Theo thông lệ cứ
đến tháng 8, thế nào cũng có người nhắc tôi ghi lại những gì mà tôi đã chứng kiến
và cảm nhận về cái hào khí của cái thuở mặc áo nâu dung dị vào hơn 30 năm về trước,
cái thuở mà tôi đã hăng say “nhập giòng tranh đấu” với biết bao người bạn cùng chung
lý tưởng chỉ với ước mơ duy nhất: góp một phần sức lực nhỏ bé của mình vào việc
giành lại những gì mà dân ta bị cướp mất. Thời đó, sự tự nguyện đã đến với tôi rất
chân thành và tự nhiên như có lời nào đó đang réo gọi.
Hơn 30 năm sau
nhìn lại, vật cũng đã đổi và sao cũng đã dời, sự thể vẫn xoay quanh ….. chữ “vẫn”,
bên ngoài “vẫn” chưa thấy gì là sáng sủa, bên trong “vẫn” chìm đắm trong vũng lầy
tuyệt vọng.
Nghĩ lại thấy buồn! trong số những bạn hữu năm xưa có người mồ đã xanh
cỏ tại một nơi nào đó của rừng núi quê hương, có người đã bỏ cuộc, có người cũng
còn cố gắng đi tới bên cạnh cuộc sống tầm thường vất vả, có người chọn cách làm
khác nhưng cùng hướng tới cùng mục tiêu, nhưng cũng có người dù đã quá tuổi thất
tuần, vẫn tin vào lẽ tất thắng của dân tộc, kiên trì tiến bước dù yếu tố “thiên
thời địa lợi” không còn được như xưa, tôi cúi đầu ngưỡng mộ và chân thành cầu
chúc tất cả sẽ mãi mãi chân cứng đá mềm.
Tháng 8 năm nay
trong lúc đang loay hoay tìm “cảm hứng”, tôi tìm đọc lại những bài xưa cũ thì thấy
có một bài viết nói về câu chuyện giữa 2 người bạn, một người trở về và một người
ở lại. Trong câu chuyện có gợi lại một chút chuyện xưa lúc cả 2 còn mang áo trận.
Dù không trao đổi nhiều nhưng họ đã hiểu ý của nhau, cả 2 đã hẹn để cùng nhau thưởng
thức trà, để đọc lại một câu thơ vào lần ngắm trăng tới tại giữa sân vua Đại Nội.
Xin mời quí vị theo dõi bài viết tuy cũ nhưng vẫn còn mới vì ước mơ của tôi và
rất nhiều người khác vẫn chưa trở thành hiện thực và riêng tôi vẫn thắp nén hương
tưởng niệm những anh hùng đã hy sinh vì tổ quốc mỗi khi tháng 8 trở về.
Vũ
Đăng Khuê
Ngô đồng nhất diệp
Thiên hạ cộng
tri thu.
Câu
thơ ở đâu, do một liên tưởng nào đó bỗng chợt hiện ra bất ngờ. Thiên hạ cộng tri thu. Cả thiên hạ ai
cũng biết là mùa thu. Bây giờ đang là mùa hè nhưng buổi tối mát và nhiều gió.
Hơi ấm từ bãi cỏ sau vườn được tưới kỹ như giúp thêm cái mát dịu dàng của một
miền gần biển. Trời đã tối từ lâu và hai người khách đã kiếu từ. Bát đũa đã được
thu vén gọn ghẽ. Tôi được nói khẽ:
-
Ông ở lại chơi với tôi một chút hãy về.
Và
tôi rút ra sau vườn ngồi trên chiếc ghế xếp. Bữa ăn đơn giản mộc mạc. Người nữ
chủ nhân đã kín đáo để mâm cơm thêm thịnh soạn bằng đĩa chả chiên chắc mua ở
đâu đó trong tiệm Việt Nam. Chả không ngon, nhiều bột nhưng canh rau cải đắng
thì tuyệt vời. Thịt kho ăn với dưa giá muối khéo, vừa đủ chua nhưng cọng giá vẫn
còn dòn, không bị ủng. Tôi thoải mái sau bữa ăn vừa phải.
Cuộc
gặp gỡ đã bắt đầu từ trưa kéo mãi tới lúc sắp ăn cơm mới coi như xong. Hai người
khách kia phải về nhà vì quá xa. Bốn trăm dặm đường không thể là một quãng đường
gần. Nhưng có những quãng đường hơn thế nữa mà bạn tôi đã vượt qua. Tôi ngồi trầm
ngâm ngắm trời. Mọi sự trong vắt thanh khiết. Màn đêm không ép nổi vẻ trong
sáng của một đêm hè mát. Nơi ấy bây giờ ra sao? Mùa này nóng, cái nóng cháy da
cháy thịt làm xạm người, làm súc vật cũng lờ đờ. Tôi nhớ đoạn đường từ Mỹ Chánh
ra tới Quảng Trị mùa hè năm đó. Xác người và gió Hạ Lào trộn thêm vào với những
ngọn phi lao không lớn nổi những đụn cát chói chan và những khuôn mặt hốc hác của
người dân đã làm tôi điên lên nhiều lần. Tôi đá vào thành xe M113 khi người dân
quê chui từ một xó nào đó ra run rẩy gọi tôi là “Thầy” xưng “Con”, xin nước,
xin cơm, xin được thoát khỏi hỏa ngục. Tôi đã mất ngủ vì trông thấy những con
gà lạc chủ đứng bươi xác người khô đét. Tôi đã không nuốt nổi cơm khi nhìn thấy
con chó cúp đuôi, lưỡi thè ra thở phì phò trong cái nóng nung người. Ôi cái mùa
hè dù đã lui vào dĩ vãng mà mổi lần nhớ đến là máu lại sôi lên vì giận dữ.
Người
bạn từ trong nhà đi ra mang theo một cái bàn nhỏ.
-
Tôi mời ông uống trà. Có người cho một lọ
thiết quan âm từ ba năm rồi. Tôi vắng nhà nên bà vợ vẫn cất ở một xó. Thiết
quan âm của lục địa, có hậu lắm.
Tôi
ngồi quay lại nhìn bạn:
-
Tôi biết gì về trà đâu, toàn là uống như
trâu. Hồi xưa ông vẫn chê tôi là thiếu phong nhã, không biết thưởng trà.
-
Nghiện thì không nên nhưng nếu biết uống
trà thì cũng là một cái thú đáng ca ngợi. Có điều cái gì cũng đừng thái quá.
Nghe bà vợ tôi kể có mấy ông ở đây lên tận San Francisco cất trà 120 đồng một
pound. Tại sao họ có thể phung phí như thế trong khi tụi tôi hà tiện chắt bóp từng
xu.
-
Nhớ cái hồi uống trà với ông ở sân Đại Nội.
Mười năm rồi.
-
Hơn chứ. Gần mười hai năm rồi.
Tôi
im lặng nhìn bạn nhẹ nhàng vén khéo bộ đồ trà xinh xắn ra. Cái hôm ở Đại Nội,
trăng sáng như gương. Cung điện vua chúa triều Nguyễn hoang tàn đổ nát im lìm
chìm trong cái thanh vắng của đêm trung thu nguyệt bạch. Dạo đó đơn vị hậu cần
của tôi đóng ở Mang Cá và quản trị an ninh luôn khu Đại Nội. Bạn tôi ở binh chủng
khác tiến theo phía núi bên trái quốc lộ trong khi tụi tôi đánh dọc theo bờ biển
ngược lên phía Bắc Mỹ Chánh Trường Phước La Vang Triệu Phong.
Trưa
hôm Trung Thu tôi ngồi ăn cơm mắm tôm chua ở quán 76 thì bạn tôi bước vào. Súng
đạn mịt mù, và dù cùng một cái đích là Quảng Trị, tôi biết bạn tôi còn đang bị
ghìm cứng ở La Vang. Tay bắt mặt mừng, hò la inh ỏi trong cái quán toàn là lính
ngồi ăn, súng ống mũ sắt ba lô ngổn ngang. Bạn tôi về Huế họp tham mưu. Trước
khi đứng dậy bạn tôi có nói có trà, bánh đậu xanh và bánh dẻo của bà vợ mới cưới
gửi ra, nếu muốn thì đến bộ chỉ huy uống trà. Tôi cười ngất. Giữa cái nóng khủng
khiếp của miền Trung và trong cái không khí này mà uống trà thì thật tréo cẳng
ngỗng. Tôi đồng ý và đề nghị lại thay vì đến với bạn tôi, tôi sẽ đón vào sân
vua uống trà thưởng trăng.
Đêm
hôm đó hai đứa ngồi giữa sân chầu uống Thiết Quan Âm đun bằng ca nhôm. Nếu các
vị vua nhà Nguyễn có luyến tiếc ngai vàng lẩn quất đâu đó trong cái hoang tàn đổ
nát của Đại Nội ắt cũng sẽ tha thứ cho hai tên lính giầy saut áo trận ngất ngưởng
ngồi trên thùng đại liên uống trà ăn bánh đậu xanh Hải Dương nhìn trăng thu.
-
Ông nghĩ gì vậy? Sao có vẻ đăm chiêu?
-
Hà, nhớ lại tuần uống trà với ông ở Đại
Nội, Huế.
Hôm
nay không phải là thu. Trời cũng không có trăng và nơi đây cũng không có tro
tàn điện ngọc, Ngọ Môn, Tịnh Tâm. Thoáng từ đâu đó từ tâm thức, tôi nghe vẳng
giọng hò:
“Cầu
Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp
Thương
nhau rồi hãy kíp về mau
Nữa
mai đây bóng xé qua cầu
Bậu
còn thương, bậu biết gửi sầu về nơi mô”
Thương nhau rồi
hãy kíp về mau. Nhiều người đã về. Bạn tôi cũng đã về và trở ra.
Ngày mai bạn tôi lại trở về sau khi hoàn tất việc làm ở đây. Tôi ngồi thoải
mái, nhắm từng ngụm nhỏ nước trà Tàu đặc vị chát nhưng khi thấm vào để lại dư vị
ngọt mát lan dần từ cuống họng tới khắp châu thân. Bạn tôi ngồi đó, bàn tay to
lớn quả cảm xòe rộng đặt trên đùi. Tôi muốn nói một điều gì. Tôi thực sự muốn
được góp với bạn tôi một chút, dù chỉ của một cái gì to lớn, mênh mang mà bạn
tôi đang suy nghĩ.
-
Ngày mai, ông đi mấy giờ?
-
Ba giờ chiều.
Tại
sao cái câu hỏi đó lại bật ra. Tôi biết từ cả tuần ba giờ chiều mai bạn tôi sẽ
ra đi. Chúng tôi không còn gì để nói với nhau nữa. Đêm vẫn giữ êm mầu, êm tĩnh
và trong sáng. Trà Tàu làm tôi tỉnh táo, nhưng đầu óc tôi trống rỗng, đầu óc
tôi tê liệt. Tôi muốn nói cả triệu lần, muốn thao thao bất tuyệt, hùng hổ như ở
Khe Sanh hai đứa bất ngờ cùng chờ một chuyến trực thăng. Hay ít ra tôi có thể
chửi thề văng tục như ngày hai đứa tả tơi nhìn nhau ở Guam. Nhưng tôi bất động.
Cái bạn tôi làm lớn quá, thiêng liêng quá. Không có ngôn từ để diễn tả. Bất chợt
tôi nói:
-
Chẳng biết nói gì với ông.
Bạn
tôi cười:
-
Cần gì. Ông là đứa mồm loa mép giải, lúc
nào cũng ruột để ngoài da, vậy mà hôm nay ông không nói mới là quí. Vả lại có
gì cũng đã nói hết rồi. Tôi tin những gì mình đã thảo luận, ông sẽ làm chu đáo.
Với ông, thế là đủ. Mỗi người có cách nào đó để góp tay vào việc này. Tôi với
ông còn quá anh em ruột. Vậy đừng áy náy. Làm một tuần trà nữa nghe.
Ly
trà nhỏ trắng ngần, nước trà trong mầu hổ phách, hương trà thoảng trong đêm. Câu
thơ lại trở lại. Cả thiên hạ ai cũng biết
đã vào thu. Trong cái tĩnh mênh mang với bạn, tôi chợt hiểu câu thơ một
cách rõ ràng. Ngô đồng nhất diệp lạc. Chỉ
có một lá cây ngô đồng rụng xuống. Cả thiên hạ đều hiểu mùa thu đã bắt đầu thay
thế cho mùa hè nóng nực. Vũ trụ tuần hoàn và khi một chiếc lá ngô đồng rụng thì
không thể có trở lực nào kéo dài mùa hè và không ai có thể cản mùa thu. Lịch sử
đã xoay vần. Khi bạn tôi đã về, khi các bạn tôi đã về, bánh xe lịch sử đã quay.
Tôi và tất cả những người Việt Nam khác – hay cả thiên hạ - biết rằng chúng tôi
sẽ cùng về. Mùa thu thay chỗ cho mùa hè. Tình người sẽ thay cho hận thù.
Tiễn
bạn không có ba ngàn tân khách chít khăn sô bên bờ sông Dịch. Chỉ có những tách
trà đắng ngọt và sự im vắng vô cùng của một đêm hè nơi sân sau nhà. Tiễn bạn
không cần bản đồ Hàm Dương, thủ cấp Ô Kỳ. Chỉ có một lời thề đã được hô lớn khắp
năm châu bốn biển và lúc nào cũng vang vọng trong tâm kể cả lúc ăn lúc ngủ. Bạn
tôi đi không có gươm báu, không vì cảm cái tình của Thái tử Đan, cũng không nấn
nà chờ Cao Tiệm Ly. Bạn tôi đi vì bạn tôi phải đi, giống như chiếc lá ngô đồng
báo thu, đi để xoay lại lịch sử chứ không vì “một lưỡi dao bay muôn thuở đẹp”.
Đêm vẫn vô cùng và bạn tôi vẫn im lặng, ung dung chuyên trà ra những chiếc chén
hạt mít. Liệu Kinh Kha có được như vậy chăng hay phải có rượu nóng dê béo, đàn
ngọt hát hay mới đi sang Tần. Kinh Kha đi nhưng biết là mình thất bại. Bạn tôi
khác. Bạn tôi đi và biết mình sẽ thành công.
-
Ông nghĩ gì vậy?
-
Một câu thơ. Tự nhiên tôi nhớ một câu
thơ. Nhưng thôi, để tôi sẽ đọc câu thơ vào lần thưởng trăng tới ở Đại Nội.
Phạm
Hoàng
Tháng
8/1983.