Để tưởng nhớ Cố Hải Quân Trung Tá Hồ Quang Minh cùng
hai em Nguyễn Phiêu Linh, Hồ Quang Trung và kính tặng tất cả Cựu S.V.S.Q./T.B./T.Đ.
khóa 6/68 và khóa 4/68
ĐIỆP-MỸ-LINH
Dù ngày xưa bạn cùng lớp đã “xầm xì” rằng “hắn” hoạt động cho Việt Cộng, tôi cũng không tin; vì – với trí óc non nớt của một nữ sinh trung học cùng với bản tính ngay thẳng, lương thiện – tôi nghĩ, nếu “hắn” thích Việt Cộng thì “hắn” ở lại ngoài Bắc chứ “hắn” theo gia đình di cư vào Nam để làm gì!
Mấy
mươi năm sau tôi mới biết, sau khi đỗ Tú Tài II, “hắn” được sang Pháp du học và
hiện nay “hắn” đang giữ một chức vụ quan trọng trong guồng máy đầy ác tính của
Cộng Sản Việt-Nam.
Nhìn
hình của “hắn” và đọc bảng tin báo trong nước viết về “hắn”, tôi ngồi bất động.
Những thành tích nội tuyến và phản chiến của “hắn”, ngày xưa, và bằng cấp của “hắn”, hiện tại, không hiểu
có chinh phục được ai hay không; nhưng đối với riêng tôi, tôi hoàn toàn không
muốn bị nhận là người bạn xưa của “hắn” dưới mái trường Võ Tánh.
Đối
với tôi, từ ngày mới lớn cho đến bây giờ, khi nghĩ về nam giới, hình ảnh tôi
ngưỡng phục nhất là chàng trai trong quân phục; và hình ảnh tôi yêu thích nhất
là chàng trai với cây đàn.
Nhìn
hình của “hắn” một lúc, tự dưng nước mắt của tôi nhạt nhòa mà tôi không hiểu
nguyên nhân. Một lúc sau, qua màn nước mắt, tôi không thấy hình của “hắn” nữa
nhưng tôi lại tưởng như tôi thấy được những người bạn ngày xưa cùng học trường
Võ Tánh như: Đặng Hữu Thân, “dân B1”; Ngô Đắc Phú, Lưu Khương Đức “dân B4”; Võ Ấm,
“dân B3”; Nguyễn Đình Tân, “dân B2” v. v… Trong những hình ảnh vừa hào
hùng, vừa thân thương vừa bi thảm của những thanh niên miền Nam đã gục ngã
trong cuộc chiến do Cộng Sản Việt-Nam chủ xướng, tôi nhận ra Chú của các con
tôi: Thiếu Úy Biệt Động Quân Hồ Quang Trung, xuất thân khóa 4/68 sĩ quan trừ bị
Thủ-Đức.
Trước
khi trở lại đơn vị, Trung cũng thường ghé nhà từ giã tôi. Không thể giấu sự lo
âu khi Trung bảo đơn vị của Trung sẽ được điều động về Bình-Long, An-Lộc, tôi
khuyên: “Chú cẩn thận”. Trung cười: “Em không can chi mô. Chị đừng có lo.” Nhìn
dáng Trung xa dần, tôi chợt liên tưởng đến em tôi: Thiếu úy Pháo Binh Nguyễn
Phiêu Linh, xuất thân khóa 6/68 Trường Bộ Binh Thủ-Đức, đang biệt phái cho mặt
trận Đức-Lập. Tôi âm thầm cầu nguyện cho Trung và Linh.
Một
sáng mùa Hạ năm 1972, chiếc Jeep dừng ngay trước nhà tôi rồi một quân nhân Biệt
Động Quân đẩy cổng, bước vào, gõ cửa.
Tôi
hơi mất bình tĩnh. Bà giúp việc mở cửa. Anh Biệt Động Quân bước vào. Tôi nhìn
quân nhân này, run giọng: “Thiếu úy
Trung… làm sao rồi, anh?” Quân nhân này vẫn trầm tĩnh: “Thưa bà, thiếu úy Trung bị thương, đã được trực thăng đưa về bệnh viện
dã chiến Vũng Tàu.” Tôi bớt xúc động ngay: “Dạ, cảm ơn anh. Tình trạng của chú Trung như thế nào ạ?” Anh đáp rất
thật: “Tôi không rõ lắm; vì tôi không có
mặt khi đơn vị của thiếu úy Trung đụng trận và tôi cũng chưa đến bệnh viện dã
chiến Vũng Tàu.” Không kịp từ giã người đưa tin, tôi cảm ơn anh một lần nữa
rồi vội lách người qua cửa để chạy vào báo tin cho Mạ (Mẹ) và Hà – vợ của
Trung.
Mạ
ngồi sững như pho tượng trong khi Hà khóc nức nở khiến hai đứa con của Trung
cũng òa lên khóc. Vừa dỗ dành con Hà vừa khóc vừa lấy vài thứ cần dùng cho vào xách.
Mạ ngạc nhiên: “Sửa soạn đi mô rứa?” Hà
khóc lớn hơn: “Con đi thăm chồng con”. Mạ
ngăn lại: “Biết cái chi mà đòi đi. Để nhờ
chị Hai hắn ra coi tình trạng hắn ra răng rồi tính.” Quay sang tôi, Mạ bảo:
“Chao ôi! Thiệt là khổ! Anh Minh của hắn
không có ở nhà, chừ con coi giúp Mạ được chi thì con giúp, nghe. Con quen ai
bên Biệt Động Quân thì con xin cho hắn về hậu cứ chứ hắn bị thương mà hắn trở
ra mặt trận Mạ sợ quá, con ơi!”
Tại
bệnh viện dã chiến, thấy mặt và tay chân của Trung vẫn nguyên vẹn, tôi thầm mừng.
Tôi dặn Trung: “Chú chịu khó chờ. Mai tôi
sẽ đưa các cháu đi Bến-Lức thăm anh Minh. Tôi sẽ hỏi anh Minh xem anh Minh quen
ai bên Biệt Động Quân…” Tôi chưa dứt câu, Trung đã nhìn tôi, nghiêm nét mặt:
“Chị đưa các cháu đi thăm anh Hai thì chị
đưa; còn anh Hai quen ai bên Biệt Động Quân để làm chi, chị Hai?” Lần đầu
tiên từ ngày làm vợ của Minh tôi mới nghe Trung nói chuyện với tôi một cách cứng
rắn và nghiêm nghị như vậy. Tôi không thể nói dối: “Ý Mạ muốn xin cho chú về hậu cứ.” Trung nhìn thẳng tôi: “Chị Hai! Em tình nguyện về Biệt Động Quân
không phải với mục đích để làm việc tại văn phòng. Em có trách nhiệm, em có bổn
phận, em có đơn vị của em.” Tôi lúng túng: “Chú giận tôi, phải không? Tôi xin lỗi.” Nét mặt của Trung dịu lại:
“Đời mô em dám giận chị. Em chỉ hơi bực
mình vì em đã không muốn cho Mạ, Hà và chị biết tin em bị thương; rứa mà đứa mô
thày lay…” May quá, vì lúc sáng vội vàng, tôi không để ý tên người lính Biệt
Động Quân đưa tin cho nên tôi không cảm thấy bị khó chịu vì không nói ra sự thật.
Trung nhìn đồng hồ tay, tiếp: “Chiều rồi,
chị nên đi về kẻo mấy cháu trông.”
Hôm
sau, sau khi đưa các con đến Căn Cứ Hải-Quân Bến-Lức, tôi mới được sĩ quan trực
cho biết Minh đi hành quân, chiều mới về. Như thường lệ, mỗi khi đến với đơn vị
Hải-Quân, tôi thích thay y phục dân sự bằng quân phục thủy thủ. Vừa mang đôi
ba-ta xong, tôi nghe tiếng gõ cửa. Mở cửa, tôi thấy chú tài xế của Minh. Chú ấy
nói: “Cô cho em đưa mấy đứa nhỏ ra bãi
đáp trực thăng đón Chỉ Huy Trưởng, nha, cô.” Tôi chưa biết đáp như thế nào
thì nghe tiếng bốn đứa con của tôi – ngồi sẵn trên xe Jeep – reo lên: “Măng! Măng! Cho tụi con đi đón Ba, nhen,
măng.” Tôi chỉ biết cười, vẫy tay rồi đóng cửa lại.
Chỉ
một chốc sau, tôi nghe tiếng xe thắng “két” rồi cửa phòng mở toanh và con gái lớn
của tôi hớt hãi chạy vào: “Măng! Măng! Trực
thăng… rớt rồi!” Tôi hoảng hốt chạy vội ra cửa thì thấy chú tài xế đang ôm
ba đứa con của tôi như thể trấn an. Và, tôi thấy, từ khắp mọi nẽo đường của Căn
Cứ Hải-Quân Bến-Lức mọi người chạy ùa về hướng cầu tàu. Tôi chạy theo dòng người,
bỏ mặc các con tôi.
Tiếng
xe hồng thập tự từ ngoài cổng gác vọng vào. Mọi người rẻ sang hai bên, nhường lối.
Xe cứu thương từ từ “de” lui về hướng bờ sông. Một chiếc ghe câu cặp bến. Vì đứng
xa, tôi không thể thấy được những người trong lòng ghe. Mỗi khi chiếc băng-ca
khiêng một người – không phải là Minh – đi ngang, tôi cảm thấy như tôi sắp quỵ
xuống; vì tôi ngại Minh đã chết hoặc mất tích trong dòng sông sâu. Trong khi
tôi tưởng như sự chịu đựng trong tôi đã cạn kiệt thì bỗng dưng, từ bờ sông, một
anh thủy thủ vừa vội vàng chạy về phía tôi vừa reo lên: “Cô ơi, cô! Em thấy Chỉ Huy Trưởng rồi! Em thấy Chỉ Huy Trưởng rồi!” Vài
người quay nhìn tôi rồi dạt ra hai bên, tránh lối cho tôi. Tôi bước ra vừa khi
chiếc băng-ca có Minh nằm bên trong được khiêng về hướng chiếc xe cứu thương.
Tôi chạy theo, thấy máu nhuộm ướt mặt Minh. Khi xe cứu thương rồ máy, tôi tự động
leo vào. Nhìn lui, tôi thấy chú tài xế của Minh chở các con tôi chạy theo.
Trên
chuyến trực thăng tải thương từ bệnh viện Long An về bệnh viện Cộng Hòa, tôi tự
hỏi không hiểu trái tim của Mạ còn đủ chỗ để chấp nhận thêm tin Minh bị thương
hay không!
Sau
khi y tá đưa Minh vào phòng Điện Tuyến, tôi thấy một bác sĩ đi về phía tôi. Tôi
vui khi nhận ra đó là bác sĩ Vĩnh. Sau vài câu thăm hỏi về gia đình, Vĩnh hỏi
tôi nguyên do nào Minh bị thương nặng như vậy. Tôi thầm ngạc nhiên vì Vĩnh tỏ
ra bặc thiệp và nói nhiều hơn xưa. Tôi bảo Minh bị rớt trực thăng. Vĩnh tròn mắt:
“Hải-Quân mà lại bị rớt trực thăng?”
Tôi cười như mếu: “Dạ, anh ấy đi thanh
tra những điểm đỗ quân.” Vĩnh lại hỏi: “Minh
làm gì mà đi thanh tra?” Tôi đáp: “Dạ,
anh ấy là chỉ huy trưởng Liên Đoàn I Ngăn Chận kiêm chỉ huy trưởng một đơn vị Đặc
Nhiệm của Lực Lượng Tuần Thám.” Vĩnh cười tinh nghịch: “Bỏ đàn bỏ hát để nghiên cứu về Hải-Quân hay sao mà biết nhiều quá vậy?”
Tôi cười gượng, chưa kịp đáp thì thấy chú tài xế của Minh vừa đưa các con của
tôi từ Bến Lức về tới. Tôi cáo từ Vĩnh để ra xe với các con tôi.
Tôi
nhờ chú tài đưa các con tôi về nhà, nhờ bà giúp việc lo cho các cháu. Trước khi
xe nổ máy, tôi chợt nhớ, vội dặn chú tài đừng cho Mạ biết tin Minh bị thương,
ngại Mạ lo. Xoay sang các con, tôi cũng dặn như vậy. Các cháu ngạc nhiên: “Măng biểu tụi con không được nói láo mà!” Hơi
lúng túng một lúc tôi mới tìm ra giải pháp: “Thôi,
được rồi. Mấy con không được vô nhà bà Nội. Khi nào bà Nội hoặc các cô chú hoặc
thiếm Trung ghé nhà mình thì mấy con phải chạy ngay lên lầu, không được gặp bà
Nội, thiếm Trung hoặc các cô chú. Chịu chưa?” Nét mặt của các con tôi tiu
nghỉu, buồn xo.
Suốt
thời gian dài thăm nuôi Minh, tôi vẫn chưa cho Minh biết tin Trung bị thương.
Và tôi cũng không có thời gian để ra Vũng-Tàu thăm Trung.
Một
hôm, đang sửa soạn các thứ cần dùng để đem lên bệnh viện Cộng Hòa cho Minh, tôi
thấy Trung bước vào nhà. Tôi ngạc nhiên. Trung bảo bác sĩ cho Trung xuất viện và
Trung từ chối mấy ngày phép dưỡng thương; vì đơn vị của Trung bị “tụi hắn quần
thảo liên miên!” Nhận ra nét ái ngại của tôi, Trung – trong quân phục Biệt Động
Quân, giày trận, mũ nâu – đứng thẳng, cụp hai chân trong thế nghiêm rồi ưỡng ngực,
bảo: “Em ‘ngon lành’ như ri mà chị lo cái
chi?” Tôi cười rồi cho Trung biết Minh bị thương. Trung ngồi lặng yên, nhíu
mày suy nghĩ rất lâu rồi bảo: “Chị Hai!
Em chỉ đủ thì giờ ghé thăm Mạ, thăm chị và vợ con em rồi em phải trở ra đơn vị
ngay. Em không thể ghé thăm anh Hai.” Nói xong Trung vội vàng từ giã tôi.
Tiễn
Trung ra cổng, nhìn chiếc mũ nâu của Trung chập chờn, khi ẩn khi hiện trong
dòng người, tôi cảm nhận được niềm hãnh diện hòa lẫn với nỗi lo âu trong lòng
tôi!
Niềm
lo âu trong tôi về sự trở lại chiến trường Bình-Long của Trung cũng không khác
mấy so với sự ái ngại của tôi khi biết Minh – sau khi xuất viện và nghỉ bảy
ngày phép dưỡng thương – được lệnh phục vụ trên Tuần Dương Hạm Trần Quang Khải,
HQ 2, để thực tập làm Hạm Trưởng; vì tôi hiểu Minh chịu sóng không được!
Trong
thời gian âu lo cho Trung và Minh, tôi quên bẳng Nguyễn Phiêu Linh. Như để nhắc
nhở sự vô tình của tôi, một nhân viên truyền tin từ Bộ Tư Lệnh Hải-Quân đến
nhà, đưa tin: “Thưa bà! Ông Nguyễn Văn Ngữ,
Trưởng Ty Nội An thị xã Cam-Ranh, nhờ Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Cam-Ranh chuyển
tin đến bà là thiếu úy Nguyễn Phiêu Linh đã mất tích ở mặt trận Đức-Lập!” Tôi
há hóc mồm, nhìn sững người đưa tin, không thốt được một lời!
Sau
một thoáng khủng hoảng tinh thần, tôi quỳ xuống, nhìn lên bàn thờ Phật niệm
danh hiệu Đức Quán Thế Âm Bồ Tác. Tôi cứ thành tâm cầu nguyện Phật Bà mỗi ngày,
mỗi đêm. Như một sự linh nghiệm từ Phật Bà, khoảng một tuần sau, tôi nhận được
điện tín của Ba tôi: “Linh bị Việt Cộng bắt. Linh đã vượt thoát về trình diện
đơn vị.” Tôi lại quỳ xuống, nhìn lên bàn thờ Phật, âm thầm tạ ơn Phật Bà.
Thời
gian này – mùa Hè năm 1972 – Vùng I, Vùng II và Vùng III Chiến Thuật chìm ngập
trong khói lửa, vì những trận tấn công quy mô và ác liệt của Việt Cộng. Chỉ có
Vùng IV tương đối bình yên.
Theo
dõi tin tức qua báo chí, radio và TV, tôi rất lo âu cho Trung và Linh. Vì đơn vị
của Linh thuộc Vùng III chiến thuật; đơn vị của Trung lại gần vị trí của Tướng
Tử Thủ Lê Văn Hưng. Theo dõi tin tức, biết Bình Long – An Lộc mỗi ngày phải “nhận”
không biết bao nhiêu ngàn quả đại pháo của Việt Cộng, tôi xốn xang và âu lo cho
người em chồng mà tôi thương như em ruột của tôi!
Rồi
một sáng sớm, chiếc Jeep dừng trước nhà, một quân nhân mặc quân phục Biệt Động
Quân bước vào. Như linh cảm được điều gì đó, tôi run quá, đứng xa xa để bà giúp
việc mở cửa. Anh Biệt Động Quân nhìn tôi: “Thưa,
bà có phải là bà Minh không ạ?” Nhìn nét mặt nghiêm và đôi mắt của anh Biệt
Động Quân như ẩn chứa điều gì rất khó tả, tôi cảm biết rằng tôi không thể đứng
vững được cho nên tôi dựa vào tường, vừa bước dần về ghế xa-lông vừa nhìn anh
Biệt Động Quân vừa gật đầu. Như nhận biết sự xúc động tột cùng của tôi, anh Biệt
Động Quân đến bên tôi: “Bà bình tĩnh. Bà
ngồi vào xa-lông đi”. Vừa ngồi vào xa-lông vừa nhìn anh Biệt Động Quân, môi
tôi run và trệ xuống như sắp khóc, tôi hỏi từng tiếng: “Thiếu úy Trung tử trận rồi, phải không?” Anh Biệt Động Quân đứng
im, cúi mặt…
Tiếng
xe Jeep rồ máy khiến tôi choàng tĩnh. Tôi hiểu rằng tôi phải bình tĩnh, phải dồn
tối đa nghị lực để giúp Mạ và Hà vượt qua cơn đau này! Tôi biết, nếu, ngay giờ
phút này, tôi vào cho Mạ và Hà hay tin Trung tử trận thì không thể nào tôi đủ
sáng suốt để làm bất cứ điều gì cho Trung khi quang tài của Trung được đưa về!
Tôi quyết định sẽ tin cho Mạ và Hà biết sau khi tôi lo xong vài việc quan trọng
cho Trung.
Tôi
sang Bộ Tư Lệnh Hải-Quân, nhờ trung tâm Truyền Tin thông báo cho HQ 2: “Em ruột của Hải-Quân trung tá Hồ Quang Minh
là thiếu úy Biệt Động Quân Hồ Quang Trung đã tử trận tại Bình-Long”. Sau đó
tôi đến chùa Vĩnh Nghiêm xin nghi thức tụng niệm và nơi quàng quang tài của
Trung. Và tôi ghé nhà người anh của Cố thiếu úy Võ Ấm. Anh này là chánh văn
phòng của một nhân vật đầy uy quyền. Tôi nhờ anh xin cho Trung một phần mộ
trong nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi.
Trên
những đoạn đường lo việc hậu sự cho Trung, trong tâm tôi đã sắp sẵn một bài viết
về Trung.
Nếu
trên đời, trong địa hạc văn chương, có điều gì tôi hối tiếc nhất, thì đó là bài
tôi viết cho Hồ Quang Trung, đăng trên báo Tia Sáng, mà nay tôi chỉ nhớ được
câu cuối cùng: “Từ nay, chị sẽ tìm hình
bóng em qua nhân dáng oai hùng của Người Lính Mũ Nâu!”…
…
Đang chìm đắm trong dòng hồi tưởng buồn thảm, chợt điện thoại reng, đưa tôi trở
về hiện tại. Tôi “Allo”. Từ đầu giây
bên kia, giọng nam, nói tiếng Anh:
-
Chúc mừng ngày của Mẹ.
Tôi
cũng đáp bằng tiếng Anh
-
Cảm ơn. Xin lỗi, ai đây?
-
Tôi là người bị bà dọa gọi cảnh sát bắt đây.
Tôi
giật mình, nhớ lại cách nay vài hôm, trong buổi chiều đi bộ tập thể dục, điện
thoại cầm tay của tôi reng hoài mà khi mở ra, “allo”, thì không ai trả lời. Nghĩ
rằng có người phá cho nên tôi bực mình, nói tiếng Anh: “Làm ơn đừng gọi số này nữa. Nếu gọi một lần nữa, tôi sẽ lấy số điện
thoại của bạn rồi tôi sẽ thưa cảnh sát.” Tôi đáp:
-Vâng,
tôi có nói như vậy; vì tôi không biết ông là ai mà cứ gọi phá tôi nhiều lần.
Đầu
giây bên kia phát âm tiếng Việt:
-Tại
điện thoại của tôi bị trục trặc chứ ai phá …bà làm chi.
Tiếng
“bà” và giọng Huế khiến tôi nhận ra đây là Toàn, tác giả nhiều tác phẩm tình cảm
xã hội và nhiều thước phim chiến trường. Toàn cũng là bạn thân của Minh từ xưa.
Ngày xưa Toàn dạy tại trường Cường Để, sang Mỹ Toàn học lại và tốt nghiệp bác
sĩ nhãn khoa. Tôi cười:
-Dạ
thưa Thầy.
-Sao?
Thằng bạn già của tôi sao rồi?
-
Dạ, ổng dạo này sướng lắm Thầy ơi! Người ta “sáng vác ô đi, tối vác về”; còn ổng
thì sáng xách xe đi, tối xách xe về.
-
Còn bà, đang làm gì đó?
-
Dạ, em đang đọc tin tức về Việt-Nam.
-
Bà có gì lạ không?
-
Dạ, em sắp đi Cali. Còn Thầy đang ở đâu?
-
Tôi đang ở D.C. thăm con và lo vài chuyện, 3 tuần nữa mới về Cali. Bà đi Cali.
có việc gì?
-
Dạ, em tham dự Hội Ngộ của khóa 6/68 sĩ quan Thủ-Đức.
-
Bà có liên hệ gì với Trường Bộ-Binh Thủ-Đức?
-
Dạ, Nguyễn Phiêu Linh, em của em, bị động viên vào khóa 6/68. Thầy nhớ Linh
không, thưa Thầy?
-
Nhớ chứ sao không. Cái thằng ốm ốm, “ông Già bà Già” bắt nó theo canh chừng bà
hoài đó chứ gì.
-
Dạ. Linh không còn nữa!
-
Biết rồi. Chừng nào bà đi? Cho biết ngày, tôi sẽ bay về Cali. đón bà.
-
Dạ, cảm ơn Thầy nhưng gia đình khóa 6/68 lo cho em rồi.
Toàn
nghiêm giọng:
-
Ngày xưa bà theo Hải-Quân, bà … bỏ tôi. Bây giờ bà theo Bộ-Binh, bà bỏ tôi!
-
Chết! Chết! Thầy ơi! Em đâu có là gì của Thầy mà Thầy bảo em bỏ Thầy?
-
Giận quá! Tức quá thì nói rứa đó! Tội nghiệp cho Cô Lượng của tôi! Cô cứ bảo “Toàn gửi gạo vô cô nuôi Thanh-Điệp cho”.
Chao ôi! Cô nuôi cách chi mà sẩy mất tiêu!
Tôi
tìm cách chuyển đề tài:
-
Thôi, Thầy ơi! Đừng trách em nữa. Thầy đàn và hát cho em nghe đi, Thầy.
-
Yêu cầu tôi đàn hát thì tôi đàn hát cho mà nghe; hứa là không báo cảnh sát bắt
tôi, nghe chưa?
Tôi
cười. Tiếng Piano tạo nên dòng Tango rộn ràng, vui tươi. Tôi nhận ra Toàn đang
đàn Tiếng Đàn Tôi của Phạm Duy. Dạo hết phân đoạn đầu, Toàn bắt vào: “Đời lạnh lùng trôi theo dòng nước mắt…Vì cuộc
tình đã chết một đêm nao…Mênh mông lả lơi, lạnh lùng em đã rời tôi…Khoan, khoan
hò ơi! Lệ sầu rụng xuống đàn tôi!” Không hiểu Toàn vô tình hay cố ý khi hát
bài này, nhưng lời ca làm tôi cảm thấy buồn buồn.
Toàn
chuyển qua một tình khúc êm dịu: “Memories,
pressed between the pages of my mind. Memories, sweetened thru the ages just
like wine…”(1)
Theo
dòng nhạc và tiếng hát ngọt ngào của Toàn, hình ảnh của Linh chờn vờn trong tầm
mắt tôi. Tôi nhớ những buổi sáng mờ sương, Linh và tôi đi bộ từ đường Phan Đình
Phùng băng qua vườn rau cải để đến trường Domain de Marie, trên đường Hai Bà
Trưng, Dalat. Tôi không quên được những “trận đụng độ” giữa các hội tuyển nổi
tiếng, Ba tôi – bút hiệu Điệp Linh – thường cho tôi và Linh đi theo xem đá
banh. Những lần đó tôi thấy Ba tôi phỏng vấn các cầu thủ danh tiếng, nhất là thủ
môn Rạng, để viết tường thuật cho báo Đuốc Thiêng. Nhờ được xem đá banh tôi mới
biết chút ít về nghệ thuật và quy luật đá banh. Nhờ vậy, vào những dịp đội banh
trường Võ Tánh đấu với đội banh trường khác, tôi thấy Linh có những cú “sút” rất
“thần kỳ”, chàng giữ “gôn” đỡ không nỗi! Một “vai trò” mà Linh rất ghét, là –
theo “lệnh” của Ba Má tôi – Linh phải giả vờ đi ra đi vô phòng khách thường
xuyên mỗi khi có chàng nào đến nhà thăm tôi để “nghe ngóng” xem chàng nào có lời
lẽ hoặc thái độ không đứng đắng đối với tôi thì mách cho Ba Má tôi. Có lẽ Linh
ít hợp với Toàn; vì lúc Toàn quen với tôi tại nhà thầy Lượng thì tôi chỉ mới học
đệ Lục hoặc đầu năm đệ Ngũ và Linh học sau tôi cho nên biết Toàn là giáo sư,
Linh ngại. Linh gọi Toàn bằng Thầy; tôi cũng gọi Toàn bằng Thầy. Dạo đó, vì tôi
còn là trẻ con cho nên Cô của Toàn, vợ thầy Lượng dạy Pháp văn và cũng là Mẹ của
bạn tôi, cứ đùa: “Toàn gửi gạo vô cô nuôi
Thanh-Điệp cho.” Linh và Minh rất hợp vì cả hai đều mê đá banh và đều có cú
“sút” “ngàn cân”. Linh nói với Ba Má tôi nhận xét của Linh về sinh viên quân y Vĩnh:
“Khi nào anh Vĩnh tới, Ba Má khỏi cần bắt
con ‘do thám’; vì anh Vĩnh chỉ ngồi nhìn chị Hai rồi cười chứ anh Vĩnh có nói
tiếng nào đâu!” Khi thụ huấn tại quân trường Thủ-Đức, Linh và Trung trở
thành đôi bạn thân.
Vừa
nhớ đến đây, tôi chợt nhận ra Toàn đã hát trở lại phân đoạn đầu. Đến phân đoạn
thứ hai, lời ca làm tôi xúc động, bùi ngùi: “…Quiet
thought come floating down and settle softly to the ground like golden autumn
leaves around my feet. I touched them and they burst apart with sweet
memories…” Tiếng hát của Toàn vẫn thiết tha, trầm ấm nhưng suối nguồn
thương nhớ Linh và Trung cứ cuồn cuộn dâng cao trong lòng tôi.
Nhìn
bầu trời trong xanh của một sáng mùa Hạ, tôi tưởng như tôi thấy lại Linh và
Trung – trong quân phục sinh viên sĩ quan Trừ Bị Thủ-Đức – vào những cuối tuần
xa xưa, khi Linh và Trung từ Quân Trường Thủ-Đức về Saigon thăm tôi. Rồi, từ niềm
nhớ thương chất ngất trong hồn, tôi tưởng như tôi không còn nghe tiếng đàn và
giọng hát của Toàn nữa nhưng tôi lại nghe được tiếng Guitar của Trung trong ca
khúc mà khi xưa Trung rất thích. Khi tiếng Guitar của Trung đến đoạn gần cuối của
ca khúc Mấy Dậm Sơn Khê, tôi vừa “ngân nga” nho nhỏ: “… Em hỡi em! Đường xa vui đấu tranh giữa khung trời gió lộng, nghìn sau
tiếc nghìn xưa!...” vừa cảm nhận hai hàng nước mắt từ từ lăn dài trên khuôn
mặt hằn nhiều nếp nhăn của tôi!
(1) Elvis
Presley lyrics
ĐIỆP-MỸ-LINH