Thursday, 10 March 2016
Cuộc trò chuyện cuối cùng với GS Nguyễn Ngọc Bích - Từ Thức: Gs Nguyễn Ngọc Bích từ trần, một thư viện vừa cháy
Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, vị Giám Đốc đầu tiên và đáng kính của Ban Việt Ngữ Đài Á Châu Tự Do RFA vừa từ trần, khi đang trên đường từ Washington DC đến Manila tham dự một cuộc hội thảo về Biển Đông, hưởng thọ 79 tuổi. Sau đây là cuộc trò chuyện cuối cùng của Ông với chúng tôi, chia sẻ về những tâm tình từ lúc còn là một thanh niên sinh viên đi du học, cho đến sau này.
Từ Thức: Gs Nguyễn Ngọc Bích từ trần, một thư viện vừa cháy
Tin anh Nguyễn Ngọc Bích từ trần khiến bạn bè của anh- rất đông- sững sờ. Một người gần 80 tuổi thọ (anh sinh năm 1937 ) ra đi là chuyện thường tình, một tin buồn, nhưng một tin buồn đến hàng tuần, hàng tháng. Sinh, bệnh, lão tử là lẽ trời. Nhưng tin anh Bích ra đi khiến người ta bàng hoàng, bởi vì anh là người lúc nào cũng hăng say hoạt động, lúc nào cũng tươi cười, lúc nào cũng lạc quan, lúc nào cũng ân cần, khiến người ta nghĩ anh sẽ không bao giờ ra đi, hay sẽ là người cuối cùng ra đi. Người ta không tin chuyện anh ra đi, bởi vì không muốn tin, bởi vì hy vọng đó chỉ là tin đồn vô căn cứ.
Anh Bích ra đi thảnh thơi như anh đã đến, đã sống. Trên máy bay từ Washington D.C đi họp về biển Đông ở Phi Luật Tân, ngày 03 tháng Ba, anh thấy mệt, nằm nghỉ, 15 phút sau ra đi, vĩnh viễn. Một người bạn nói nghe tin anh mất thật buồn, nhưng nghĩ lại, thấy cũng an ủi, anh ra đi không đau đớn, bên cạnh chị Bích, người vợ cũng là người bạn đồng hành, đồng chí , là một cái chết rất thảnh thơi . Cũng như Molière chết trên sân khấu, anh Bích ra đi trên đường hoạt động. ( Sự thực, chuyện Molière chết trên sân khấu chỉ là huyền thoại , ông ta chết trên giường, ngon lành.) Anh Bích ra đi trên đường hoạt động, chắc anh cũng không mong một cách ra đi đẹp hơn. Tôi vẫn nói giỡn: anh là ‘’người cứu nước full time ‘’. Một người ăn cơm nhà, vác ngà voi không ngừng, không nghỉ, không biết mệt. Có những người Việt chỉ túi bụi làm giầu, hỳ hục đuổi dollars, chuyện đất nước phó mặc thiên hạ ; có những người cứu nước cuối tuần, có người tham gia việc nước năm thì mười họa, cho khỏi áy náy; anh thuộc thiểu số những người suốt ngày, suốt năm chỉ lo chuyện chung. Có người hoạt động vì háo danh, ham quyền, anh hoạt động vì là chuyện phải làm, không thể chắp tay đứng nhìn. Không chờ đơị gì, không trông mong gì . Có người gọi anh là ‘’Mister Yes ‘’, anh nghe, cười xoà, vui vẻ. Mister Yes vì anh không biết từ chối, ai nhờ làm gì anh cũng nhận, công việc gì khó khăn người ta đổ lên vai, anh cũng vác. Chữ NO không có trong tự điển của giáo sư Bích. Mấy năm trước, một nhóm anh em muốn giúp một nữ sinh trong nước, nổi tiếng vì bị nhà nước đày đọa chỉ vì có lòng với đất nước. Chuyện đầu tiên là giúp cô học Anh ngữ qua điện thoại. Ai lo được chuyện đó? Tiện nhất là trao cho một ông đã bận bù đầu là ông Bích. Anh và chị vui vẻ nhận, lo chu đáo, thỉnh thoảng báo cáo anh em về kết quả của việc làm.
Anh Bích là một người ôm đồm nhiều chuyện, vì anh thiện chí cùng mình, nhưng cũng vì anh có nhiều tài. Anh là trí thức, nhà ngoại giao, nhà giáo, nhà báo, nhà nghiên cứu và học giả. Nhà báo, anh là Tổng Giám Đốc cuối cùng của Việt Nam Thông Tấn Xã của Việt Nam Cộng Hoà, cựu giám đốc chương trình Việt ngữ của đài RFA ở Hoa Kỳ. Nhà giáo, anh đã cùng chị Hợi, người bạn đời của anh, về VN mở Viện Đại học Cửu Long ( 1972 ). Trí thức, anh tốt nghiệp Princeton, thông thạo Pháp ngữ ( học trường Pháp Chasseloup Laubat ), Anh ngữ ; biết nói tiếng Nhật. Một lần, đi gặp dân biểu Đức ở Berlin để vận động cho dân quyền ở VN, Anh đứng dậy phát biểu. Tôi nghĩ anh sẽ nói tiếng Anh, hay tiếng Việt để anh em địa phương dịch , nhưng anh nói tiếng Đức. Anh có trình độ cao về chữ Hán chữ Nôm. Anh học tiếng Tây ban Nha ở Madrid, học tiếng Nga, tiếng Tầu. Ngôn ngữ nào anh cũng thông thạo. Nhất là ngôn ngữ , văn hoá Việt. Đó không phải là chuyện đương nhiên, vì có nhiều vị thông thạo văn hoá Tây, Tầu nhưng văn hoá dân tộc thì mù tịt. Thỉnh thoảng nhận được cái mails của anh, nói câu thơ đó cậu chép sai, chữ đó phải viết g, không phải d, y thay vì i.. Anh là một cuốn tự điển biết đi , cái gì cũng biết . Và biết tới nơi tới chốn. Théc méc chuyện gì, chỉ việc tra tự điển sống là ông Bích. Ngạn ngữ Phi Châu : ‘’ mỗi lần một người già từ trần là một thư viện bị cháy ‘’. Trên chuyến máy bay TK086 Washington DC-Manila, hai ba cái thư viện , trong 15 phút, trở thành tro bụi.
Một chiến sĩ văn hóa
Là học giả, anh đã nghiên cứu, viết báo, viết sách, thuyết trình về đủ mọi đề tài. Anh là học giả thứ thiệt, cuả lạ ở VN, bên cạnh những học giả giả, trí thức cà chớn, nhan nhản trong xã hội Việt Nam, trong nước cũng như hải ngoại. Với người Việt, trở thành học giả dễ hơn trở thành thợ hớt tóc, hay đầu bếp biết nấu sườn xào chua ngọt. Chỉ cần thuổng vài trang nơi này, cầm nhầm vài đoạn nơi kia, in một cuốn sách tào lao, vô thưởng vô phạt là một sớm một chiều vỗ ngực trở thành học giả.
Anh là tác giả nhiều cuốn sách bằng Anh ngữ, Việt ngữ . Anh , chị chủ trương nhà xuất bản miền Đông Hoa kỳ cùng với chị Trương Anh Thụy, in sách của tác giả trong cũng như ngoài nước. Anh dịch thơ Việt Nam ( thí dụ thơ Nguyễn Chí Thiện ) ra Anh Ngữ, dịch thơ ngoại quốc, kể cả một kho tàng văn hoá xa lạ với người VN là thơ Iran sang Việt Ngữ. Anh là cái cầu bắc giưã những dòng văn hoá. Anh viết North VN : Backtracking on socialism ( 1975 ) để người ngoại quốc hiểu thực chất chiến tranh VN. Anh viết A Thousand years of Vietnamese Poetry ( Knopf.NY 1975 ) , xuất bản War and Exil : A Vietnamese Anthology ( 1969 ), in sách về văn hoá Việt, kiến trúc Việt, hội hoạ Thái Tuấn, nghệ thuật chụp hình Trần Cao Lĩnh, về chữ Nôm, để người ngoại quốc và giới trẻ Việt sinh ở hải ngoại thấy VN không phải chỉ là một bãi chiến trường. VN không phải chỉ là phở và chả giò. Anh dịch sách báo ngoại quốc ,muốn người Việt mở mang kiến thức, đón nhận tinh hoa văn hoá của thế giới. Vì ý thức rằng muốn xây dựng đất nước, phải nâng cao dân trí. Phát triển văn hoá là bám vào rễ để vươn ra.
Anh Bích là một người hoạt động chính trị, vì đó là bổn phận một người dân trong một giai đoạn cực kỳ đen tối của đất nước, nhưng ý thức được vai trò vô cùng quan trọng của văn hoá . Một người như vậy cực hiếm, và rất cần cho VN. Vì thường thường, những người hoạt động ít có ý thức văn hoá, những người làm văn hoá có thói quen ngồi trong tháp ngà, nhiều khi vì lười, hay vì nhát. André Malraux nói ông ta đã gặp nhiều lãnh tụ, nhưng hai người ông ta nể nhất là Chu Ân Lai và Nerhu, vì họ là những nhà chính trị nhưng có văn hoá . Nói chuyện chính trị với họ khác hẳn nói với những người khác. Khác với những người chỉ hùng hổ chống Cộng bằng miệng, quá khích, thiển cận ( những người càng chống, Cộng Sản càng mạnh ) hay những người chỉ lo chuyện xa vời, nhắm mắt trước thực tế, anh Bích hoạt động tích cực, tả xung hữu đột, nhiều khi đơn thương độc mã, nhưng luôn luôn đóng góp vào việc xây dựng nền móng cho một xã hội lành mạnh, bởi vì không thể nào có một đất nước phú cường nếu không có một văn hoá tốt đẹp. Anh tổ chức hội nghi về biển Đông với nhóm Voice và Họp mặt Dân Chủ, gõ cửa báo chí và chính trị gia Hoa kỳ , báo động về vi phạm nhân quyền ở VN, tiếp tay với nhóm Lao Động Việt, để giúp nhân công Việt Nam bị bán ra ngoài hay bị đàn áp ở VN. Ai cần tiếp tay, ới một tiếng, có ông Bích .
Anh muốn bắc cầu, lấp hố. Giữa người Việt và người ngoại quốc là những cái hố, không ai hiểu ai. Giưã người VN với nhau , cái hố còn sâu hơn nưã, giuã người già người trẻ, người CS người quốc gia, người Nam người Bắc. Anh sẵn sang cộng tác với bất cứ ai, già trẻ, Nam Bắc, Công giáo, Phật Giáo. Gặp anh năm phút, có cảm tưởng như đã quen anh từ lâu. Anh gia nhập Hội Nhà Báo Độc Lập để bắc cầu với anh em trong nước. Những người tranh đấu cho dân chủ từ trong nước ra, từ các nơi về Mỹ, ai cũng được anh tiếp đón tận tình. Một người bạn nói anh Bích có tâm Phật. Anh không biết đố kỵ, ghen ghét, hận thù, ai cũng là bạn. Anh bất đồng ý kiến với nhiều người, nhưng không nói xấu ai, không đả kích người khác. Năm ngoái, ngồi nói chuyện với vài anh em tới dự cuộc họp mặt về biển Đông lần đầu ở Manila, Phi luật Tân, tôi nói đuà “ chỉ cần nhìn anh Bích cũng biết tại sao Cộng Sản nó thắng, mình thua dài dài “. Anh hỏi tại sao ? “ Bởi vì CS nó gian ác, mà anh thì hiền lành quá, ai cũng tin, ai cũng cho là người tốt. Thua là phải ’’. Anh cười xòa, vui vẻ. Quả thực, anh chỉ thấy cái tốt ở những người khác. Chỉ thấy cái khía cạnh tích cực, lạc quan của người và việc. Không có vấn đè, chỉ có giải pháp. Anh không thù oán ai. Kể cả những người đã xuyên tạc, đả kích anh trên Internet. Một người bạn than phiền vì bị thiên hạ đánh, bịa chuyện bôi xấu, tôi nói : để ý làm gì ba cái vặt ấy, đến như ông Bích mà người ta cũng không tha. Nếu không, nước mình đã khá từ lâu rồi. Tôi tiếc đã không nói với anh Bích một điều mà tôi nghĩ, từ lâu : cái nước VN nó lận đận, thê thảm như vậy, bởi vì những người như anh, ít quá.
Sayonara
Người Pháp nói, chua chát : C’est toujours les meilleurs qui partent en premier. Bao giờ những người tốt vẫn ra đi trước thiên hạ. Anh ra đi, trong khi nhiều tên ăn hại, bán nước vẫn sống nhăn , làm khổ dân, làm tiêu tan đất nước. Anh ra đi, bỏ lại ngổn ngang bao nhiêu dự án, chắc sẽ không có ai cáng đáng. Ít có ai làm việc nước full time, ít có người trước những vấn đề mênh mông mà không có lúc nản lòng. Người như vậy hiếm quá, anh Bích ạ. Bây giờ, anh đi rồi mới thấy rõ điều đó.
Adieu, anh Bích. Chào anh vĩnh biệt. Hay đúng ra Sayonara, chỉ là một lời tạm biệt. Tạm biệt, bởi vì nơi anh đến, sớm muộn gì anh em cũng gặp lại. Ở đó, chắc anh đã gặp lại những người bạn đồng hành đã cùng anh vác ngà voi, những Nguyễn Tự Cừờng, Ngô Vương Toại, Nguyễn Minh Diễm, Nguyễn Xuân Phước..những người bạn tốt, những công dân mà nước Việt có thể hãnh diện, đã ra đi trước anh. Tạm biệt, bởi vì anh vẫn sống mãi trong lòng những người ở lại. Không ai quên mái tóc bạc, nụ cười thường trực, những cái vỗ vai thân thiện , tiếng hát và gịọng ngâm thơ sang sảng của anh, những buổi tranh luận sôi nổi nhưng thân thiện, những cuộc trao đổi với anh sau đó người ta thấy mình thông minh hơn . Sayonara, anh Bích.
(tt - Paris, tháng 3/2016 - © Đàn Chim Việt)