Xin chuyển quý vị, quý bạn bài viết về Elizabeth Phạm đã mất tích ngày 10/10, được tìm thấy xác ngày 27/10 trên sông Cowlitz, Centralia, WA, và an táng ngày 5/11, tại Portland, cạnh mộ cha mẹ chồng, theo lời ước nguyện của chị khi còn sống. Chị tạ thế lúc mới 33 tuổi.
Elizabeth là một mỹ nhân Mỹ, nhưng có trái tim dịu hiền rất Việt Nam.
Elizabeth Anne Thompson Phạm
(October 7, 1982 – October 27, 2015)
trong chiếc áo dài truyền thống VN với khăn
quàng thêu hình cờ Vàng
1. Tôi không bao giờ ngờ rằng bài văn tế
bằng chữ Hán, dưới đây, của một trạng nguyên Việt Nam, Mạc Đĩnh Chi, khóc một
công chúa Tàu, nhân dịp cụ đi sứ sang Trung Hoa, cách nay bảy thế kỷ, lại có
ngày trở về trong trí nhớ,
Thanh thiên nhất đóa
vân,
Hồng lô nhất điểm tuyết,
Thượng uyển nhất chi
hoa,
Dao trì nhất phiến
nguyệt,
Y! Vân tán, tuyết
tiêu,
Hoa tàn, nguyệt khuyết.
để
cho lòng tôi hôm nay khóc một giai nhân, “công chúa” Mỹ, da trắng, tóc vàng, mắt
xanh, Elizabeth Anne Thompson Phạm, vợ của người bạn chúng tôi, nha sĩ John Phạm
Anh Bình. Y! Vân tán, tuyết tiêu / Hoa
tàn, nguyệt khuyết, còn gì nữa đâu, hỡi ơi! Liz –tên thân mật của chị– đã đột ngột, tức tưởi vĩnh biệt cuộc đời, giữa
tuổi thanh xuân, dạt dào sức sống.
a) Liz đẹp cả người lẫn nết, mai cốt cách tuyết tinh thần, như hai chị em mỹ nhân nhà họ Vương của thi hào Nguyễn Du. Ai cũng công nhận. Dù chỉ gặp chị một hay vài lần, như hai người bạn thân quý của tôi, cũng đã lần lượt ra đi trước chị chưa đầy một tháng: Paul Dương Xuân Kính và Linh mục Thomas Đặng Kim Hoàng. Liz hiền thục, lịch sự, hiếu khách, niềm nở, mà lại tự nhiên, chân tình. Giống như một phụ nữ Việt
b) Nha sĩ
Bình yêu thương chị thật lòng, và đáp lại, chị lúc nào cũng
lo
lắng, chăm sóc anh và ba con từng chút. Điều đó, không bạn bè nào phủ nhận. Một
lần ăn tối tại tệ xá, sau khi nhắp một hớp rượu nhỏ, chị mệt, và lẳng lặng ra nằm
duỗi chân trên sofa, lim dim mắt, đám
bạn thấy Bình đến bên, âu yếm hỏi nhỏ vợ: “Hon,
how do you feel?”, rồi vuốt lên má,
và hôn nhẹ lên môi, như vỗ về, trìu mến. Một lần, anh hãnh diện kể cho một mình
tôi, và lần khác cho cả bàn tiệc, nghe về buổi gặp gỡ ban đầu, ly kỳ như tiểu
thuyết, giữa hai người, khác với những lời đồn đải, đôi khi ác ý, về cuộc hôn
nhân dị chủng hi hữu này. Sau khi nghe câu chuyện của anh, chúng tôi tin rằng họ
đã gặp nhau, lấy nhau vì tình yêu, và duyên số. Không bởi lý do nào khác. Danh
phận, bạc tiền, nhà cửa, tiện nghi… không quan trọng đối với người thiếu phụ Mỹ
có mái tóc vàng óng ả, dáng vẻ tuyệt đẹp, và tâm hồn dịu hiền rất Việt Nam –mà một trăm năm nữa, chúng tôi nói với
nhau, cũng không dễ tìm được. Dù là vợ một nha sĩ, chị vẫn ăn mặc giản dị, vẫn mang
cái xắc loại thường, vẫn không mướn người làm, để tự tay chăm sóc con cái, nhà
cửa, vẫn làm việc trong clinic của chồng.
Mười lăm năm chung sống và ba mặt con (đứa nhỏ nhất mới được bảy tháng) đủ để
minh chứng chuyện của một tình yêu đích thực, qua nhiều thử thách. Giống như chuyện
của bất cứ tình yêu đích thực nào, bất diệt
và tầm thường, mang đến mỗi ngày tất cả hạnh
phúc và thương đau, với lúc bên
nhau vai kề vai và lúc nói lời vĩnh biệt, với những đêm âu lo và những sáng tuyệt vời, như qua lời hát của Dalida, một hồng nhan bạc mệnh
khác, trong bài “Histoire d’un amour” bất hủ:
C'est l'histoire d'un amour éternel et banal
Qui apporte chaque jour tout le bien tout le mal
Avec l'heure où l'on s'enlace, celle où l'on se dit adieu
Avec les soirées d'angoisse et les matins merveilleux
Qui apporte chaque jour tout le bien tout le mal
Avec l'heure où l'on s'enlace, celle où l'on se dit adieu
Avec les soirées d'angoisse et les matins merveilleux
Sau câu chuyện kể
về mối tình đầy thơ mộng của hai người, trong một buổi tiếp tân tại nhà anh, cách
đây gần một năm, có đông khách dự, tình cờ tôi đứng cạnh Liz, và bất ngờ chị quay
sang hỏi tôi có biết chuyện tình lãng mạn nào trong văn chương thế giới không,
để kể cho chị nghe. Tôi hơi ngạc nhiên, nhưng vẫn điểm nhanh trong
trí nhớ những chuyện tình kim cổ nổi tiếng. Nhiều lắm, mà không hiểu sao, tôi dừng
lại với thiên anh hùng ca The Aeneid,
ít phổ quát, của thi hào La tinh
Virgil. Trong đó có đoạn kể về Aeneas, hoàng tử và anh hùng bại trận thành Troy,
vượt biên, tắp vào một hòn đảo, gặp Dido, nữ hoàng Carthage, và hai người yêu
nhau say đắm. Rồi
Aeneas, theo lệnh của mẹ, là nữ thần Venus, tìm cách bỏ trốn Dido, để tiếp tục cuộc
hành trình đến Cumae, rồi sông Tiber, và sau đó lập nên thành Rome. Tuyệt vọng,
Dido than khóc, rút kiếm tự đâm vào ngực. Về sau, Aeneas, với sự trợ giúp của nàng
Sibyl of Cumae, tên Deiphobe, vượt được sông Styx, xuống âm phủ tìm cha, đang
trú ngụ tại Elysium –nơi ở của những anh hùng và người công chính. Kế bên Elysium là The Mourning Fields (Lugentes Campi), Những
Cánh Đồng Nước Mắt, bao la, dành riêng cho những mỹ nhân đã chết vì tình, và tại
đây chàng tình cờ gặp lại Dido, nay chỉ còn là hình bóng nhạt nhòa, đang rảo bước
vô một khu rừng bát ngát. Tới đoạn này, thấy hơi mệt, tôi ngừng kể, hẹn Liz một
dịp khác. Và dịp đó, không bao giờ còn nữa... Chị nghe xong, tấm tắc khen: “It’s very interesting. I like it. Thank you, anh Kuy!”.
2. Tối thứ ba
27/10, nhận được tin cảnh sát đã tìm thấy xác chị trên sông Cowlitz ,
cả gia đình tôi bàng hoàng. Sững sờ. Như vậy, một chút hy vọng nhỏ nhoi cuối cùng
cũng tiêu tan. Loan, vợ tôi, người vẫn tin rằng Liz đang tá túc đâu đó, sẽ trở
về bình an, đã bật khóc, và thút thít kể: “Hèn
chi lần cuối cùng mình ăn tại nhà anh chị, cách đó hai tuần, khi về, Liz đã tiễn
em ra tận ngoài sân, ôm hug em đến bốn, năm lần, thật lâu, khác với thường lệ.
Đó là điềm báo rõ ràng, mà em đâu có hay.” Trong khi hai con tôi, Marie-Joséphine
và Xavier (bạn với Keatan, con trai của anh chị), mặt buồn hiu, mắt đỏ hoe, ngưng
cãi nhau, và ngồi thức với tôi cho đến một giờ sáng để nói về những kỷ niệm với
“cô Liz”, rồi cuối cùng chấm dứt bằng câu, “we
miss her so much!”. Buồn đau, như khi được biết chị mất tích, cách đó ba tuần,
ngày nào tôi cũng dán mắt vào màn ảnh TV để chờ tin mới. Phu nhân của những người
bạn khác, như chị Bình, chị Dương, chị Trường, cũng
chan chứa lệ rơi.
Tôi
còn nhớ những bữa ăn cuối tuần tại nhà anh chị, hoặc tại nhà tôi, có đông bạn bè.
Là gia chủ, lúc nào chị cũng được trông thấy trong bếp, bận bịu nấu nướng và chăm
lo mọi thứ cho khách, kể cả rót thêm nước, thêm rượu, mời thay cho ông chồng đang
thao thao bất tuyệt về đề tài chính trị hay thời sự. Tại nhà tôi, vừa bước vào,
chị đã đi thẳng tới bếp, hoặc giúp Loan sửa soạn bữa ăn, hoặc giành rửa chén. Loan
luôn can ngăn, nói (tạm dịch): “Mình đã
làm xong hết rồi. Còn việc rửa chén, đó là job của anh Quý, my husband, you
know. Thôi, Liz ra bàn ngồi nghỉ cho khoẻ, please.” Trong bữa ăn, ở đâu, chúng
tôi cũng có thói quen xài tiếng Việt, để dễ bề tranh luận về chính trị, có khi rất
sôi nổi, và vì lâu lâu mới gặp lại nên thèm nói tiếng mẹ đẻ, cho hả, nhất là Bình
–suốt tuần phải tiếp toàn
bệnh nhân Mỹ. Liz cũng phải nghe, không hiểu, nhưng vẫn gật gù, tươi cười. Khi
còn cô nha sĩ Mai, dân Canada ,
qua hành nghề trong clinic của Bình,
tôi luôn xếp Mai ngồi cạnh Liz, để làm thông dịch viên thường trực. Lúc Mai về
lại Canada ,
thỉnh thoảng tôi nhắc chị Bình, hay chị Dương, hay chị Trường, ngồi gần, dịch
cho Liz. Tôi không muốn Liz cảm thấy lạc lõng trong một rừng tiếng Việt, mặc dù
có lần chị đã ghi danh theo học Việt ngữ tại trường Văn Lang. Nay chị mất rồi,
nhớ lại vẻ mặt ngơ ngác của chị khi không hiểu tại sao thỉnh thoảng chúng tôi
cười ầm lên, hoặc lớn tiếng, tôi rất ân hận, nghĩ rằng đúng ra, chúng tôi phải dùng
Anh ngữ lúc có chị, cho phải phép.
Lấy
chồng Việt Nam có tính thần quốc gia chống Cộng, như nha sĩ Bình, Liz cùng anh đến
tham gia những buổi lễ quan trọng của Cộng đồng Oregon, mỗi cuối tuần từ
Chehalis xuống Portland. Và trong những dịp ấy, chị mặc chiếc áo dài phụ nữ Việt
Nam
kiêu sa, quấn trên cổ một dây choàng thêu hình cờ Vàng. Có khi được mời lên phát
biểu cảm tưởng, chị không quên ca tụng “đồng hương” hải ngoại và nói chị thích
nghe những bài hát Việt Nam .
Khiến tập thể người Việt Tỵ Nạn quốc gia chống Cộng càng quý mến chị hơn. Quả vậy,
Chúa Nhật 25/10, trong dịp Bình tổ chức lễ cầu nguyện cho chị tại tư gia, hai cô
Vương Ngọc Lan và Mary Nguyễn, đại diện Ban Chấp Hành Cộng đồng Oregon, cũng đến
tham dự.
3. Tất cả dường
như hứa hẹn cho Liz một hiện tại đầy hạnh phúc và một tương lai đằm thắm với chồng,
với con. Mặc dù, tôi biết, hạnh phúc thật không có trên cõi đời, bởi vì choáng
ngợp trước ảo ảnh lừa phỉnh, có mấy ai còn để ý, nâng niu hạnh phúc bên mình, cho
đến lúc tất cả vuột khỏi tầm tay, biến mất? Tất cả hứa hẹn cho Bình và Liz một đời
bình an, thương yêu, gắn bó bên nhau. Nhưng vì đâu phải ra nông nỗi này, hả Trời?
Vì sao, vì sao, vì sao, Chúa ơi? Cơn mê, hay cơn muộn phiền, nào đã khiến buổi sáng
10/10 ấy chị lặng lẽ bỏ nhà ra đi, không một lời vĩnh biệt, trong bộ đồ ngủ, chân
không giày? Nỗi tuyệt vọng ghê gớm nào đã bắt chị ngồi ngắm thật lâu dòng sông Cowlitz –dòng sông
mà sau đó đã cuốn trôi thân xác chị đi biền biệt, để cho “Oan kia theo mãi với tình / Một mình mình biết một mình mình hay” (Kiều)?
Than
ôi! Vì sao cùng buổi sáng đó, cùng giờ phút
đó, anh Bội và tôi
lên
Seattle tham dự cuộc “Hội thảo về đại thi hào Nguyễn Du và Truyện Kiều”, cũng chạy
ngang qua exit 57, nơi mà chị đã bỏ xe lại, nhưng ngược đường, không thấy gì hết,
không biết chi cả? Vì sao, chị không gặp được một
người thân quen nào, và những cư dân Mỹ xa lạ quanh khu phố đã gặp chị, trong
trạng thái bất thường, vô hồn, mà không ai gọi báo cảnh sát? Vì sao phép lạ đã
không xảy ra để có ai đó chận lũ “ma đưa
lối quỷ đưa đường / Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi” (Kiều), giùm cho
chị?
Phải
chăng, tất cả đó là Định Mệnh? Định Mệnh, ôi! Giờ này tôi chỉ còn biết trách Định
Mệnh nghiệt ngã đã bắt chị đầu hàng, bất lực, nằm xuống trong cô đơn, thê thiết.
Định Mệnh nghiệt ngã của những vở bi kịch Hy Lạp nhuốm màu huyền thoại cổ xưa,
mà nạn nhân khốn khổ, bất hạnh, tiêu biểu nhất vẫn là Antigone, con vua Oedipe –người đã vô tình giết cha và cưới mẹ mình.
Antigone, hay Dalida, hay Elizabeth, hay Ngô Đình Lệ Thủy, hay Ngô Đình Lệ Quyên,
hay bất cứ mỹ nhân mệnh yểu nào, không có tội tình gì, ngoại trừ một tội là đã trẻ
đẹp và đức hạnh, và bởi thế cứ bị Định Mệnh đeo đuổi mãi, không buông tha. Cũng
như, lãng mạn hơn, Thúy Kiều bị “trời
xanh quen thói má hồng đánh ghen”.
4. Bây giờ,
khi Liz không còn nữa, tôi mới chợt hiểu tại sao chị thích câu chuyện tình mà tôi
đã bất ngờ kể cho chị nghe một lần, như tự tiềm thức, về nàng Dido trong tác phẩm
của Virgil. Có lẽ chị bị quyến rũ bởi The
Mourning Fields, Những Cánh Đồng Nước Mắt, dưới địa
phủ,
nơi mà những linh hồn mỹ nhân chết vì tình trú ngụ trước khi được đưa về
Cõi Vĩnh Hằng. Nơi có những vạt cỏ myrtle
xanh tận chân trời, những hàng bạch dương soi bóng bên dòng nước, những đám mây
trắng lững lờ, và không gian thinh lặng cho ngày tháng muộn phiền khôn nguôi. Tôi
tin rằng Liz trên dương thế đã sống trọn vẹn tình yêu cho chồng, cho con, và
khi lìa đời đã mang theo trọn vẹn tình yêu ấy xuống tuyền đài, tức Những Cánh Đồng
Nước Mắt.
Thôi,
chị Liz ơi! Thôi hết rồi những ưu tư, phiền muộn. Thôi hết rồi những cơn mê, cơn
đau Thôi hết rồi những tuyệt vọng ê chề. Hãy trả lại hết khổ lụy, hay hạnh phúc,
cho đời. Chị đã được giải thoát, và cứu rỗi rồi. Tại bất cứ nơi đâu, trong Những
Cánh Đồng Nước Mắt của Virgil hay trên Thiên Đàng rực rỡ, hãy ru giấc mộng lành
ngàn năm, bình an, thảnh thơi, trong vòng tay rộng mở của Thiên Chúa nhân từ,
luôn luôn yêu thương, luôn luôn tha thứ. Khác với Định Mệnh nghiệt ngã của những
vở bi kịch Hy Lạp nhuốm màu huyền thoại cổ xưa.
Ngày Lễ Các Linh Hồn
Kim Thanh Nguyễn Kim Quý