Vân Đồn, mở đầu cho trận đại thắng quân Nguyên trên sông Bạch Đằng của quân dân ta dưới thời nhà Trần ra đến Hoàng Sa khoảng 2:00 giờ chiều ngày 17-1-1974, chở theo một trung đội Người Nhái (Navy Seal).
Hạm trưởng HQ4 là Hải Quân Trung Tá Vũ Hữu San, Khóa 11, khi nhập vùng đã hợp với HQ16 có những hành động tức thời để uy hiếp lực lượng Trung Cộng. Chiếc HQ16 vận chuyển từ phìa Bắc Hoàng Sa xuống trong khi HQ4 từ phía Nam đảo Vĩnh Lạc tiến lên, tạo thế gọng kìm, kẹp chặt 2 tàu địch vào giữa. Thấy lực lượng Hải Quân Việt Nam được tăng cường, địch di chuyển ra khỏi đảo Cam Tuyền nhưng vẫn bám vùng. Tàu ta tiếp tục tiến đến gần hơn, sát tàu địch. Hai phe lại dùng loa phóng thanh trao đổi yêu sách, bên nầy đòi bên kia rời khỏi lãnh hải của mình. Địch không rời mà còn lải nhải mãi khiến Trung Tá Vũ Hữu San tức giận, mặt ông đỏ gay, ông vung nắm tay về hướng tàu địch lúc đó đang ở rất gần, quát lớn “bọn bố láo”, đoạn ông ra lệnh cho HQ4 dùng mũi húc vào chiếc tàu địch nầy để đẩy nó ra. HQ4 to lớn, gồ ghề, 3 tầng kiến trúc với đài chỉ huy cao nghều nghệu trong khi tàu Trung Cộng nhỏ hơn, thấp hơn nên bị tàu ta húc bể một lỗ lớn ở đài chỉ huy. Trước hành động quyết liệt nầy, 2 tàu Trung Cộng đành nhượng bộ, bỏ chạy về hướng đảo Duy Mộng và Quang Hòa.
Sau khi đuổi được hai tàu Trung Cộng, theo đặc lệnh hành quân, Tuần Dương Hạm HQ16 liền cho đổ bổ bộ toán nhân viên cơ hữu của tàu gồm 15 người lên đảo Cam Tuyền, mang theo súng ống, đạn dược, máy truyền tin và lương khô đủ dùng trong 3 ngày, do Trung Úy Lâm Trí Liêm chỉ huy. Toán đổ bộ nầy đã hoàn tất công tác dẹp cờ Trung Cộng và cắm cờ Việt Nam Cộng Hòa mà không gặp sự kháng cự nào của địch. Tiếp đó, HQ4 cũng cho đổ bộ 13 nhân viên cơ hữu lên đảo Vĩnh Lạc. Tại đây, Trung Cộng có 3 tàu neo gần đó, khi thấy lực lượng Việt Nam đổ quân họ lặng lẻ rút lui mà không chống trả.
Đến khoảng 6:00 giờ chiều ngày 17-1-1974, phe Trung Cộng được tăng cường thêm 2 Hộ Tống Hạm Kronstadts mang số 271 và 274. Đặc tính của loại Kronstadt là mình hẹp, lườn thấp, có vận tốc cao để săn đuổi tàu ngầm, dài 170 ft, ngang 21.5 ft, 2 máy, 2 chân vit, vận tốc 24 knots, trang bị 1 hải pháo 100 ly (3.5 inch) ở sân trước và 2 đại bác 37 ly ở sân sau, 2 giàn thả thủy lựu đạn (Depth Charges) và 2 giàn thả mìn, thủy thủ đoàn khoảng 65 người. Vừa tới, 2 chiếc Kronstadts nầy từ phía đảo Quang Hòa hùng hổ xả hết tốc lực về hướng HQ4 và HQ16 với thái độ khiêu khích, thách thức. Không một chút nao núng, với đội hình tác chiến, 2 chiến hạm ta hùng dũng rẻ sóng xông lên nghênh cản tàu địch, đồng thời đánh quang hiệu yêu cầu địch ra khỏi hải phận Việt Nam. Địch cũng dùng quang hiệu yêu cầu ngược lại. Đôi bên trao đổi tín hiệu gần một tiếng đồng hồ mà không có kết quả nhưng trước thái độ cứng rắn của Việt Nam Cộng Hòa, 2 chiếc Kronstadts đành nhập đoàn với các tàu Trung Cộng khác lui về bố trí tại hai đảo Quang Hòa và Duy Mộng.
Trong khi tình hìng đang căng thẳng ngoài Hoàng Sa thì ở đất liền, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bay ra Vùng I và được Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại thuyết trình vào lúc 8:00 giờ sáng ngày 17-1-1974 về lịch sử, địa lý, tài nguyên, chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa cùng những diễn tiến giữa lực lượng ta và lực lượng Trung Cộng ở Hoàng Sa. Sau khi nghe thuyết trình, Tổng Thống Thiệu đã ra những chỉ thị cho Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại và nhấn mạnh câu: “Đừng để mất một tấc đất”.
Được tin Trung Cộng gởi thêm quân và nhiều chiến hạm từ căn cứ Hải Quân Yulin ở đảo Hải Nàm (Hainan) đến Hoàng Sa, Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa cũng gởi thêm 2 chiến hạm, đó là Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ5, chiến hạm mang tên dũng tướng với câu nói khí khái: “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” và Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10 tăng viện cho Hoàng Sa. Hạm trưởng HQ5 là Hải Quân Trung Tá Phạm Trọng Quỳnh, Khóa 11, còn hạm trưởng HQ10 là Hải Quân Thiếu Tá Ngụy Văn Thà. Khóa 12. Cùng đi trên HQ5 có Hải Quân Đại Tá Hà Văn Ngạc, Khóa 5, chỉ huy trưởng Hải Đội 3 Tuần Dương, trực thuộc Bộ Tư Lệnh Hạm Đội, vừa được chỉ định làm Tư Lệnh Đặc Nhiệm Chiến Dịch Hoàng Sa và Đại Tá Ngạc dùng HQ5 làm soái hạm để chỉ huy cuộc hải chiến. Sự hiện diện của Đại Tá Hà Văn Ngạc, một sĩ quan cao cấp, nhiều kinh nghiệm, đã từng tu nghiệp ở Đại Học Hải Chiến Hoa Kỳ làm cho mọi người thêm vững tâm, lên tinh thần. HQ5 cũng còn chở theo 49 chiến sĩ Hải Kích (Người Nhái). Tinh hình vô cùng khẩn cấp mà HQ10 bị hư một máy chưa sửa chữa kịp chỉ chạy một máy thành thử vận tốc bị giảm khoảng 50%, thêm vào đó Radar của HQ10 cũng bị bất khiển dụng nên Đại Tá Ngạc ra lệnh cho HQ5 tách đoàn, tăng vận tốc để ra Hoàng Sa càng sớm càng tốt. Khoảng 3:00 giờ chiều ngày 18-1-1974, HQ5 ra đến Hoàng Sa. Lúc đó lực lượng của đôi bên như sau: Ta có Khu Trục Hạm HQ4, 2 Tuần Dương Hạm HQ5 và HQ16, còn phía Trung Cộng có 2 Hộ Tống Hạm Kronstadts mang số 271 và 274, được coi là chủ lực của địch với 2 tàu chở quân võ trang mang số 402 và 407 cùng một tàu vận tải và một ghe buồm.
Vừa nhập vùng, Đại Tá Hà Văn Ngạc ra lệnh cho 3 chiến hạm chuẩn bị cuộc phô diễn lực lượng để thăm dò phản ứng địch. Đi đầu là Tuần Dương Hạm HQ16 rồi đến HQ5, sau cùng là HQ4 với các khẩu hải pháo 127 ly (5 inch), 76.2 ly và các đại bác 40 ly đơn, đại bác 40 ly đôi (2 nòng), đại bác 20 ly như sẵn sàng nhả đạn vào quân thù trong khi 3 lá đại kỳ nền vàng 3 sọc đỏ của Việt Nam Cộng Hòa tung bay ngạo nghễ trên 3 cột buồm giữa gió chiều Hoàng Sa. Trong lúc các chiến hạm đang rẻ sóng thì các dàn Radars khổng lồ quay chầm chậm có nhiệm vụ phát hiện rồi cung cấp các dữ kiện để đo khoảng cách, hướng đi và vận tốc của tàu địch. Với 3 chiến hạm bệ vệ, bề thế lực lượng phe ta trông oai dũng và “ngầu” lắm. Đoàn tàu tiến theo đội hình hàng dọc từ phía Nam đảo Pattern trực chỉ về hai đảo Quang Hòa và Duy Mộng, tất cả đều 2 máy tiến 2, cách khoảng nhau 500 mét. Khi vừa chạy được độ hai hải lý thì 2 chiến hạm chủ lực 271 và 274 của Trung Cộng đang nẳm im trong vùng biển cũng nổ máy, tăng tốc và cũng theo đội hình hàng dọc tiến thẳng về hướng đội hình tàu Việt Nam. Chiến hạm của Trung Cộng chạy rất nhanh, hai máy tiến full để lại đằng sau những bọt nước trắng xóa. Khi đến cách đoàn tàu ta chừng một hải lý, chiếc đầu của địch bỗng quay trái, được một đoạn ngắn lại quay ngược chiều 180 độ chạy băng ngang trước mũi HQ16. Vừa qua khỏi chúng lại lộn ngược trở lại về phía phải để vẽ một đường ngang khác trên mặt nước. Rồi chiếc thứ hai của chúng cũng lập lại những động tác y như chiếc đầu để cuối cùng đường giăng ngang của chúng vẽ nên chỉ cách tàu ta khoảng 150 mét. Trước thái độ khiêu khích của địch khiến phe ta khó xử. Dùng võ lực thì chưa có lệnh, còn tiếp tục tiến có thể gây tai nạn đụng tàu vì tàu Trung Cộng chạy quá nhanh mà khoảng cách lại quá gần. Cuối cùng đoàn tàu được lệnh quay mũi theo hàng dọc trở về hướng Bắc. Thế là cuộc phô diễn lực lượng coi như hoàn tất.
Đến khoảng 10:00 giờ tối ngày 18-1-1974 chiếc HQ10 ra đến nhập đoàn với các chiến hạm Việt Nam. Đêm 18 rạng ngày 19-1-1974 nhằm đêm 29 Tết Nhâm Dần cũng là đêm cực kỳ căng thẳng. Trời tối thui như mực, các tàu Trung Cộng vẫn tiếp tục khiêu khích, tiến đến gần đảo Hoàng Sa, trên các tàu ta còi nhiệm sở tác chiến báo động liên hồi. Chiến Hạm HQ4 phải dùng đèn hồ quang cực sáng trên nóc đài chỉ huy rọi thẳng vào đội hình tàu địch và đánh quang hiệu yêu cầu họ ra khỏi lãnh hải Việt Nam cho đến khi tàu Trung Cộng rút lui tình hình mới dịu hơn. Đêm đó, tất cả các chiến hạm Việt Nam được lệnh trong tư thế Zebra, nghĩa là không để lọt ánh sáng ra ngoài hầu tàu địch không phát hiện được vị trí.
Mặc dù phía Trung Cộng phản ứng mạnh, lực lượng Việt Nam vẫn tiến hành kế hoạch đổ quân tái chiếm đảo Quang Hòa như đã dự định. Lúc 6:50 giờ sáng ngày 19-1-1974, lực lượng đổ quân được chia làm hai toán. Toán Biệt Hải trên HQ4 được lệnh đổ bộ lên mặt Nam trong khi toán Hải Kích (Người Nhái) trên HQ5 đổ bộ lên mặt Tây Nam. Phần lớn sĩ quan và binh sĩ của toán Hải Kích được huấn luyện ở trường Navy Seal của Hoa Kỳ. Lực lượng độ bộ gồm toàn những thành phần được huấn luyện tinh nhuệ, thiện chiến nhất của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. Ngay khi đặt chân lên bìa đảo, cả hai toán đều bị quân Trung Cộng đông hơn, dùng hỏa lực cực mạnh từ các chiến hào bắn xối xả khiến lực lượng đổ bộ không thể nào tiến sâu vào trung tâm đảo. Tình hình lúc bấy giờ thật nguy cấp và bất lợi cho lực lượng Việt Nam nhưng vì tuân hành thượng lệnh, quyết tâm bảo vệ lãnh thổ nên vào lúc 9:00 giờ sáng, toán Hải Kích được lệnh vượt lên trước. Hạ Sĩ Người Nhái Đỗ Văn Long là chiến sĩ đầu tiên vừa nổ súng vừa xung phong vào đảo liền bị hỏa lực địch bắn tử thương. Trung Úy Lê Văn Đơn nhào lên để thu hồi tử thi của đồng đội lại cũng bị đạn thù quật ngã. Trước quân số đông hơn và hỏa lực mạnh hơn của địch nên cả hai toán được lệnh rút về tàu với xác của Trung Úy Đơn và các chiến sĩ bị thương khác, còn xác của Hạ Sĩ Long đành bỏ lại trên đảo vì nếu cố gắng vào thu hồi sẽ gây thêm nhiều thương vong.
Anh Chị Đơn vừa có đứa con trai lên 2 tuổi, giống Anh như đúc, đặt tên là Lê Văn Nguyên. Cha tên Đơn đặt tên con là Nguyên. Sau khi Anh Đơn hy sinh, Chị Đơn đã đổi tên con thành Lê Hoàng Sa để tưởng niệm nơi cha cháu đã chiến đấu cho sự vẹn toàn lãnh thổ và đã anh dũng nằm xuống!
Cuộc đổ quân tái chiếm đẳo thất bại vì địch đông hơn, hỏa lực mạnh hơn, 2 chiến sĩ đã đền nợ nước, một số khác bị thương, giặc đã chiếm đất, chiếm nhà của ta “Cái nhà là nhà của ta, công khó ông cha lập ra, cháu con phải gìn giữ lấy” cho nên Hải Quân Đại Tá Hà Văn Ngạc ra chỉ thị cho các chiến hạm chuẩn bị tấn công, đánh đuổi quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi. Các chiến hạm đều ở trong tình trạng chiến đấu toàn diện, còi nhiệm sở tác chiến rú lên dồn dập, liên hồi như thúc giục bước chân của các chàng lính thủy chạy nhanh hơn vào các nhiệm sở chiến đấu. Tất cả thủy thủ đoàn với áo giáp, phao nổi, nón sắt ngồi trong các ụ hải pháo chờ lệnh khai hỏa, sẵn sàng tác xạ tiêu diệt địch. Sau khi các đài chiến báo (CIC) từ các chiến hạm báo cáo “sẵn sàng” thì từ Soái Hạm HQ5, Hải Quân Đại Tá Hà Văn Ngạc, tư lệnh Chiến Dịch Hoàng Sa ban hành lệnh “khai hỏa” hồi 10 giờ 24 phút sáng ngày 19-1-1974. Trận hải chiến bắt đầu.
Trong khi tấn công, các chiến hạm Việt Nam theo đội hình tác chiến vòng cung, xông thẳng vào tàu địch, một đối một, tác xạ đồng loạt. Máy tàu rú lên tăng vận tốc, chân vịt gầm gừ ra sức đẩy con tàu nhanh thêm, mũi tàu xé nước trùng dương lướt tới, các chiến sĩ ta mắt sáng quắc đang nhả đạn vào đoàn tàu xâm lăng như mưa. Sóng Hoàng Sa làm sống lại Tiếng Sóng Vân Đồn, khí thế Bạch Đằng Giang đang sôi sùng sục trong huyết quản các chiến sĩ Hoàng Sa…“Đây Bạch Đằng Giang, sông hùng dũng của nòi giống Tiên Rồng, giống Lạc Hồng, giống oai hùng Nam-Bắc-Trung…”(Hải Quân Hành Khúc). Khói lửa bốc lên mịt mù, không khí khét lẹt mùi thuốc súng trong buổi bình minh trên Biển Đông. Tiếng đạn hải pháo xé gió rít lên những âm thanh nghe rợn người, đạn rơi lủm chủm trên mặt biển, đạn nổ quanh tàu bắn tung những cột nước lên cao, thân tàu run lên bần bật vì trúng đạn. Một chiến sĩ ta bị trúng đạn địch ngã xuống thì chiến sĩ khác phóng lên ôm súng nhả đạn vào tàu địch xâm lăng, hai chiến sĩ ta ngã xuống thì có hai chiến sĩ khác nhào lên tiếp tục ghì súng chiến đấu chống giữ Hoàng Sa ngàn đời máu thịt của Việt Nam ta.
Hồn thiêng sông núi như đang cất những tiếng cười ngạo nghễ giữa tiếng súng nổ đạn bay vì Tổ Quốc Việt Nam đã có những người con hào hùng như các chiến sĩ Hoàng Sa:
Cuối hàng thế kỷ thứ hai mươi,
Chống giữ Hoàng Sa cũng lắm người!
(Thơ của Ngọc Giao Nguyễn Đình Nhạc)
Cuối hàng thế kỷ thứ hai mươi,
Chống giữ Hoàng Sa cũng lắm người!
(Thơ của Ngọc Giao Nguyễn Đình Nhạc)
Trận hải chiến tiếp diễn khốc liệt, với chiến thuật “tốc chiến, tốc thắng”, các chiến hạm Việt Nam chiếm được thế thượng phong vì bắn trước với cỡ súng lớn hơn. Các tàu địch bị thiệt hai nhiều trong những phút đầu của cuộc giao tranh, chiếc Hộ Tống Hạm Kronstadt 271 của địch bị trúng hải pháo 76.2 ly và 40 ly của HQ4 nên không còn khả năng tác chiến sau đó phát nổ và chìm. Hạm trưởng chiếc nầy là Đại Tá Vương Kỳ Uy bị tử thương với một số thủy thủ đoàn. Nhưng cũng như những chiến hạm khác của ta, HQ4 cũng là mục tiêu khá lớn cho tàu địch nên cũng bị trúng nhiều vết đạn. Một trái hải pháo địch thổi bay hệ thống hút khổng lồ của HQ4. Trong lúc hổn chiến, bộ phận quan sát bằng ống dòm trên nóc đài chỉ huy của HQ4 báo cáo có hai tàu địch đang đuổi theo. HQ4 liền tăng vận tốc tối đa và vận hành theo đội hình tác chiến Zig Zag, uốn lượn như con rắn nên tránh được các quả hải pháo của 2 tàu địch đang đuổi theo. Ngay lúc đó, chiếc HQ5 cũng vừa trờ tới, cắt ngang đuôi HQ4, phóng vào 2 tàu địch đang đuổi theo HQ4. Những khối cầu lửa từ khẩu 127 ly trước mũi HQ5 bay thẳng về hướng 2 tàu Trung Cộng, một chiếc của địch bị trúng đạn bốc cháy, khói lên ngùn ngụt, chiếc còn lại quay ngang bỏ chạy mất dạng. Chiếc HQ4 bị thiệt hại nhẹ so với các tàu khác, máy móc chính, hệ thống điện, hệ thống truyền tin vẫn trong tình trạng khiển dụng tốt và con tàu vẫn còn khả năng tác chiến. Về nhân mạng. HQ4 có hai chiến sĩ là Hải Quân Thiếu Úy Nguyễn Phúc Xá và Hạ sĩ nhất Vận chuyển Nguyễn Thành Danh hy sinh cùng một số đoàn viên khác bị thương. Anh Danh bị trúng đạn nơi ngực thoi thóp trên băng-ca, ngực đầy bông băng nhuộm máu, Thượng Sĩ Giám lLộ Lữ Công Bảy rờ lên trán thấy nóng hối và hỏi Anh có khỏe không, Anh mở mắt gật đầu nhưng sau đó lịm dần rồi vĩnh viễn ra đi.
Chiến hạm của Trung Cộng bị trúng đạn của HQ5 bốc cháy nói trên là chiếc Hộ tống hạm Kronstadt 274. Sau khi bị trúng đạn, chiếc nầy phải ủi vào bãi san hô để tránh bị chìm nhưng sau đó cũng bị phá hủy hoàn toàn. Chiếc nầy cũng là Soái hạm của địch do Đô Đốc Phương Quang Kính làm tư lệnh, chỉ huy cuộc hải chiến. Đô Đốc Phương Quang Kính còn là tư lệnh phó Hải Đội Nam Hải của Trung Cộng. Ngoài Hạm trưởng là Đại Tá Quang Đức tử thương, toàn bộ tham mưu của soái hạm địch gồm Đô Đốc Phương Quang Kính, 2 đề Đốc, 4 đại tá, 6 trung tá, 2 thiếu tá và 7 sĩ quan cấp úy đều tử thương. Về phần HQ5 cũng bị trúng đạn nhiều nơi, con tàu đầy vết đạn của địch. Các ổ hải pháo 127 ly và 40 ly đôi trước mũi bị trúng đạn nên trở ngại tác xạ, chỉ còn khẩu 40 ly bên tả hạm và 2 khẩu 20 ly là còn sử dụng được. Chính khẩu 40 ly nầy do Thượng Sĩ Trọng Pháo Tài làm trưởng khẩu đã khạc đạn tới tấp không cho tàu địch xáp lại gần. Lửa bốc cháy và nước tràn vào nhiều nơi, Hạm trưởng phải ra lệnh làm ngập nước hầm đạn 127 ly để tránh đạn phát nổ vì lửa cháy và điện chạm. Tuy bị hư hại khá trầm trọng nhưng HQ5 không có nguy cơ bị chìm và sau đó cơ khí trưởng là Thiếu Tá Trần Đắc Nguyên, một sĩ quan cơ khí nhiều kinh nghiệm đã điều động nhân viên ra sức dập tắt các đám cháy và hàn bít các lỗ thủng nước đang tràn vào, sửa chữa các máy móc bị hư hỏng nên một thời gian ngắn sau đó con tàu đã trở lại tình trạng hoạt động gần như bình thường. Về nhân mạng, HQ5 có 1 sĩ quan và 2 hạ sĩ quan hy sinh, 3 sĩ quan cùng 4 hạ sĩ quan và 9 đoàn viên bị thương nặng nhẹ.
Về phần HQ16, sau khi dùng các khẩu 127 ly và 40 ly bắn hư hại chiếc Trục Lôi Hạm 389 của Trung Cộng khiến hạm trưởng là Trung Tá Triệu Quát bị tử thương, Tuần Dương Hạm HQ 16 cũng bị trúng nhiều hải pháo hư hải nặng. Hầm đạn 127 ly trước mũi bị thủng một lỗ lớn, nước tràn vào mỗi khi mũi tàu chúc xuống nên phải cô lập. Máy điện cũng bị trúng đạn, dây điện bị đứt nhiều nơi, hầm máy chỗ nào cũng bị chạm điện khiến những nhân viên có phận sự ở khu vực nầy bị điện giật nên phải di tản. Nguy hơn nữa là hông tàu ngay hầm máy tả bị đạn hải pháo địch bắn trúng phá một lỗ lớn ngang tầm nước làm nước biển tràn vào như thác lũ, chiến hạm mỗi lúc nghiêng thêm về bên trái và có nguy cơ bị chìm. Sau cùng, nhờ sĩ quan cơ khí trưởng là Đại Úy Hiệp đôn đốc nhân viên ra sức cô lập hầm máy tả nên chiến hạm vẫn tiếp tục vận chuyển được bằng máy bên hữu. HQ16 chỉ có một chiến sĩ hy sinh, đó là Trung Sĩ Điện Khí Xuân bị đứt lìa cánh tay phải ở hầm máy vì không cầm máu được nên Anh đã đền nợ nước. Trung úy Bính đã vuốt mắt và cùng các y tá cầu nguyện cho Anh bằng Thánh Kinh dù không rõ Anh tôn giáo nào.
Còn Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10 là chiến hạm nhỏ nhất, hỏa lực yếu nhất trong số các chiến hạm Việt Nam tham chiến, ngoài ra tình trạng kỹ thuật cũng không khả quan cho lắm vì hư một máy, vận chuyển, xoay trở chậm chạp nên bị trúng nhiều đạn. Một trái hải pháo 100 ly của địch bắn trúng đài chỉ huy, đốn ngã tất cả các nhân viên có phận sự tại đây. Hạm Trưởng Hải Quân Thiếu Tá Ngụy Văn Thà và Hạm Phó Hải Quân Đại Úy Nguyễn Thành Trí đều bị thương nặng. Kế tiếp, một trái hải pháo khác trúng ngay hầm máy làm cho chiến hạm tê liệt, hoàn toàn bất khiển dụng, trôi lờ đờ, lềnh bềnh trên mặt biển làm muc tiêu cho tàu địch tác xạ xối xả. Số thương vong của HQ10 rất nặng và nhiều chiến sĩ chết một cách thê thảm như Trung Úy Vũ Văn Bang, sĩ quan đệ tam chết thân xác không toàn vẹn tại Trung Tâm Chiến Báo (CIC); Trung Úy Cơ khí Ngô Chí Thành chết ở phòng máy bị cháy nám đen và hai chân hầu như lìa khỏi thân người; Trung Úy Nguyễn Văn Đông chết mất mặt tại khẩu 76.2 ly ở sân trước;
Hạ Sĩ Vận Chuyển Lê Văn Tây, người Ban Mê Thuột nhưng yêu màu áo trắng, yêu mộng hải hồ nên sau khi lấy bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp gia nhập Hải Quân và đền nợ nước bằng cách ghì khẩu súng cho đến giờ phút chót; Thủy Thủ Cơ Khí Đinh Hoàng Mai ôm khẩu 20 ly bắn che cho các đồng đội trên bè đào thoát, bạn bè gọi xuống bè ra đi nhưng không chịu xuống, ở lại chết theo con tàu… và còn nhiều chiến sĩ khác đã liệt oanh nằm xuống mà ở đây không đủ giấy mực để kể cho hết. Những người còn sống sót dìu dắt các chiến hũu bị thương lên 5 chiếc phao tập thể, tất cả là 28 người, kể cả Hạm Phó Nguyễn Thành Trí. Riêng Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà từ chối ra đi mặc dù các chiến hữu yêu cầu nhiều lần. Anh ở lại chết theo con tàu đúng với truyền thống cao đẹp của Hải Quân và Hàng Hải. Trên đường đào thoát, có 8 chiến sĩ, trong đó có Hạm Phó Nguyễn Thành Trí bị chết vì các vết thương, vì đói khát, vì kiệt sức trước khi được chiếc tàu dầu Hòa Lan Skopionella cứu vớt vào đêm 22-1-1974. Khi các chiến sĩ ta được vớt lên, chính tay nhị vị phu nhân của thuyền trưởng và thuyền phó tàu nầy đã tận tình băng bó, săn sóc các vết thương, đút từng muỗng cháo cho các chiến sĩ Việt Nam thể hiện tình người bao la. Thật là một nghĩa cử đẹp không bao giờ quên được!
Trong trận chiến, HQ10 đã mượn đáy biển Hoàng Sa làm mồ dũng sĩ, mang theo 42 người con yêu của Tổ Quốc, kể cả Hạm Trưởng Hải Quân Thiếu Tá Ngụy Văn Thà, Khóa 12, sinh ngày 16-1-1943 tại Trảng Bàng, Tây Ninh. Anh lập gia đình với Chị Huỳnh Thị Sinh, Chị Sinh còn rất trẻ, chưa tới tuổi 30. Hai Anh Chị có được 2 người con gái, còn rất nhỏ, cháu đầu 4 tuổi, cháu sau 2 tuổi. Cùng chết theo tàu có Trung Úy Vũ Văn Bang, ngày tàu rời Sài Gòn đi công tác, Anh Bang có đem theo tấm hình của đứa con gái đầu lòng chưa đầy tháng để khoe với bạn bè. Khi chết, tấm hình của cháu vẫn còn nằm trong túi áo trận trên ngực Anh, được bọc bằng giấy ny-lon cho không bị ướt:
Sóng biển chiều nay cuồn cuộn quá,
Còn đây uy dũng pháo Hoàng Sa.
Vành khăn tang trắng đầu con trẻ,
Kinh buồn vĩnh biệt tiếng cười cha!
(Thơ Nguyệt Trinh)
Còn đây uy dũng pháo Hoàng Sa.
Vành khăn tang trắng đầu con trẻ,
Kinh buồn vĩnh biệt tiếng cười cha!
(Thơ Nguyệt Trinh)
Còn Trung Sĩ Giám lộ Vương Thương, cũng thuộc HQ10 đã chết trên bè đào thoát. Anh bị mảnh đạn chém đứt mông trái và vĩnh viễn nằm xuống vì máu ra quá nhiều. Anh đã hy sinh cho đất nước trước ngày làm lễ cưới. Lẽ ra Anh đã được đi phép cưới vợ, giấy phép đã cầm trong tay nhưng Hạm trưởng động viên Anh ở lại đi công tác chuyến nầy vì Anh quá rành quần đảo Hoàng Sa. Ngày tàu nhổ neo rời bến, người vợ sắp cưới ra tận cầu tàu tiễn chân Anh, nàng âu yếm nắm chặt tay người yêu như trao tất cả tình thương và hẹn ngày Anh về hai người sẽ làm đám cưới trọn đời yêu nhau cho vẹn lời nguyền trăm năm kết tóc xe duyên… nhưng:
- Lần tiễn đưa hôm ấy một lần thôi,
- Là chiến sĩ một đi không trở lại!
(Giòng Lệ Cuối – Phạm Từ Quyên)
Riêng toán đổ bộ lên đảo Cam Tuyền của HQ16, khi trận hải chiến xảy ra, HQ16 không thể vớt họ được vì đang chiến đấu với tàu địch nếu tàu ngừng lại để vớt họ thì con tàu sẽ là mục tiêu bất động cho tàu địch vì thế Hạm trưởng Lê Văn Thự liên lạc bằng máy truyền tin với Trung úy Liêm, sau khi thông báo tình hình bất khả kháng của chiến hạm, ông đã động viên anh em dùng bè đào thoát, cố vượt ra khỏi vùng giao tranh, đồng thời yêu cầu mọi người thông cảm sự bất lực của ông trước tình hình hiện tại vì ông đang mang trách nhiệm về sự an toàn của con tàu và sinh mạng của hàng trăm thủy thủ đoàn. Càng nói, trông ông càng đau đớn, đôi mắt đỏ hoe như ông đang muốn khóc vì không vớt được các chiến hữu và đồng đội của ông!
Sau đó, toán đổ bộ nầy dùng bè cao su vượt thoát ngay tức khắc trong lúc cuộc hải chiến đang xảy ra.. Khi họ đang lênh đênh trên những xuồng đào thoát, một chiến hạm địch bị trúng đạn của phe ta, cả toán 15 chiến sĩ nầy biểu lộ tinh thần yêu nước cao độ bằng cách tất cả cùng giơ cao những cánh tay và đồng ca bản “Việt Nam – Việt Nam” (Việt Nam, Việt Nam nghe từ vào đời… Việt Nam nước tôi…) Và sau 10 ngày chống chọi với sóng gió, đói khát các chiến sĩ ta được ngư dân ở Qui Nhơn cứu sống. Chỉ có một chiến sỉ hy sinh sau khi đã lên thuyền ngư dân, đó là Hạ sĩ Quản kho Nguyễn Văn Duyên. Anh Duyên đã ra đi vì đói, khát và kiệt sức. Khi được ngư dân vớt lên thuyền, họ như những người về từ cõi chết, xơ xác, ốm yếu, tiều tụy, mắt lõm sâu như những hố thẳm, râu tóc xồm xàm, rậm rạp trông họ như những người rừng. Nhưng tận đáy lòng Mẹ Việt Nam họ là những người con kiêu hùng của Mẹ về từ Tổ Quốc Đại Dương.
Sau trận hải chiến, khoảng 7:00 giờ sáng ngày 20-1-1974 đoàn chiến hạm ta về đến bến thương cảng Đà Nẳng nhưng đoàn tàu vắng bóng HQ10. Trên bến, đồng bào đứng đông nghẹt, chen chút nhau tiếp đón các chiến sĩ Hoàng Sa bằng một rừng biểu ngữ với các khẩu hiệu: “Hải Quân Việt Nam quyết tâm bảo vệ lãnh thổ đến giọt máu cuối cùng” “Một ý chí: chống cộng – Một lời thề: Bảo vệ quê hương” “Hoan hô tinh thần chiến đấu anh dũng của các chiến sĩ Hải Quân tham dự Hải Chiến Hoàng Sa” “Hoan hô tinh thần bất khuất của các chiến sĩ Hải Chiến Hoàng Sa”
Chiến sĩ Hoàng Sa, các Anh rất xứng đáng được vinh danh là những người con yêu của đất nước! Các Anh đã không phụ lòng những bà mẹ hiền đã âu yếm trao các Anh cho đất nước khi các Anh vừa khôn lớn. Các Anh cũng không phụ lòng mái quân trường đã đào tạo các Anh thành những người trai thời chiến. Các Anh cũng không phụ lòng đồng đội, chiến hữu khi các Anh xông pha trong các chiến trường lửa đạn. Và các Anh cũng không phụ lòng đồng bào đã trao trọn niềm tin nơi các Anh. Lính nào cũng là lính, lính nào cũng đóng góp xương máu cho quê hương đất nước và các Anh cũng vậy, các Anh đã đại diện màu áo để góp máu cho Tổ Quốc.
Trận Hải Chiến Hoàng Sa đã nói lên hùng tính Việt tộc, đồng thời nối tiếp tinh thần chống Bắc xâm của dân tộc ta. “Hải Chiến Hoàng Sa” là một bản hùng ca phụ vào với “Bình Long Anh Dũng” – “Kontum Kiêu Hùng” – “Trị Thiên Vùng Dậy” để tô đậm thêm những nét son cho Pho Hùng Sử Của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Lê Thương