Monday 28 April 2014

Bút Ký Ngày Di Tản - Bút Xuân Trần Đình Ngọc

Trốn Chạy
       Cụ ở cùng lều với tôi, tại Subic Bay – Phi luật Tân - từ những ngày đầu tháng 5 năm 1975, sau khi tôi rời khỏi Sàigòn bằng đường biển vào trưa ngày 30-4-1975 ngay sau khi Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng Cộng Sản.
         Không biết cụ tới đây lúc nào, chỉ biết khi tôi đặt chân lên hòn đảo tuyệt đẹp này thì đã thấy cụ ở đây rồi. Tên cụ là Tường  - Lê văn Tường  -  người huyện Phú Thọ, tỉnh Thanh Hoá, Bắc Việt. Dáng người gầy nhưng trông còn khang kiện, năm đó cụ vào khoảng 65, 66 tuổi với những nét nhăn trên trán, trên má và chòm râu bạc trắng như cước.
         Ngày ba bữa cụ rủ tôi đi lấy cơm từ một nhà ăn rộng lớn do Chính Phủ Hoa Kỳ đài thọ, với số người làm bếp đủ để phục vụ mười lăm ngàn đến hai mươi ngàn người trên đảo mà tất cả toàn là người Việt tị nạn,  sau khi đã đào thoát khỏi  Việt Nam trước hoặc sau ngày 30-4-75.  Mỗi buổi chiều, khi lấy đĩa cơm xong, tôi với cụ Tường thường mang ra bờ đá trước nhà ăn, sát chân sóng, vừa ăn vừa nói chuyện, có khi tới tối mịt mới trở về lều. Trong câu chuyện cụ kể cho tôi nghe, có câu chuyện vô cùng thương tâm của chính gia đình cụ mà hôm nay tôi viết lên đây để cống hiến bạn đọc. Và sau đây là lời cụ Tường.
        
“Thanh Hóa được kể là một trong những tỉnh Chính phủ Cộng Sản Hà nội dùng làm thí điểm trong những đợt  người Cộng Sản gọi là “Ðấu tranh  chính trị, đấu tố địa chủ, cường hào ác bá” hay “Cải cách ruộng đất”  tại Bắc Việt.  Trước Hiệp Ðịnh Genève năm 1954, nghĩa là trước khi Cộng Sản hoàn toàn làm chủ đất Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra, trong khi những vùng khác không có thì tại Thanh Hoá cũng đã có những cuộc đấu tố, hiến điền rầm rộ rồi. Trong những cuộc đấu tố đó, biết bao nhiêu lương dân đã gục ngã, biết bao gia đình đã tan nát chỉ vì chính sách quá thâm độc, dã man của Cộng Sản.  Cộng Sản không muốn bị  mang tiếng là cướp ruộng đất của dân nên chúng đánh thuế thật nặng qua những cuộc “lượng giá” ruộng tốt, ruộng xấu để đóng nhiều hoặc ít lúa cho Chính phủ mà những nông dân ngồi bình nghị là chính những người được chúng huấn luyện để làm công việc đó. Vì vậy, nhiều gia đình, nhất là những gia đình địa chủ trước kia, đã phải “lậy” mà dâng ruộng đất cho chính phủ,  Cộng sản gọi là “hiến điền”.
         Số lương dân bị đấu tố và bị chết trong vùng rất nhiều, tôi không thể nhớ hết. Chỉ xin kể ra vài trường hợp điển hình trong đó có một linh mục Công giáo, cha Phạm Tần -  sau này lên Giám mục -   và thân phụ tôi, một người tôi kính yêu suốt đời.
         Cha Tần ở xứ Phúc Lãng, huyện Quảng Xương, bị Cộng Sản đưa ra đấu tố vì Cộng sản muốn diệt  ngài, diệt một người có uy tín với giáo dân, có thể kích động giáo dân nổi lên chống Cộng Sản, chống những sự tham tàn, độc ác của Cộng Sản.  Dù là một người không Công giáo, tôi cũng biết rõ điều đó.
         Bọn Cộng Sản đánh cha hai trận bằng tầu lá cọ có gai nhọn và cứng dài đến hai đốt ngón tay, đánh từ chập tối đến nửa đêm, cho đến khi cha ngất đi không còn biết gì nữa mới thôi.
Trong trận đấu tố này, chúng dùng một đứa con gái tên Chữ, khoảng 21, 22 tuổi. Bố mẹ con Chữ đang là câu, sãi cho nhà xứ Phúc Lãng, từ lâu vẫn sống nhờ sự giúp đỡ của các cha. Bọn cán bộ Cộng sản dạy con Chữ cách căm thù cha Tần. Ðầu tiên chúng nhồi vào đầu óc đứa con gái ngu dại này rằng, chính cha Tần và các linh mục trong nhà xứ đã bóc lột sức lao đông của cha con nó từ bao lâu nay. Lẽ ra gia đình nó phải được ăn sung mặc sướng, có nhiều tiền, nhiều thóc như nhà xứ Phúc Lãng. Nhưng vì cha Tần tham lam, không trả công tương xứng nên cha Tần chỉ làm giầu cho chính mình trong khi gia đình nó nghèo túng, thiếu ăn, thiếu mặc.
        Bọn cán bộ, công an còn bắt con Chữ phải dựng đứng câu chuyện bỉ ổi là trước mặt dân chúng, con Chữ phải nói rằng chính cha Tần đã bắt nó phải ngủ với ông bao nhiêu lần, đã trêu ghẹo nó, làm tầm bậy tầm bạ làm sao vv... Cán bộ Cộng Sản cũng bắt con Chữ và mọi người phải gọi là “thằng Tần” chứ không được gọi là cha Tần như trước.  Ðến ngày đấu tố, bọn công an cán bộ vào nhà xứ lôi cha Tần ra trước sân cuối nhà thờ, ở đó dân chúng đã bị thúc đẩy đi dự đấu tố đông nghẹt một sân rộng. Con Chữ đã làm tất cả những gì bọn Cộng sản muốn, kể cả việc nó trùm váy của nó lên đầu cha. Và sau đó là những trận đòn cho đến khi ngất đi.
         Cần phải để ý là bọn công an cán bộ không dùng những người ngoài Công giáo để đấu tố các cha. Chúng dùng ngay những người Công giáo và dùng ngay chính những kẻ xưa nay được tiếng là thân tín với các cha để đấu tố các cha. Như cha Tần, sau khi bị đánh lần thứ hai, chúng tưởng ngài chết rồi  nên gọi giáo dân đến khiêng về nhà xứ mà chôn. Lúc ngài được khiêng vào phòng khách nhà xứ, một người đàn ông tên Mạnh và con Chữ quì xuống nắm lấy tay ngài khóc, nói:
         “Chúng con bị bọn cán bộ bắt buộc phải đấu tố cha, phải nói dựng đứng những chuyện cha không có. Chúng con đã đấu tố bậy. Xin cha tha lỗi cho chúng con.”
         Nhưng cha Tần đã hôn mê, ngài còn biết gì nữa đâu. Tất nhiên sau đó bao nhiêu ruộng của nhà xứ Phúc Lãng mà chúng buộc là của cha Tần, bị xung công gần hết, chỉ còn để lại mấy sào không đủ nuôi vài miệng ăn trong nhà xứ.
         Sau đó đến cha Thước, xứ Thổ Ngõa. Cung cách chúng dùng để đấu tố cha Thước cũng y như những bài bản đã áp dụng cho cha Tần. Chúng muốn hạ uy tín các linh mục là những cán bộ nòng cốt của Giáo hội để không một giáo dân nào tin tưởng và tuân phục mệnh lệnh các cha và chúng tiến dần đến chỗ tiêu diệt tôn giáo.”
         Cụ Tường nói một thôi không nghỉ. Giọng cụ lẫn vào tiếng gió và sóng biển vỗ vào bờ đá làm tôi có cảm tưởng những linh hồn oan khuất của những lương dân vô tội bị Cộng sản giết oan trong các đợt đấu tố dã man như đang hiển hiện về đây nói cho chúng tôi nghe những căm hờn uất hận khôn nguôi.
         Cụ Tường ngưng một lúc, lấy trong túi áo ra một cái ví nhỏ xíu như của đàn bà vẫn dùng. Cụ mở ví lấy ra một tờ giấy mỏng, lấy thuốc lá sắp đều lên tờ giấy. Cụ vấn thuốc  hút. Tôi phải giúp cụ bằng cách ngồi che gió và bật quẹt cho cụ. Khi điếu thuốc đã cháy, cụ rít một hơi, thở khói, nói:
         “Tôi đã bỏ hết quần áo sau khi chuyển qua mấy chiếc tầu nhưng cố giữ ít thuốc vấn vì tôi hút thuốc lá của Mỹ nóng lắm, chịu không được.  Ông tính cuộc đời của tôi còn gì. Bố chết phải bỏ nằm đấy mà chạy. Hai lần bỏ vợ, bỏ con. Bây giờ trôi dạt ở đây một thân một mình...”
         Tôi an ủi cụ:
         “Thôi cụ ạ, vận nước. Vả lại chẳng qua cũng cái số. Cụ có buồn cũng không ích gì.”
         “Vẫn biết thế, ông Vũ! Nhưng sao tôi vẫn cảm thấy buồn. Buồn cho nước, cho đồng bào bị cái khổ nạn không biết bao giờ mới qua. Buồn cho gia đình, cho thân thế mình, những người liên hệ với mình, cả một cuộc đời long đong lận đận đầy khổ nhục và nước mắt. Rồi mai sau, với cái hiện tại như thế thì con cháu mình sẽ ra sao, sẽ là cả một cuộc đời tăm tối ở trước mặt, hết thế hệ này sang thế hệ khác.  Thôi được, tôi nói tới đâu rồi, hả ông Vũ ?”
         “Dạ, thưa cụ đang nói đến chỗ bọn cán bộ đấu tố cha Thước cùng một kiểu như cha Tần ...”
         Cụ Tường nâng ly nước vừa lấy từ nhà ăn lên nhấp một ngụm:
         “Ờ, ờ, tôi cũng cần phải thêm với ông rằng bọn cán bộ ghép cho các linh mục cái tội “phong kiến” để đem ra đấu tố. Ông có biết sau khi cha Tần bị đánh bằng cái tầu lá cọ , gai đâm vào người cha, lấy kìm nhổ ra được gần một chén ăn cơm. Gai đâm khắp mình mẩy, chỉ trừ đầu là chúng chừa ra mà thôi vì sợ đánh vào đầu sẽ chết mau. Ông thấy chúng dã man chưa ? Các linh mục, như tôi nói, chúng dùng toàn người Công giáo để đấu tố; một số địa chủ thì chúng dùng toàn người làm, tá điền và chúng bắt cả con cái phải đấu tố cha mẹ như trường hợp cụ Cai Bái ở làng Gia Ðại. Cụ Bái có hai người con trai, một người làm tới chức Chủ tịch Tiểu khu, người kia là Cán bộ Liên khu 3, thế mà hai người này phải về đích thân đấu tố, chửi bố mẹ là địa chủ phú nông bóc lột vô sản, thậm chí nhổ nước miếng vào mặt bố mẹ, đứng nhìn cho những con vợ tá điền trùm váy vào mặt bố mẹ. Tôi hỏi ông, chủ nghĩa vô luân như thế thì còn trời đất nào không ?”
         “ Thưa cụ đúng. Chủ nghĩa nghịch lòng dân, trái đạo trời làm sao đứng vững được.”
         Tôi thấy gió bắt đầu lạnh, trời cũng đã muộn muộn mà ông cụ có vẻ không được khoẻ, bèn đề nghị:
         “ Nghe chuyện cụ thâu đêm còn muốn nghe, nhưng có lẽ đã hơi lành lạnh. Mời cụ về nghỉ, mai lại xin cụ cho nghe tiếp.”
         Thu nhặt chén đĩa giấy, tôi đem bỏ vào một cái thùng phuy lớn gần đó rồi cùng cụ trở về lều. Mặt biển đen thẫm mênh mông trước mặt với vài ngọn núi nhỏ trơ vơ. Tiếng sóng đập vào ghềnh đá bộp bộp thành một âm thanh đều dều nghe thật buồn nản. Nỗi kinh hoàng mới vài tuần trước đây tại Sàigòn khi Sàigòn rơi vào tay Cộng Sản cùng với nỗi đau đớn của cái cảnh quốc phá gia vong làm cho thần trí tôi nhiều lúc mê muội đi không còn nghĩ mình đang sống hay đã chết,  hoặc sống nhưng là sống với cái xác không hồn. Một phút bỗng tiêu tan hết, một phút sụp đổ hết. Số phận mình cùng với số phận của đồng bào và cả quốc gia dân tộc. Ðau đớn biết chừng nào ! Những lời an ủi cụ Tường lúc nãy cũng chính là những lời tôi tự an ủi.
         Tôi và cụ Tường chui vào lều. Ðám trẻ đã rủ nhau đi coi xi-nê . Mỗi tối, quân đội Mỹ có ba, bốn chỗ chiếu phim để giải trí cho đồng bào tị nạn. Có những gia đình đi được cả vợ chồng con cái, ông bà, cha mẹ, anh em, họ hàng. Họ vui như Tết và có thể họ mang được vàng bạc, đô-la  theo. Họ thấy cuộc di tản này quả có lý. Ngày ba bữa, cả gia đình mấy chục người sắp hàng đi lấy cơm ăn, xong ra bờ biển chơi hóng gió, tối xem xi-nê. Họ vừa lòng với cảnh di tản và không có một điều gì phải lo nghĩ.  Trái lại, có nhiều gia đình vợ mất chồng, con mất cha, anh em tứ tán. Họ buồn rầu, khổ sở, lo lắng. Có những người ngồi khóc cả ngày. Thậm chí có người sang tới Guam rồi ghi tên xin trở về Việt Nam. Có lần tôi hỏi cụ Tường:
         “Người ta kẹt gia đình ở Việt Nam nên có nhiều người xin trở về. Cụ nghĩ sao ?”
         Nét mặt  rầu rầu, cụ đáp:
         “ Tôi bỏ lại nhà tôi và 5 đứa con tại Sàigòn, tôi cũng đau khổ lắm chứ. Nhưng bảo trở về sống với Cộng sản thì nhất định không. Thà tôi chết dập chết vùi nơi đây còn hơn. Ông Vũ tính coi, tôi đã sống với chúng và chúng đã bắt chúng tôi phải làm tập thể, ăn tập thể. Ðàn ông ở riêng, đàn bà ở riêng. Mỗi buổi sáng đánh một tiếng kẻng thì ra đồng làm. Trưa đánh một tiếng kẻng thì về ăn cơm.  Có ban hoả thực riêng lo việc nấu nướng.  Chiều lại ra đồng làm rồi tối lại về. Ăn cơm tối xong, họp hành kiểm thảo đến nửa đêm mới được đi ngủ để sáng sớm lại ra đồng. Con người như cái máy chả còn gì là sinh thú của cuộc đời nữa. Vợ chồng thì ba, bốn tháng chúng cho gặp nhau  một lần. Chết đem ra đồng chôn. Sống như thế thì ông bảo tôi trở về để làm cái gì ? Tôi quá sợ cái chế độ đó rồi.”
         Ngày hôm sau, cụ Tường và tôi đi lấy cơm sớm hơn. Lại ra chỗ cũ ngồi và cụ lại kể tiếp:
         “Hôm nay tôi kể cho ông Vũ nghe về cái thảm cảnh của gia đình tôi, cái thảm cảnh mà mỗi lần kể là tôi lại khóc.
         Hồi đó, ông bố tôi làm Chánh tổng,  tổng Thủy Cơ. Phải biết tỉnh Thanh Hoá có bẩy phủ, bẩy huyện và tổng Thủy cơ. Tổng Thủy Cơ bao gồm tất cả các thuyền bè đậu ở khắp nơi thuộc về tỉnh Thanh Hoá. Nói thế chắc ông Vũ cũng mường tượng ra Tổng Thủy Cơ lớn như thế nào. Dân số trong tổng Thủy cơ rất đông và chức Chánh tổng tổng Thủy Cơ cũng được coi ngang hàng với các chức tri huyện, tri phủ trong tỉnh. Trong đợt đấu tố đầu vào những năm 1950-51, bố tôi thoát được vì ông tìm cách khéo léo với cán bộ xã, huyện để chúng khỏi báo cáo lên cấp trên.  Nhưng đến đợt cải cách ruộng đất năm 1956-57 thì chúng đem bố tôi ra đấu tố. Cũng nên mở một dấu ngoặc ở đây là sau Hiệp định Genève tháng 8 năm 1954, dân Thanh Hoá, cả Công giáo và không Công giáo đều muốn di cư vào Nam. Số người muốn ở lại với bọn Cộng Sản đa số là cán bộ hoặc liên hệ gia đình với cán bộ, không có bao nhiêu. Nhưng bọn cán bộ rất tinh quái. Chúng tìm đủ mọi cách để ngăn chặn  làn sóng di cư vào Nam, y như nhiều nơi khác. Có những gia đình rục rịch trốn đi, chúng biết được liền cản trở và để tâm trả thù, làm hại. Gia đình tôi muốn đi lắm lắm, nhất là bố mẹ tôi, thế mà không sao đi được. Chúng tôi biết chỉ có vào Miền Nam sống dưới chế độ Quốc gia thì mới có tự do sinh sống, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo.  Còn ở với bọn chúng thì mất hết tự do, chẳng những vậy, gia đình tôi bị chúng để ý theo dõi, ngộp thở lắm ông à !
         Tháng 9 năm 1956, nhân cái đợt gọi là “Cải cách ruộng đất” do tên đồ tể Trường Chinh phát động, bọn cán bộ đem bố tôi ra đấu tố. Chúng ghép cho bố tôi cái tội là địa chủ bóc lột tá điền, trước kia là Chánh tổng tổng Thủy Cơ ăn hối lộ và bóc lột dân thuyền bè sinh sống trên sông nước. Chúng kể ra cho bố tôi một trăm thứ tội. Nào là ngủ với vợ thằng tá điền này, đánh thằng tá điền kia, không cho vay lúa thóc, bỏ đói những tên tá điền khác.  Còn mẹ tôi thì chúng ghép vào tội cho tá điền vay lúa thóc lấy lời nặng, trả công người làm với giá lương quá thấp, chết đói vv... Chúng đem trói bố mẹ tôi vào một cái cọc trước sân đình rồi cho các tá điền trước đây làm cho bố mẹ tôi cứ thế mà chửi rủa, quát tháo, lăng nhục.  Con vợ một thằng tá điền tên Cam đã đứng vén váy đái vào đầu bố tôi, còn mẹ tôi thì nó tát cho sưng cả mặt.  Chúng định đưa cả tôi ra đấu tố vì chúng đã ghép tôi vào hàng địa chủ. Vả lại, trước kia tôi có giúp đỡ bố tôi trong công việc hàng tổng, lo về giấy tờ hộ tịch mà người ta gọi tôi là hộ lại của Tổng Thủy Cơ.  Nhưng hình như có một vài đứa đề nghị sao đó, nói rằng nên để tôi vào đợt sau thì hơn vì đem tôi ra đấu cả đợt này cùng với bố mẹ tôi thì e rằng nhân dân sẽ cho là nhà nước tư thù gia đình tôi, đem tất cả ra mà đấu tố.  Nhờ thế mà tôi thoát chết.
         Sau khi chúng đấu tố bố mẹ tôi và đánh đập mắng nhiếc suốt một ngày trời thì chúng cho về, bảo rằng sẽ còn đưa ra đấu tố một lần nữa vào một tuần sau.  Chúng ra hạn cho bố tôi phải làm bản tự thú hết mọi tội lỗi, những tội tưởng tượng mà chúng đưa ra đều phải nhận hết, đồng thời xin Chính phủ, Ðảng và nhân dân tha tội.  Mục đích của chúng là khi đã nắm được bản thú tội của bố tôi thì mọi chứng cớ đã hiển nhiên, tờ thú tội phù hợp với những lời khai gian, vu cáo của bọn tá điền.  Rồi, từ đó, chúng sẽ tịch thu hết ruộng đất, tài sản của gia đình tôi bằng một toà án nhân dân do chúng lập ra.
         Sau trận đấu tố đó, bố tôi về mang bệnh nằm liệt giường.  Mẹ tôi thì đỡ hơn nhưng ông nghĩ coi, tuổi già sức yếu, các ngài làm sao chịu được  những điều khổ nhục đau đớn như thế?  Ngày xưa, mọi người đều gọi bố tôi là cụ Chánh (Chánh tổng), bây giờ chúng bắt mọi người phải gọi bằng thằng. Chúng cô lập gia đình nhà tôi. Ðem đồ đi chợ bán, chúng không cho người ta mua, nếu chúng tôi muốn mua những đồ cần thiết, chúng cũng không bán. Chúng cấm mọi người liên lạc, lui tới. Chúng rình rập đêm ngày và làm mọi cách để khủng bố tinh thần người trong nhà. Chúng cho người ta có cảm tưởng rằng giầu là một trọng tội, dù giầu bằng sự cần cù, chân chỉ, làm ăn lương thiện. Còn ra làm việc dưới thời Pháp thuộc, dù làm để giúp dân giúp nước, làm một cách ngay thẳng thanh liêm cũng là có tội, có trọng tội đối với chúng. Tôi chỉ lấy làm lạ rằng sao hồi đó Việt cộng ghét thực dân Pháp đến thế mà bây giờ, sau 30 năm kể từ ngày 19-8-45, Việt cộng lại o bế Pháp hơn ai hết, thân thiện với Pháp hơn bất cứ nước nào. Vậy mà trước Hiệp định Genève 1954, người dân nào bị chúng gán  vào tội Việt gian tay sai cho Pháp thì chỉ có chết, không cách gì sống nổi. Thật kỳ lạ cho cái miệng lưỡi của Cộng Sản.”
         Cụ Tường lại lấy thuốc ra vấn, thông lệ của cụ sau mỗi bữa ăn. Hôm nay gió nhẹ chứ không thổi mạnh như hôm qua. Mặt trời đỏ ối đang từ từ chìm dần xuống mặt biển. Vài chiếc tầu đậu tít ngoài khơi hiện hình trên đám mây trắng trôi nổi trên nền trời xanh. Một đám trẻ hò hét ầm ĩ thả những chiếc tầu nhỏ xíu chúng gấp bằng giấy xuống biển và ngồi trên bờ nhìn cho chúng trôi. Thỉnh thoảng một cái kỳ đen của một con cá lớn chạy dài trên mặt nước làm đám người đứng trên bờ hô hoán lên là kỳ của cá mập.
         Tôi móc thuốc lá ra  - bao Winston - hút với cụ Tường một điếu cho vui. Ðám người ngồi hóng gió thưa dần. Họ trở về lều hay chuẩn bị đi xi-nê. Chiều xuống lặng lẽ với vài tia nắng mờ nhạt còn thoi thóp trên lùm cây cao phía chân núi. Tôi chìm đắm trong  nỗi buòn thấm thía,  không biết rồi tương lai của mình sẽ đi về đâu.
         Kéo xong vài hơi thuốc, cụ Tường lại tiếp tục:
         “ Lẽ ra một tuần sau đó chúng lại đưa bố tôi ra đấu tố một lần nữa như chúng đã nói. Nhưng vì ông bố tôi đau nặng quá, không lết nổi,  nên chúng tuyên bố hoãn lại cho đến khi nào ông cụ khỏi. Tuy vậy, chúng vẫn cô lập và rình rập gia đình tôi đêm ngày. Mẹ tôi muốn mua bán thứ gì phải nhờ người em họ, chồng cô ấy vốn làm việc cho chúng từ hồi còn bí mật, để cô ấy mua bán giùm những thứ cần thiết và đến tối mới chui bụi tre phía sau đem vào cho chúng tôi. Dạo đó tôi đã có vợ và 4 đứa con. Gia đình tôi ở cách nhà bố mẹ tôi khá xa. Vả lại, như tôi đã nói, tôi chưa phải là mục tiêu của bọn chúng lúc đó, vì vậy còn được thong thả đi lại, nhưng cứ nghĩ đến cái tai nạn bố mẹ đang phải chịu, tôi không cầm được nước mắt. Sau ba tháng, bố tôi hồi phục nhờ vì bà cô lén mua thuốc bắc giùm tại một ông lang mãi tận Ba Làng. Sắc thuốc thì phải sắc lén kẻo mùi thuốc bắc đánh sang hàng xóm, bọn công an vào khám được thì tội càng nặng thêm. Ðồ ăn đồ uống có cái gì ngon cũng phải xào nấu lén. Mua được một con gà để nấu cháo cho bố tôi ăn cho chóng khỏi, phải cắt tiết ở ngoài cánh đồng, còn lông thì đem chôn ở góc vườn. Ăn giấu, ăn đút còn hơn là kẻ có tội nữa. Tôi chưa thấy cái chánh sách nào kỳ cục như thế.
         Chỉ còn mười ngày nữa là đến tết Ðinh Dậu (1957), bọn cán bộ đến báo cho bố mẹ tôi là chúng sẽ đem bố mẹ tôi ra đấu tố một lần nữa vào đúng ngày hăm ba tháng chạp năm Bính Thân, ngày ông Táo chầu trời.  Trước đó, tôi cũng đã dược biết qua một người bạn rất thân đang làm việc với chúng là sau bố mẹ tôi thì sẽ đến lượt tôi. Tội nghiệp bố tôi, nào ông cụ đã khoẻ hẳn đâu cơ chứ. Mới hơi hơi lại người sau một cơn đánh đập tàn ác thập tử nhất sinh, thiếu thuốc, thiếu đồ bồi dưỡng. Ông cụ mới đi đi lại lại được trong sân nhà và từ nhà trên xuống nhà bếp thì chúng lại đưa ra đấu tố nữa. Hai thằng đầu trâu mặt ngựa vốn xưa kia là tá điền của bố tôi, bố tôi coi chúng như con, lấy tô rất nhẹ lại còn dựng vợ gả chồng cho chúng, cho tiền, cho thóc đối đãi hơn cả cháu ruột. Thế mà giờ này chúng nghe theo lời bọn cán bộ nhất định giết bố tôi cho bằng được.
Ðối với chúng, “Trí, Phú, Ðịa, Hào, đào tận gốc trốc tận rễ” còn phải căm thù hơn cả giặc xâm lăng. Chúng muốn cho toàn dân ngu dốt và nghèo đói để chúng dễ cai trị và chỉ có một giai cấp thống trị là bọn chúng.
         Chiều hăm hai tháng chạp, bố tôi gọi tất cả con cái tề tựu lại trước bàn thờ tổ tiên. Có vài người chị gái tôi lấy chồng xa không thể đến được, còn thì tất cả đều hiện diện đầy đủ. Vì là gần Tết, bọn cán bộ mải đi sắm sửa tết nhất nên chúng lơ là việc canh chừng gia đình tôi nên mọi người mới tề tựu đông đủ được. Khi con cái đã ngồi trên mấy cái chiếu trước bàn thờ, bố tôi sai tôi đi thắp hương và nến lên. Cụ mặc quần áo trịnh trọng, đội khăn và đi giầy tử tế rồi đứng trước bàn thờ lâm râm khấn và lễ.  Xong cụ đứng bên cạnh bàn thờ nhìn xuống, để mẹ tôi, rồi lần lượt đến chúng tôi, ai ai cũng đều khấn vong linh ông bà tổ tiên và lạy trước bàn thờ. Mẹ tôi và mấy đứa em gái thấy khung cảnh trang nghiêm và cảm động, lại nhớ đến hoàn cảnh đau đớn của gia đình, bất giác bật khóc. Bố tôi thấy vậy giơ tay cản ngay, không cho khóc, cụ nói bọn công an, cán bộ nghe được thì chúng giết cả nhà. Vì vậy chỉ còn nghe những tiếng nấc tức tưởi với hàm răng nghiến chặt cho tiếng khóc khỏi bùng ra.  Lễ xong, bố tôi bảo mọi người ngồi xuống chiếu, còn cụ thì ngồi ngay chính giữa sập, mẹ tôi ngồi một góc bên cạnh. Cụ dõng dạc nói:
         “ Nhà ta từ các cụ cho đến đời bố mẹ đều cố gắng ăn hiền ở lành. Làm việc cho hàng tổng thì bố cố giữ thanh liêm vì nhà ta có bát ăn bát để từ lâu, đâu có thiếu thốn gì mà phải đào khoét của dân. Còn ruộng nương, điền thổ trong nhà là do ông bà để lại, tá điền cấy rẽ thì lấy tô thật nhẹ, nhẹ hơn người ta nữa thế mà từ ngày chính phủ mới lên, họ khép cho bố những tội tầy đình, nào địa chủ bóc lột, nào cường hào ác bá. Họ đã đem bố ra đấu tố một trận và kết quả là bố tưởng chết ngay sau đó. Bây giờ mới tỉnh dậy được một tí, họ lại đem ra đấu tố nữa. Bố nghĩ trước sau bọn cán bộ cũng sẽ tìm cách giết bố cho bằng được, mà giết một cách khổ nhục, ê chề. Vì vậy, có thể lúc lâm chung bố không còn kịp gặp mẹ và các con, ngày hôm nay bố gặp mẹ và các con một lần cuối.”
         Bố tôi nói đến đó thì nghẹn lời, cụ không nói tiếp đuợc nữa vì quá cảm động. Mà mẹ tôi với anh em chúng tôi cũng không cầm được nước mắt, tiếng khóc oà vỡ ra như nước lũ phá bờ đê. Bố tôi thấy vậy, nghĩ là quá nguy hiểm nên khoát tay ngăn mọi người và nói:
         “Bà và các con cấm không được khóc. Khóc tụi nó nghe thấy thì còn khổ hơn. Hãy nghe đây! Sau khi bố chết rồi thì cả nhà may ra sẽ được yên với chúng nó hơn,  vì cái gai là bố chúng nó đã nhổ được rồi. Chỉ có thằng Tường có ra làm việc với tổng mà lại có tư điền hơn chục mẫu, vậy sau bố có lẽ chúng nó để ý đến con. Con liệu xem có cách nào trốn để bảo toàn được cái mạng chứ con ở nhà thì bố chết không nhắm mắt đâu.”
         Nói xong, ông cụ bảo mọi người giải tán rồi vào trong buồng nằm. Tôi cũng trở về nhà vì lúc đó cũng gần tối.   
         Ðêm hôm đó tôi không ngủ được. Phần nghĩ rằng ngày mai chúng sẽ đưa bố tôi ra đấu tố, có lẽ lần này bố tôi chết nên ông cụ đã trối trăn hết tất cả.  Cứ nghĩ đến một đời bố tôi lo lắng cho mẹ tôi và chúng tôi, ăn hiền ở lành, người trong tổng Thủy Cơ, ngay cả nhiều nơi trong tỉnh Thanh Hoá cũng quí mến bố tôi vì tinh thần hay cứu giúp người và làm việc nghĩa. Thế mà bây giờ bọn chúng thù ghét bố tôi đến như thế, không muốn để bố tôi sống nữa. Về phần tôi là con trai cả (lớn nhất) trong gia đình, tôi có bổn phận nhiều hơn các chị và các em tôi để nhang khói cho ông bà cha mẹ. Nhưng tôi biết rõ, sau bố tôi là đến lượt tôi vì vậy bố tôi hết mực khuyên tôi phải cao chạy xa bay thì mới bảo toàn được mạng sống. 
       Tôi có hai người đồng chí cùng muốn trốn với tôi.  Người thứ nhất là bạn cùng làm việc trong hàng tổng, giữ chức thư ký, tên anh ta là Các, cũng trạc tuổi tôi, có vợ và năm đứa con. Người thứ hai là ông thầy bên Công giáo vẫn gọi là thầy Ðiền, đang dạy trẻ tại xứ Thổ Ngoã.  Từ hôm cha Thước bị đem ra đấu tố vì mỗi cái tội bị ghép là “phong kiến”, ông thầy Ðiền đâm ra sợ hãi quá chừng.  Ông tìm gặp tôi vì trước kia ông hay đến nhờ cậy bố tôi và tôi việc hàng tổng. Ông dám nói thật với tôi ý định trốn đi vì ông biết tôi cũng đang tìm đường trốn và có thể tin cậy tôi được.  Có lẽ nay mai tôi phải kiếm cách gặp hai người  đó để bàn tính ngày lên đường vì nghe đồn đã có ít người trốn được vào Nam rồi.
         Hai giờ đêm đó, con bé cháu con cô em tôi (ở chung nhà với bố mẹ tôi) đến báo cho tôi hay bố tôi đã mổ bụng tự sát. Nó nói sau khi con cái về hết rồi, bố tôi đi lấy một con dao đi rừng thật tốt đem ra mài.  Cả nhà cứ nghĩ có lẽ tết  gần đến, cụ mài dao như mọi năm, để có thái thịt thái rau gì chăng nên chẳng ai để ý.  Mài dao xong lại thấy cụ vào phòng nằm. Ðến hai giờ đêm, mẹ tôi nghe tiếng bố tôi rên la nhè nhẹ,  liền thắp đèn lên chạy vào thì thấy máu đổ ra hàng vũng lớn trên nền nhà mà bố tôi ruột gan phơi cả ra ngoài, mắt trợn trắng, sắp chết rồi. Khi ông cụ ra dấu cho bà cụ ghé tai vào miệng để ông cụ trối thì bà cụ chỉ nghe được có năm tiếng thì thào gần đứt hơi:” Bảo thằng Tường trốn ngay !” Nói xong câu đó, cụ trút hơi thở cuối cùng. Ngay lập tức, mẹ tôi cho đứa cháu gái len lỏi đi lối tắt đến nhà tôi báo tin dữ, đồng thời bảo tôi liệu mà trốn đi ngay, chớ có thương tiếc gì nữa.
         Nghe đứa cháu nói xong, tôi khóc oà lên, thương cho bố tôi quá và cũng cảm phục bố tôi quá can đảm, thà tự giết mình hơn là để bọn công an, cán bộ giết, thà chết như thế còn hơn là sa vào tay bọn chó sói.  Nhưng tôi phải bụm miệng ngay lại.  Bố tôi đến lúc chết vẫn còn nghĩ dến tôi, mấy lời cuối cùng của cụ là giục tôi trốn đi. Vậy tôi phải cố gắng làm theo ước nguyện của Người để linh hồn Người được mát mẻ nơi chín suối.
         Tôi bảo con cháu ra về đồng thời quay dặn vợ tôi vài câu, nhìn qua mặt mấy đứa con đang ngủ, rồi cứ thế, với một bộ quần áo độc nhất trên người và ít tiền trong túi, tôi đến nhà anh Các.  Tại đây, tôi bàn kế hoạch trốn đi với anh và anh đồng ý ngay. Tuy nhiên, chúng tôi phải đợi đến đêm hôm sau mới đi được vì còn nhờ người thông báo cho thầy Ðiền. Chúng tôi muốn có bạn đồng hành vì đi toàn đường rừng rất nguy hiểm, người nọ dựa vào người kia, lúc khoẻ đã vậy lúc đau ốm,  có bạn cũng đỡ nhiều. Sở dĩ bọn cán bộ không truy lùng tôi ngay vì sau khi bố tôi chết rồi, mẹ tôi không động tĩnh  gì hết, cứ mặc quần áo và đắp chăn chiếu cho ông cụ y như cụ hãy còn sống. Mẹ tôi cũng cấm con cháu trong nhà không được khóc và cấm loan tin bố tôi đã chết ra ngoài. Có lẽ mẹ tôi  dụng tâm giúp tôi một lần cuối cùng để cho tôi đi thoát vì nếu bọn cán bộ biết bố tôi đã chết, chúng đến nhà không thấy có mặt tôi là truy lùng tôi ngay.
         Tối hăm ba ông Táo chầu trời, vào lúc vàng vàng mặt trời, bọn công an, cán bộ kéo đến nhà bố tôi cùng với những tên tá điền phản chủ, vô ân bội nghĩa. Chúng vào trong nhà quát ầm ĩ lên:” Thằng Thiềng đâu ? Hãy ra đây cho nhân dân xử tội !” Mẹ tôi chỉ tay vào trong buồng. Bọn chúng tông cửa chạy vào nhưng tất cả đều bổ ngửa ra khi thấy bố tôi đã chết. Tự sát chết. Dĩ nhiên chúng tra khảo mẹ và các em tôi rất dữ nhưng đầu mối là bố tôi mà bố tôi đã chết rồi, chúng có làm gì chăng nữa thì cũng đến thế thôi. Một tên trong bọn sực nhớ đến tôi, liền la lên:”Còn thằng con của nó nữa, thằng Tường.” Thế là cả bọn bàn kế hoạch  truy lùng tôi nhưng lúc đó tôi đã cùng hai người bạn vào sâu trong rừng rồi. Sở dĩ tôi biết được các chi tiết xẩy ra sau khi đi vì có mấy người làng sau này cũng trốn được vào Sàigòn kể lại cho nghe.
                                                                                    *
         Cuộc hành trình xuyên sơn của chúng tôi vô cùng gian khổ. Khởi hành ngày 23 tháng chạp mà đến tháng tư năm sau chúng tôi mới tới được khu vực do quân đội Quốc gia kiểm soát tại Quảng Trị. Từ Thanh Hoá, nếu đi theo quốc lộ I, chúng tôi phải đi qua Nghệ An, Hà tĩnh, Quảng bình rồi mới đến Quảng Trị. Cách Quảng Trị hơn 30 km là cầu Hiền Lương, bắc qua sông Bến Hải, ranh giới giữa hai miền Nam Bắc. Sang được bờ phía Nam sông Bến Hải đã là điều mừng lắm rồi. Nhưng chúng tôi đâu có dám đi theo quốc lộ.  Con đường chúng tôi đi còn xa và nguy hiểm hơn con đường mòn dọc Trường Sơn bọn cán bộ Việt Cộng sau này dùng để tải bom đạn và người vào quấy phá miền Nam. Có khi, mỗi  ngày chúng tôi chỉ đi được hơn chục cây số, lại phải nghỉ và trốn vì sợ bọn chúng bắt gặp. Ðã có những nhóm người bị chúng bắt, chúng đem  xử tử ngay, không cần phải giải về quê quán.
         Một lần ba anh em chúng tôi lạc vào một bộ lạc người thiểu số, chẳng biết là Mường hay Mán, ở gần biên giới Lào - Việt. Mới đầu, bọn người này làm rất dữ, tôi tưởng phen này chắc là bị chúng giết vì ngôn ngữ bất đồng, không sao giải thích cho họ hiểu được. Nhưng sau nhờ có một ông già trong bộ lạc đứng ra nói với tên tù trưởng và đưa chúng tôi về nhà, một cái nhà sàn ngay giữa làng.  Ông già và vợ con ông ta đối đãi với chúng tôi rất tử tế. Nào cho ăn, cho quần áo thay để tắm giặt, cho uống rượu cần và líu lo với chúng tôi cả ngày nhưng chúng tôi có biết họ nói gì. Ông bà già có một người con gái chừng hai mươi tuổi, xinh xắn, dễ thương. Tên cô là Mây Mali. Cô thường sắp cơm cho chúng tôi ăn, dẫn chúng tôi ra suối và kể cho chúng tôi nghe những chuyện  thật dài nhưng chúng tôi hoàn toàn không hiểu, chỉ gật đầu tràn.
         Chúng tôi lưu lại nhà của Mây Mali một tuần lễ cho lại sức vì cả tháng chỉ toàn ăn đồ khô và ngủ trên cành cây trong rừng. Có mấy viên thuốc cảm đưa đi uống đã hết, chúng tôi chỉ sợ bệnh sốt rét rừng giữa đường thì thật là nguy khốn. Một bữa, ông già ra hiệu bảo với chúng tôi, ông sẽ kiếm cho chúng tôi mỗi người một cô vợ. Riêng thầy Ðiền trẻ nhất bọn và khá đẹp trai, ông sẽ gả Mây Mali cho. Nghe hai ông bà già nói, chúng tôi cứ cười ngặt cười nghẽo. Hoàn cảnh này mà dám nghĩ đến chuyện lấy vợ lấy con sao ? Giá có tiên thực chúng tôi cũng không dám. Mạng sống đang như sợi chỉ mành treo chuông còn dám bay bướm? Chúng tôi khoát tay chối từ với ông già nhưng ông không hiểu lại nghĩ chúng tôi từ chối lấy lệ. Và ông làm ngay điều ông định làm.
         Tối hôm đó, ông già bảo thầy Ðiền nằm riêng ra rồi cho Mây Mali đến nằm cạnh thầy. Còn tôi và Các thì ông dẫn ở đâu đến hai cô con gái khác. Ông nói những gì với hai cô này rồi một cô lại kéo tay tôi và cô kia đến kéo tay Các đưa ra cửa. Tôi và Các khựng lại không chịu đi. Hai cô này có vẻ rất ngạc nhiên, nói một tràng với ông già. Ông già lại nói với tôi và Các,  và cầm tay tôi và tay Các đặt vào tay hai cô gái. Nhưng chúng tôi vẫn không chịu đi. Rốt cuộc hai cô gái Mường tiu nghỉu ra về trong khi ông già buồn bã lắm.
         Cuộc “tình duyên” của tôi và Các với hai cô gái không êm đẹp chút nào, nhưng cuộc “tình duyên” của Mây Mali và thầy Ðiền cũng không hơn gì. Sau khi hai cô gái ra khỏi nhà ông bà già, Ðiền lại chỗ ba chúng tôi vẫn nằm ngủ và nằm miết ở đó tới sáng. Tội nghiệp cho Mây Mali, cô bị bẽ bàng, lại còn bị bố mẹ mè nheo phiền trách, làm như cô vụng về không đủ tài thu hút đàn ông. Sáng hôm sau gặp chúng tôi, mặt cô cứ đỏ nhừ lên.
         Dù ông bà già thiểu số tốt cách mấy, chúng tôi cũng phải lên đường. Vả lại, sau khi dàn xếp việc gả mấy cô gái cho chúng tôi không xong, ông bà già không còn mặn mà với chúng tôi như trước và có lẽ muốn chúng tôi đi sớm. Chúng tôi cũng biết điều đó và sửa soạn lại lên đường.
         Ngày nhìn thấy bờ sông Bến Hải là ngày vui mừng khôn tả. Chúng tôi nhìn thấy sự sống, nhìn thấy Tự Do, nhìn thấy tương lai sáng lạn.  Riêng tôi không khỏi buồn vì trốn đi giữa lúc bố chết. Mẹ, vợ, con và các chị em tôi bây giờ ra sao? Có đỡ bị hành hạ không? Cứ nghĩ đến đó, tim tôi thắt lại. Sau khi trình diện toà Tỉnh Trưởng Quảng Trị, chúng tôi được cấp phát giấy tờ và ít tiền làm lộ phí. Sau đó cả ba chúng tôi đều quyết định vào Sàigòn để  làm lại cuộc đời mới. Tôi bị cắt đứt với gia đình không liên lạc được. Năm 1960, tại Sàigòn, tôi lại lập gia đình với người con gái một gia đình hết lòng thương tôi như con ruột. Nhà tôi,  sau đó có với tôi năm đứa con, ba trai, hai gái. Cháu gái lớn nhất năm nay đã 13 tuổi. Cháu đang học lớp 8 trung học.”
         Cụ Tường ngưng một chút để nghỉ. Giọng cụ lạc đi khi nói đến người vợ và 5 đứa con thân yêu đang ở bên kia bờ đại dương , không biết sống chết thế nào.
         Cụ đứng lên. Tôi biết ý cụ đã muốn về. Trên đường về lều, cụ bảo tôi:
         “Tôi biết trước là phải chạy mà không sao thu xếp cho vợ con cùng đi được, ông Vũ ạ. Nhà tôi cũng biết tôi ở lại là chết nên khuyến khích cho tôi đi, y như người vợ năm xưa ở Thanh Hoá cũng chỉ nghĩ đến cái mạng sống của tôi mà thôi. Chín đứa con thân yêu, hai lần chạy giặc Cộng, tôi không mang theo được đứa nào để an ủi khi tuổi già xế bóng. Hai người vợ sống chết với mình, cả hai lần bỏ lại. Ông nghĩ đã đau đớn chưa ? Nhưng tôi không làm sao hơn được. Tôi ghê sợ bọn chúng quá rồi, thà tôi chết còn hơn phải sống với Cộng Sản.”
         Tôi cứ để cụ nói cho vơi bớt đau khổ. Tôi chỉ nghe và cảm nhận. Càng thấm thía khi chính hoàn cảnh tôi lúc đó không hơn gì hoàn cảnh cụ, cũng như hoàn cảnh xẻ đàn tan nghé của một số đông đồng bào di tản đang ở trên đảo Subic Bay này.
         Ngày sang Guam, tôi với cụ Tường cùng đáp một chuyến bay và tôi với cụ lại ở cùng lều tại Orote Point. Sau đó, tôi đi đảo Wake kiếm gia đình (bị thất lạc), còn cụ đi Camp Pendleton, California và từ đó tôi không còn gặp cụ nữa.

Mười Bốn Năm Sau

       LTS - Truyện có thực này tiếp theo truyện ngắn “Trốn Chạy”, tác giả là Nhà Văn Trần Đình Ngọc. Nhân vật chính là cụ Lê văn Tường đã trốn thoát nanh vuốt Cộng Sản hai lần. Lần đầu vào năm 1957 từ tỉnh Thanh Hoá vào  miền Nam Việt Nam sau khi người cha của cụ bị đem ra đấu tố, phẫn uất mổ bụng chết. Lần sau vào ngày 30-4-1975 từ Sàigòn đến đảo Guam và sang Hoa kỳ.

         Người ta nói “Quả đất tròn” cũng không phải là vô lý. Trong phần kết luận truyện “Trốn Chạy”, một truyện vô cùng thương tâm và có thực, tôi viết rằng, do sự khuyến khích của Ban Quản trị trại, để có chỗ đón tiếp những đồng bào Việt Nam tị nạn Cộng sản mới đến, chúng tôi đã bay từ Subic Bay vào Guam, sau khi ở đó khoảng hơn một tháng từ đầu tháng 5-1975. Tôi với cụ Tường cùng đi một chuyến bay DC10 và lại ở cùng biêu-đinh tại Orote Point. Sau đó, tôi đi đảo Wake kiếm gia đình bị thất lạc, còn cụ đi Camp Pendleton - California và từ đó, tôi không còn gặp cụ nữa.  
Ấy vậy mà tôi lại gặp cụ Tường hơn 14 năm sau, tức là năm cuối cùng của thập kỷ 80, năm Liên Sô và các nước chư hầu Cộng Sản cùng với bức tường ô nhục Bá Linh sụp đổ tan tành.
Tôi gặp cụ trong một tiệc cưới con gái người bạn thân ở San Diego, một cách hết sức ngẫu nhiên. Ðúng là “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ”, nếu không, tôi đâu có đoạn kết này để gửi đến quí bạn  đã đọc “Trốn Chạy”, một câu chuyện thực 100%, chưa có đoạn kết.      
Lại cũng một sự tình cờ, chủ nhà xếp tôi ngồi cùng bàn với cụ và tôi đã nhận ra cụ trước khi cụ nhìn ra tôi.
Có vẻ có da có thịt và khoẻ mạnh hơn hồi ở Guam nhưng trông cụ già đi nhiều - mười bốn năm còn gì - những nếp nhăn trên trán trên má sâu hơn trước, đôi mắt không còn tinh anh, linh hoạt như hồi ở Guam và cử chỉ, nói năng cũng chậm nhiều. Tuy nhiên, tôi vẫn nhận ra cụ:
         “Xin lỗi cụ, có phải cụ là cụ Tường không ?”
         Cụ ngó trân tôi, miệng mỉm cười, vẫn nụ cười khi xưa:
         “ Phải, tôi là Tường. Sao ông biết tôi ?”
          “ Cụ còn nhớ người ở chung lều với cụ ở đảo Subic Bay và Orote Point không ? Tôi là Vũ đây cụ.”
         Cụ Tường reo lên:
         “Chao ơi ! Nhà văn, Nhà thơ Xuân Vũ ! Bảo sao tôi cứ ngờ ngợ. Bao nhiêu năm bây giờ tôi mới gặp lại ông đây, ông Vũ ?”
          “Hơn mười bốn năm. Thời gian trôi nhanh quá hả cụ ?”
         “Nhanh lắm. Tôi đã tám chục, già quá rồi. Còn ông, trông cũng không khác xưa bao nhiêu.”
         “Cám ơn cụ. Thế gia đình cụ ra sao và bây giờ cụ ở tỉnh nào ?”
         Cụ Tường trỏ bà cụ ngồi cạnh và bà cụ gật đầu chào tôi:
          “Ðây là nhà tôi. Nhà tôi và năm cháu ở Sàigòn đã được sang đoàn tụ với tôi hai năm nay, hiện ở thành phố San Diego. Thế gia đình ông sao ?”         
Tôi trỏ bà xã ngồi cạnh để giới thiệu và nói cho cụ biết gia đình tôi cũng đã được đoàn tụ đầy đủ. Nhớ lại câu chuyện gia đình cụ, cụ đã kể cho nghe khi tôi và cụ ở đảo Subic Bay, tôi hỏi cụ:
         “Cụ ơi, ở đây không tiện nhưng nếu khi nào rỗi rảnh, mời cụ lại nhà tôi chơi nhắc lại câu chuyện ở xứ Phúc Lãng và Thổ Ngõa ngày xưa, được không cụ ?”
         Cụ Tường sốt sắng:
         “Ðược lắm chứ. Tôi cũng có ý nghĩ đó vừa mới đây. Ông cứ cho địa chỉ và số điện thoại, tôi sẽ đến thăm ông.”
Tôi nghĩ lẽ ra tôi đến thăm cụ mới phải, nhưng cứ phân vân. Tại nhà cụ, nếu đòi cụ kể chuyện đời xưa, chuyện cụ đã có một bà vợ và mấy người con ở huyện Phú Thọ, tỉnh Thanh Hoá mà vì trốn chạy nạn Cộng Sản, cụ phải bỏ lại để vào Nam, rồi cụ lấy bà này, người đàn bà đang ngồi cùng bàn với tôi thì e  không tiện, mặc dù đối với cụ có thể là không có gì trở ngại.
Tôi tiếp cụ Tường tại nhà tôi vào một buổi chiều thứ sáu đầu tháng mười hai, gió bấc thổi xuống khá lạnh tuy không có tuyết. Cụ nói bà cụ bị cảm nên xin cáo lỗi. Khách hôm đó chỉ có cụ và một người bạn thân của tôi, anh Chung, mới từ Virginia sang thăm gia đình tôi.
Sau bữa cơm tối, chúng tôi ra phòng khách, ngồi kế bên lò sưởi cho ấm và từ lúc này, chúng tôi có thể đàm đạo về những chuyện... ngày xưa. Phải, chuyện ngày xưa !       
Nhà tôi pha trà sen, mới được chị tôi gửi từ Việt Nam qua, sai cháu nhỏ bưng ra. Những tách trà bốc khói, tản mạn hương sen trong phòng khách ấm cúng làm chúng tôi cảm thấy nhớ quê hương vô tả. Tôi để sẵn mấy thanh củi lớn, châm thêm vài thanh vào lò, gỗ cháy nổ tí tách, lò than hồng đỏ rực trông thật vui mắt. Tôi biết ý hai vị khách quí nên nói:
         “Cụ Tường và anh Chung cứ hút thuốc tự nhiên, tại nhà tôi không có kiêng cữ khói thuốc đâu.”
Thường ngày tôi không hút thuốc, nhưng lúc này thấy cần phải châm một điếu. Tôi không mời cụ Tường vì biết cụ vẫn hút thuốc vấn như ngày xưa, còn anh Chung thì đang giở gói Cherry và cái tẩu Dunhill của anh ra. Tôi gợi chuyện sau khi rút một điếu Camel đầu lọc bạc hà:
         “Cụ Tường còn nhớ cái bãi biển ở đảo Subic Bay mỗi buổi chiều khi cơm nước xong, tôi thường ngồi bật quẹt và chắn gió cho cụ hút thuốc không?”
         Cụ Tường gật gù:
         “Sao quên được ông Vũ? Hồi đó chúng ta sa sút tinh thần quá hả ông? Không ngờ có ngày nay.”Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân”. Thật là ông trời an bài.”
Anh Chung chỉ biết láng máng tôi và cụ Tường đã cùng ở đảo Subic Bay chứ không biết gì hơn nên im lặng hút thuốc ngồi nghe.
         Khói thuốc tản mạn lên trần nhà làm căn phòng có vẻ “đàn ông” và ấm cúng hẳn lên. Tôi không hút pipe, nhưng lại thích ngồi gần bên người hút Cherry, cái mùi của nó mới tuyệt diệu làm sao, ngọt như mùi táo tầu. Vì thế, hồi ở trong trại Hồi Hương (tính về con tầu Việt Nam Thương Tín) ở Guam, tôi cứ mua thuốc Cherry tặng anh bạn tên Dương (cựu Trung Tá green béret, nhảy ra Bắc) để anh hút và ngồi nói chuyện với anh. Lúc đó tôi đâu đã biết về nạn second smoker (vài chục năm sau y khoa mới khui ra).
        Cụ Tường hắng giọng, nói tiếp:
         “Chắc ông Vũ muốn biết sau khi tôi đi rồi thì gia đình tôi ra sao. Ðể tôi kể hai ông nghe.
Khi bọn cán bộ, công an và những tên tá điền phản chủ vô ân bội nghĩa đến nhà bố mẹ tôi vào buổi tối hăm ba tháng chạp âm lịch năm Bính Thân (đầu năm 1957) để lôi bố tôi ra đấu tố lần hai, chúng quát tháo ầm ĩ:
         “Thằng Thiềng đâu, hãy mau ra đây cho nhân dân xử tội.”
         Mẹ tôi chỉ tay vào trong buồng, bọn chúng tông cửa chạy vào nhưng tất cả đều bổ ngửa ra khi thấy bố tôi đã tự sát.
         Chúng tra khảo mẹ tôi và các em tôi rất dữ nhưng đầu mối là bố tôi mà bố tôi đã chết rồi thì chúng có làm gì chăng nữa cũng đến thế mà thôi.
 Liền đó, chúng trực nhớ đến tôi, chúng cho một bọn sang làng bên bắt tôi nhưng như tôi đã nói, tôi, anh Các, và thầy giáo Ðiền đã vào sâu trong rừng và tìm đường đi đến bờ sông Bến Hải.
         Người em họ bố tôi, cô Bảng, sau  này viết thư kể cho tôi nghe rằng, chúng trì hoãn không cho mẹ tôi chôn cất bố tôi cho đến cả mười ngày sau khi xác bố tôi đã sình thối vì ruột gan phèo phổi lòi cả ra ngoài. Chúng dã man đến độ cấm không cho bà con lối xóm đến giúp đỡ ma chay đưa bố tôi ra đồng. Một tay mẹ tôi phải tẩn liệm (shroud, nhiều người viết sai là tẩm liệm), đưa hết ruột gan trở lại bụng bố tôi rồi xé vải quấn lại, lau sạch hết các vết máu và thay quần áo sạch sẽ. Ba đứa em tôi, một trai hai gái có phụ với mẹ nhưng hai ông nghĩ coi, từ nhỏ tới lớn, chúng chưa từng thấy xác chết ở trong nhà, máu me lênh láng như thế bao giờ nên chúng sợ dúm người lại dù rằng người chết đó là bố mình.
Chôn cất bố tôi xong thì ba đứa này mất cả trí khôn, ngây ngây dại dại làm như những tai ương khủng khiếp của gia đình dồn dập đến làm chúng chết sững không còn biết đối phó ra sao nữa.
Bọn cán bộ, công an cấm không cho người làm săng (hòm) bán săng cho mẹ tôi. Chúng muốn mẹ tôi phải bó chiếu bố tôi mà khiêng ra đồng. May sao nhờ có cô Bảng nói với mẹ chồng cô ấy cho mẹ tôi vay đỡ cỗ hậu sự của bà bằng gỗ tạp để phòng đó từ lâu mà chưa dùng, nên bố tôi mới có cỗ ván. Mấy người đô tùy khiêng quan tài là những người ở làng bên cạnh do cô Bảng lo lót với công an, hối lộ cho chúng để chúng không làm khó dễ. Mặt khác, sở dĩ chúng phải dễ dãi hơn vì xác bố tôi càng để càng sình, lối xóm chịu không nổi mùi tử khí, kêu ca quá sức nên chúng chấp thuận cho chôn.      
Chôn cất xong bố tôi buổi trưa thì tối hôm đó mẹ tôi ngã bệnh nằm rên hừ hừ. Hai chị lớn và các em tôi xoay xở không nổi, chỉ còn một cách cầu cứu cô Bảng mà thôi.
         Cũng cần nói thêm, chồng cô Bảng vốn là đảng viên Cộng sản đã hoạt động trong bí mật nhiều năm, nhưng không ai biết, cho đến ngày 19-8-1945, ngay cả bố tôi cũng không biết. Lúc đó chú Bảng làm bí thư huyện ủy nên quyền uy rất lớn nhưng chú không muốn dính dáng đến bố tôi vì e mất chức. Chỉ có cô Bảng, thấy gia đình tôi đau thương quá nên không nỡ nhắm mắt làm ngơ vì còn họ rất gần. Nói là giúp đỡ,  nhưng chỉ lén lút lúc đêm khuya khi không có bọn công an,  hoặc cô đã đút lót cho mấy tên cắc ké có nhiệm vụ rình mò gia đình tôi, chúng làm ngơ cho cô mang vài thứ cần thiết vào cho mẹ tôi.
Hai tuần sau lúc mẹ tôi vừa bớt bệnh thì bọn cán bộ đến. Chúng cho mẹ tôi hay chúng sẽ tịch thu toàn bộ tài sản của bố mẹ tôi. Một tuần sau đó, tên bí thư xã ủy đến chiếm ngụ ngôi nhà của bố mẹ tôi cùng với tất cả đồ đạc, thóc lúa. Em trai tôi phải đưa mẹ tôi và gia đình nó ra che một cái chòi ở giữa ruộng. Miếng đất này cũng của bố mẹ tôi nhưng chúng không thèm lấy vì không có giá trị. Vốn nó là một cái gò rộng chừng ba sào, xưa kia mục đồng thường thả trâu bò cho ăn cỏ hoặc mùa gặt canh điền làm chòi để canh lúa phòng có kẻ cắt trộm lúa. Tên bí thư xã lấy hết, chỉ cho mẹ và em tôi mang ra được mấy cái quần áo cũ, vài cái nồi, rổ chén bát. Ðó là tất cả gia tài còn lại một đời người.
 Mẹ tôi lúc đó đã già, bệnh tật, yếu đuối, tinh thần sa sút, đau khổ, tan nát nhưng cũng phải đi hỏi các nhà quen xin làm thuê làm mướn như giã gạo, sàng gạo, nuôi lợn, vớt bèo, nuôi gà, nấu cơm cho canh điền vv... để phụ với vợ chồng đứa em trai thua tôi đúng một giáp. Nó, vợ nó và đứa em gái kế út đều đi làm mướn để đắp đổi qua ngày. Còn con em út phải đi ở đợ cho tên tá điền của bố tôi trước kia, bây giờ chễm chệ là trưởng đồn công an xã hét ra lửa, mửa ra khói.
Nhưng mẹ tôi không sống lâu để chịu sự đầy ải, nhục nhã, đói khổ đó. Hơn năm sau, chỉ một tuần sau cái giỗ đầu của bố tôi, mẹ tôi ra đi trong một đêm mưa gió bão bùng , căn lều vì dựng lên quá sơ sài bằng tre, lá nên sụm xuống. Gió quật vào người, mưa như trút nước, mọi người lạnh run. Mẹ tôi chỉ kêu lên được mấy tiếng:” Ông ơi, ông ơi !” rồi lịm đi.
         Mẹ tôi chết trong đêm đó và ba  ngày sau, chúng cho phép chôn ngay trên gò, cách lều vài chục bước, chỉ có hai cái chiếu bó lại vì chẳng còn tiền bạc để mua săng.
Em trai tôi với vợ nó và một con em, sống lây lất ở đó cho đến hai năm sau, chúng bắt em trai tôi đi dân công tải súng, tải đạn trên tuyến đường mòn trong rừng ở biên giới Lào - Việt. Cùng đi với nó có cả mấy chục thanh niên người cùng huyện bị ghép vào thành phần con địa chủ hoặc cường hào ác bá. Ăn uống quá thiếu thốn, mỗi ngày mấy lạng khoai khô, sắn khô, vài lạng gạo, tất cả đều đã hư mốc gần thối rữa nhưng vẫn phải nấu ăn vì nếu không ăn thì có gì khác để ăn ? Nước suối tù uống vào, chỉ ít lâu là sốt rét ngã nước hoặc kiết lỵ, da vàng, bụng ỏng, rồi chết.
Ðó là một cách bọn Cộng Sản tiêu diệt những thành phần chúng cho là thù nghịch của chúng một cách êm ái, không tốn một nhát dao, một viên đạn. Ngoài dân công, bộ đội Việt cộng cũng dùng đường mòn này vào quấy phá miền Nam, sau này chúng đặt tên là đường mòn Hồ chí Minh. Dù sao, bộ đội của chúng cũng được đối xử khá hơn dân công nhiều. Chúng có hoả đầu vụ lo cơm nước, không phải ăn độn ngô, khoai, sắn và có chút thuốc men lúc ốm đau. Nhưng với khí hậu ma thiêng nước độc đó, khoẻ như voi cũng phải ngã. Ðã có cả tiểu đoàn bộ đội chết trong rừng  gần như đồng thời,  còn nếu nói tổng số trước sau thì không biết bao nhiêu mà kể. (Lời người viết: Sau 30-4-75, Cộng Sản cho người đi dò tìm và đã tìm ra những nghĩa địa chôn cả chục ngàn cán binh Việt cộng bỏ thây trên đường mòn này. Hầu hết vô danh. Mới đây, Bảy Vân vợ của Lê Duẩn, trả lời cuộc phỏng vấn của đài BBC, nói rằng chồng chị ta (tức Lê Duẩn) có nói với lãnh đạo Trung quốc rằng... chúng tôi đã hi sinh 10 triệu người…Xin đọc phần Cước chú*).
Thằng em tôi đi biệt tích không về. Khoảng sáu tháng sau, bọn cán bộ xã đến báo cho vợ con nó là nó bị sốt rét ở trong rừng và ngã bệnh mà chết. Cô Bảng sau này viết thư cho tôi nói, số người trong tổng trong làng đi dân công như em tôi đều chết hết, kẻ trước người sau, chỉ có được một người trở về với bệnh sốt rét và đau gan. Một số khác chưa chết vì bệnh thì chết vì máy bay B52 của Mỹ trải thảm hàng ngày. Lính Việt cộng chết vì máy bay B52 nhiều nhất.
Cuộc chiến kinh hoàng xâm lăng miền Nam Việt Nam do bọn đồ tể khát máu Hồ, Duẩn, Đồng, Giáp...gây ra không từ một người dân vô tội nào. Mạng người như con giun, cái kiến, miễn sao đám đầu não của chúng an toàn, leo lên ngôi độc tài cai trị  là được rồi.
Riêng về cái tiểu gia đình của tôi, cô Bảng viết thư khéo léo cho tôi hay rằng ngay đêm đó, chúng phái một tiểu đội công an đến vây nhà tôi và tra vấn vợ con tôi để tìm ra chỗ tôi trốn. Vợ tôi chỉ một mực khai là không biết chồng tôi đi đâu và đi đã ba ngày để đánh lạc hướng chúng. Thanh hoá nhiều rừng, núi và cây cối tre nứa rất rậm rạp, một khi đã vào sâu trong rừng kiếm chỗ hiểm hóc như hang động ẩn mình thì cả một trung đội vào kiếm cũng không ra. Anh Các và tôi là những người đã quen đi rừng rẫy nên tìm đường đi khá dễ.  Thầy Ðiền nhà tu không quen thì cứ bám theo chúng tôi mà đi, cho tới sáng chúng tôi đã cách làng một khoảng khá xa và đã sang địa phận của huyện khác.”
Nói một thôi không nghỉ, cụ Tường có vẻ mệt. Cụ ngả người ra dựa vào sofa nhắm mắt lại. Chúng tôi tôn trọng cụ nên không ai bảo ai mà cùng giữ im lặng. Ðã đến giờ đi ngủ nên mấy đứa con tôi bảo nhau rút êm lên lầu. Nhà tôi thu dọn bếp núc xong cũng đã lên ngồi cạnh tôi nghe từ đầu câu chuyện.
         Khoảng mười phút sau, cụ Tường mở mắt nhìn chúng tôi rồi ngồi thẳng  lên, đầu hơi cúi xuống. Tôi thấy cụ xúc động thật sự khi nói đến những tang thương của gia đình.
Nhà tôi châm thêm nước trà nóng vào tách mỗi người và cụ Tường lại kể tiếp:
         “ Trái với căn nhà của bố tôi, căn nhà của vợ chồng tôi chúng dỡ sạch đi không còn một viên gạch. Chúng để cho vợ và bốn đứa con tôi che một tấm phên trú mưa, đụt nắng trên một phần tư miếng đất, ba phần tư kia chúng chia cho ba gia đình khác mà chúng đã lấy hết tài sản trong những đợt đấu tố. Một trong ba gia đình đó là gia đình ông Thủ Diễm, trước kia có làm việc hàng tổng với tôi một thời gian về điền địa, nhưng sau này đã xin nghỉ. Thủ Diễm bị đưa ra đấu tố và uất ức quá đã lấy thuốc phiện dấm thanh tự tử. Nhà cửa bị tịch biên hết, vợ con Thủ Diễm được cấp phát một phần tư trên miếng đất của vợ chồng tôi. Hai gia đình kia không thấy cô Bảng nói tới.
 Vợ tôi vốn người vùng Ninh Bình. Sau hơn một năm từ ngày tôi trốn đi, vợ tôi bồng bế bốn đứa con đi mất, cho tới nay cũng không tìm ra tung tích. Cô Bảng đoán vợ tôi mang con về nhà bố mẹ đẻ cho có chỗ nhờ cậy nhưng đó chỉ là phỏng đoán. Thời gian chúng ta ở trong Nam, đâu có liên lạc được với miền Bắc nên ai sống, ai chết, ai còn, ai mất chúng ta đâu có hay, cho đến mãi sau ngày 30-4-75, vì vậy vợ tôi và bốn đứa con, hai trai, hai gái biệt vô âm tín. Mấy năm nay, người Việt về thăm quê hương nhiều nên tôi mướn người về quê nhà tôi và khắp nơi tìm kiếm nhưng không có kết quả.
Hệ thống thông tin liên lạc ở Việt Nam, nhất là miền Bắc, trong những năm vừa qua rất nghèo nàn, yếu kém. Ở đâu biết đấy, những tin tức quốc nội, quốc tế, tin nào không có lợi cho Cộng Sản đều bị bưng bít, lừa gạt. Chúng coi dân chúng như những đứa con nít, bảo sao nghe vậy, hay tệ hơn, như một đàn lợn,  đàn trừu mà chúng là những thằng chăn. Bảo sao dân trí không mỗi ngày mỗi ngu đần đi. Bây giờ tôi hoàn toàn thất vọng về việc tìm kiếm nhà tôi và bốn đứa con ở Thanh Hoá. Tôi nghĩ mấy mẹ con đã chết hoặc bị tai nạn gì rồi.”
 Nói đến đây cụ Tường chảy nước mắt. Những giọt lệ phản chiếu ánh đèn lấp lánh trên đôi má nhăn nheo. Cụ lặng lẽ khóc và tôi nghĩ sự đau đớn trong câm lặng đó mới là cùng cực, hơn cả những sự đau đớn được thoát ra bằng tiếng la, tiếng khóc.
Tôi an ủi cụ, tay trao cái hộp giấy Kleenex cho cụ:
         “Thôi cụ ạ, đất nước chúng ta đã quá không may; theo báo chí ngoại quốc, cả thảy trên 10 triệu người Việt cả hai miền Nam Bắc đã bị giết vì tay giặc Hồ, không riêng gia đình nào. Chính cá nhân tôi và cụ cũng đã xuýt chết nhiều lần vì bọn Vẹm, trực tiếp hay gián tiếp. Không một người nào sinh ra ở Việt Nam trong mấy thế hệ ông-cha-con-cháu này từ ngày Hồ tặc thành lập đảng Cộng sản Đông Dương 3-2-1930, nếu có sống đến ngày nay,  mà không từng chịu ảnh hưởng lớn nhỏ, nhiều ít hoặc với người thân v.v...nhiều lần bị đe doạ đến tính mạng bởi cái chủ nghĩa dã man, phi luân, tam vô đó.
Dù sao cụ cũng còn cái may mắn đoàn tụ với cụ bà và năm người con từ Sàigòn. Sau ngày 30-4-75, có hàng trăm ngàn gia đình chết biển, chết sông, chết đường bộ, có nhà không còn một người.”
         “Ðúng, ông Vũ,” Cụ không cãi lại tôi, “Nhưng chẳng thà chết mát mẻ dưới biển, dưới sông chỉ vài giây đồng hồ là xong. Chết thảm như cả gia đình tôi, bố mẹ, vợ con, anh em rồi thân tôi lưu lạc ngậm ngùi mấy chục năm. Gia đình tôi chịu quá nhiều đau khổ!”
Ngồi nghe suốt, anh Chung bây giờ mới bàn vào:
         “Anh Vũ nói đúng đấy cụ. Hơn nửa triệu nông dân đã chết tức tưởi trong các cuộc Cải cách ruộng đất và đấu tố chính trị của Việt Cộng rải rác từ năm 1950. Nhiều nông dân bần cố, nghèo xác nghèo xơ nhưng bị kích lên thành địa chủ cho đủ số lượng được đặt ra, trong đó có nhiều đảng viên Cộng sản đã từng sống chết cho Ðảng. Trường Chinh Ðặng Xuân Khu còn lôi bố mẹ ra đấu tố đến chết thì còn ai mà chúng từ! Chưa từng thấy cái chủ nghĩa nào tàn độc dã man như chủ nghĩa Cộng sản Hồ tặc quàng lên đầu lên cổ dân tộc Việt! Số đồng bào boat people và walk people từ bấy đến nay bị chết, bị mất tích không dưới tám trăm ngàn, theo sự phỏng định của Liên Hiệp Quốc và báo chí ngoại quốc!”
Cụ Tường reo lên, quên mất sự buồn phiền từ vài phút trước:
         “Ðúng. Ông bà Vũ và ông Chung có thể ngờ thằng tá điền nhà bố mẹ tôi tên Cam, lúc đấu bố mẹ tôi, nó và vợ nó đã hành hạ, chửi rủa, vợ nó đứng vén váy đái vào đầu bố tôi, còn nó thì tát mẹ tôi thâm tím mặt mày. Sau đó nó được đề nghị giữ chức trưởng đồn công an xã. Chưa đầy một năm sau, nó bị lôi ra đấu tố, bị ghép là thành phần địa chủ, bị mất chức và đi tù, nhà cửa bị tịch biên. Người ta đồn nó nhục nhã quá tự tử hai lần ở trong tù nhưng không chết (tin từ cô Bảng). Trong làng tôi còn nhiều tên như vậy. Chưa hết, chúng quay ra giết lẫn nhau nữa vì tranh ăn, tranh chức, tranh quyền.
Sau những cuộc đấu tố đảng viên, chúng phẫn uất lắm nhưng vẫn phải tỏ ra trung thành với đảng, với bác,  để may ra có cơ phục hồi địa vị kiếm chút xương xẩu. Thật là một chế độ tàn ác, phi nhân  chưa từng thấy trong lịch sử loài người.”
Tôi tiếp lời cụ Tường:
         “Mấy tuần nay chắc cụ cũng đọc báo và biết bức tường ô nhục Bá linh sụp đổ rồi chứ ? Cộng sản Ðông Âu, kể cả Liên Sô vĩ đại cũng tan rồi. Vợ chồng tên Ciaucescu, chủ tịch nhà nước Lỗ ma ni bị dân chúng giết thảm. Các tượng Lê-nin, Xít- ta- lin bị kéo xuống bán sắt vụn. Trên bảy mươi năm chủ nghĩa Cộng sản vô gia đình, vô tôn giáo, vô tổ quốc làm mưa làm gió, giết hàng trăm triệu dân vô tội, đến bây giờ chúng ngã ngửa ra là một chế độ độc ác, tàn bạo, kéo lùi con người lại thoái hoá, đói nghèo, bị cùm kẹp và lạc hậu.”
Cụ Tường nâng tách nước:
         “Vậy đấy mà không biết những người Cộng Sản ở nước ta có biết điều đó không hay cứ ngoan cố đi theo con đường sai lầm, làm hại cả quốc gia dân tộc?”
          Anh Chung góp thêm câu kết luận:
         “Chúng ta hãy chờ xem, thưa cụ và anh chị Vũ, mặc dầu viễn ảnh không có gì sáng sủa cho lắm. Mãi mãi, chúng ta vững tin như đinh đóng cột rằng: ”Ý dân là ý trời. Dân muốn là trời muốn.” Chính sách đi ngược lòng dân không sớm thì muộn phải bị đào thải.”
         Người con trai đến đón cụ Tường vừa gõ cửa. Chúng tôi đứng lên tiễn cụ ra về vì đã quá khuya. Cái bóng già nua của cụ hiu hắt đổ dài trên mặt đường dưới ánh đèn vàng vọt.
Bút Xuân  TRẦN ÐÌNH NGỌC
* Cước Chú:
Bài sau đây của Dép Râu (trích từ Huyết Hoa):
Lính Việt Cộng chết trong hai cuộc chiến Bắc và Nam.
Nhưng con số thiệt hại về nhân mạng của miền Bắc là bao nhiêu?

Bùi Tín, cựu Đại tá VC, Phó Tổng Biên tập báo Nhân Dân, trong một tác phẩm tuyên truyền hạng bét, văn chương sọt rác, (Mây mù thế kỷ, Hoa xuyên tuyết..) đã viết:

- “Lê Duẫn từng khoe: Tôi gặp ông Mao, tôi nói thẳng rằng Trung Quốc chi viện cho chúng tôi thì chúng tôi thắng Mỹ với những hi sinh thấp hơn, còn như Trung Quốc không chi viện, thì chúng tôi sẽ phải hi sinh thêm 1 đến 2 triệu người, chúng tôi không sợ và cuối cùng chúng tôi vẫn thắng!!!”.

Kinh khiếp thay đồng chí Lê Duẫn, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh. Xem vài triệu mạng sống của đồng bào, đồng chí, bộ đội, thanh niên xung phong... như số lẻ, như mấy xu trong túi quần, có móc ra vấtđicũngkhôngbậntâm.

Nhưng câu nói trên của Lê Duẫn đã bị bóp méo, cắt xén phần quan trọng nhất. Đó là con số nhân mạng “đã” thiệt hại là bao nhiêu triệu?

“Đồng chí” Bảy Vân, vợ Lê Duẫn, trong cuộc phỏng vấn ngày 23 tháng 12 năm 2008, đã trả lời Xuân Hồng, phóng viên đài BBC rằng:

- “Anh Ba (Duẫn) nói với lãnh đạo Trung Quốc rằng”: Chúng tôi đã hi sinh 10 triệu người rồi, nếu Trung Quốc chi viện cho chúng tôi thì chúng tôi thắng Mỹ với những hi sinh thấp hơn, còn như Trung Quốc không chi viện, chúng tôi dù phải hi sinh vài triệu người nữa, chúng tôivẫnthắngMỹ”.

Tôi lại xin lạc đề vài câu nữa. Ông Xuân Hồng đài BBC hỏi bà Bảy Vân, đại ý rằng, có nên tiếp tục “xã hội chủ nghĩa không? Đồng chí BảyVânkínhmếntrảlờirằng:

- “Phải tiếp tục con đường xã hội chủ nghĩa, vì chênh lệch giàu nghèo ngàycànglớn”.

Tại sao ông Xuân Hồng không hỏi tiếp:

- “Thế giai cấp giàu là những người nào? Còn bọn nghèo khổ là những ai?”. Giai cấp giàu là đảng viên (riêng đồng chí Bảy Vân “phải” chui rúc trong “túp lều” giá trên hai triệu đô la Mỹ), còn giai cấp nghèo là lũ dân đen mà các đồng chí đảng viên đang ngồi trên đầu đó!

Như thế, trong chiến tranh chống Mỹ, phải trên mười triệu người dân vô tội miền Bắc Việt Nam đã bị đảng ta đẩy vào Trường Sơn cho B52 dội bom. Một con số khủng khiếp. Lê Duẫn đem số lẻ vài triệu (bổ sung) vào Nam không phải để đánh nhau, mà để cho B52 dội bom, số sống sót mới thực sự đối diện với quân miền Nam mà đánh nhau.

Bạn muốn biết con số đó khủng khiếp đến bực nào thì thử rải mười triệu xác chết lên một nghìn cây số từ Bắc vô Nam, trên đường mòn Hồ Chí Minh (con đường Bác đi là con đườngbiđát). Mỗi cây số có bao nhiêu xác bộ đội nhân dân anh hùng? Mười nghìn xác rải trên 1km. Mỗi mét 10 xác bộ đội. (Bài của Dép Râu – trích Huyết Hoa)
Ngoài ra, đây là một sự đau xót không bút nào tả được. Nước VN không cần chiến tranh với Pháp (1946-1954) vì 3 năm sau, tức 1949, Tổng Thống Pháp Vincent Auriole đã ký Sắc Lệnh trao trả Độc Lập cho nước VN qua tay Quốc trưởng Bảo Đại. Nhiều nước Á-Phi khác như Ấn độ, Phi luật Tân, Indonesia, Bangladesh, Pakistan...theo xu thế chính trị thế giới chấm dứt chế độ thực dân sau Hội nghị Bangdung, cũng được trả Độc lập mà không tốn một giọt máu. Hồ chí minh lúc đó quốc tế chưa biết là ai, không có thế giá như vua Bảo Đại, Hồ sợ hỏng giò hỏng cẳng nên phải tuyên bố chiến tranh sớm (26-12-1946) hơn nữa theo đúng sách vở của Lenin, mà Hồ là một người học trò ngoan, trung thành, là chiến tranh đẻ ra “cách mạng”, “cách mạng” đẻ ra đấu tranh giai cấp, đấu tranh giai cấp để tiến tới chủ nghĩa Cộng sản toàn trị, quyền hành, của cải, mọi thứ gom về một tay chóp bu CS.
Hơn 10 triệu cái chết của đồng bào quá oan ức và vô bổ, đến ngày nay
Hà Nội dâng nước cho kẻ thù truyền kiếp! Không dân tộc nào trên hành tinh này bất hạnh như dân tộc ta!
Chúng ta thấy các nước Á châu Thái bình dương không phải chiến tranh mà giành được độc lập, tự chủ:
- Malaysia không phải đánh nhau, Anh trả độc lập năm 1957.
-       Phi (Mỹ) 1946; Syria và Liban (Pháp) 1946
-       Ấn, Pakistan (Anh) 1947
-       Miến (Myanmar) , Sri Lanka, Palestine đều thuộc Anh (1948).
-       Indonesia (Hà lan) 1949
-       Thái lan không là thuộc địa
-       Nhiều nước ở châu Phi, Mỹ latinh cũng đều như vậy.
Tóm lại, vì Hồ xung phong làm tên xung kích cho CS quốc tế, hiếu chiến vì coi rẻ sinh mạng đồng bào miễn là được lòng quan thầy Nga-Tàu nên nước VN đã tan nát như ngày nay với trên 10 triệu người VN nằm xuống cho tham vọng của Hồ và đế quốc CS. Người VN, những gia đình có người chết oan, và cả toàn dân nguyền rủa Hồ tặc và bọn Việt gian thủ hạ đời đời kiếp kiếp! Hồ và bọn thủ hạ Việt gian sẽ phải đền tội trước toà án quốc tế và mang tiếng xấu muôn đời:”Trăm năm bia đá cũng mòn, Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ!(Ca dao)
    Thưa bạn đọc,
    Dù là một người CS cuồng tín, sau khi đọc những dòng trên, tôi dám chắc không một ai còn nghĩ rằng Hồ và bọn thủ hạ tôi tớ cho Hồ là vô tội với đất nước Việt Nam. Chẳng những vậy, tội ác của Hồ và bọn chúng không thể lấy bản án nào mà hài tội cho cân xứng dù xử giảo như Saddam Hussein, dù bị chặt đầu như tên tướng em cùng mẹ khác cha với Hussein. Tội diệt chủng của Hồ và bọn Đồng, Chinh, Duẩn, Giáp, Kiệt, Triết, Dũng, Mạnh, Trọng, Quát... đã cao ngất tới trời xanh khiến những cái chết của chúng cũng không đủ xóa tội. Cả nước VN hiện nay, bỏ ngoài sự nghèo đói, lạc hậu, túng thiếu, con người đã u mê, mất hết tính người vì quá lâu bị chúng nhồi sọ, đến giới trí thức, có học cũng trở nên đui mù, 700 báo đài giống như không có. Văn nô, thi nô, báo nô tranh nhau liếm trôn lãnh đạo để kiếm vài lạng thịt lợn...Tình trạng tinh thần này không biết cả thế kỷ sau khi dẹp xong đảng ác, con người VN có trở lại được nếp sống tinh thần trong sáng như xưa không, hãy cứ nói như thời Pháp thuộc? Đó chính là mối lo gan ruột của những nguời còn nghĩ đến tiền đồ dân tộc.
    Vậy mà ngày 11-1-07, đài BBC loan tin rằng ở trong nước, đảng CSVN vừa đưa ra chỉ thị số 06/CT/TW tổ chức vận động dân chúng “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ chí Minh” nhắm làm cho toàn dân nắm vững “nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ chí Minh”. Cuộc vận động sẽ khởi diễn từ ngày 3-2-07 (kỉ niệm ngày thành lập đảng CS Đông Dương) và tổng kết vào ngày 3-2-2011. 
Bút Xuân Trần Công Tử liền có thơ gửi chị Bảy Vân, vợ đồ tể Lê Duẩn, Cựu Tổng Bí thư đảng Việt gian Cộng sản như sau:
Gửi chị Bảy Vân 
Chị Bảy Vân! Chị quen cái thóiBắt nạt người, ức hiếp dân lànhVợ chồng chị thứ gian manhYêu tinh chế độ, nhe nanh thịt người!Xưa Duẩn  vốn một thằng vô họcTheo giặc Hồ luồn lọt chui lênDuẩn cùng một lũ kên kênNhảy quanh xác chết, miệng luôn  reo hò!Ngày 30 tháng Tư quốc hậnDuẩn lúc cười lúc khóc mừng vui!