Tôi biết 2 nhóm từ “Phương Trận và Ma Trận”
khi vào học chứng chỉ dự bị Toán Lý Hóa (MPC) của Đại Học Khoa Học, nếu tôi
không nhớ sai thì đó là một bảng hình chữ nhật gồm những phần tử số thập phân sắp
xếp thành hàng và cột ( phương trận và ma trận được sử dụng trong Toán Giải Tích). Tuy nhiên nhóm chữ
PHƯƠNG TRẬN dùng trong bài viết này không dính dáng gì đến “toán học” như nói ở
trên.
Phương trận dùng trong bài viết này chỉ
mang ý nghĩa “phương pháp được các tướng lãnh sử dụng trong một cuộc chiến” .
Trong khi “chiến pháp” = phương pháp được các tướng lãnh sử dụng trong một trận
chiến (một cuộc chiến bao gồm nhiều trận chiến).
Bài viết này có mục đích trình bày và phân
tích PHƯƠNG TRẬN mà Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn sử dụng trong cuộc chiến chống
lại quân xâm lăng Mông Cổ trong thế kỷ 13.
Năm 1257, tướng Ngột Lương Hợp Thai vâng lệnh
vua Nguyên là Hốt Tất Liệt đánh chiếm nước Đại Lý (tỉnh Vân Nam ngày nay) rồi theo
đường sông Thao, tỉnh Hưng Hóa, xuống đánh Thăng Long. Vua Trần Thái Tông sai
tướng Trần Quốc Tuấn đem binh lên giữ ở phía Bắc. Tướng Trần Quốc Tuấn ít quân
đánh không nổi, lui về đóng ở Sơn Tây. Quân Mông Cổ tiến đánh đuổi quân nhà Trần,
Trần Thái Tông phải bỏ kinh đô chạy về đóng ở sông Thiên Mạc (huyện Đông An, tỉnh
Hưng Yên) – xem VNSL của Trần Trọng Kim , tập I trang 127.
Ít lâu sau, vì không quen thủy thổ,quân
Mông Cổ bị bại trận đành phải rút lui về Trung Hoa. Tuy không thắng được quân
Mông Cổ, tướng Trần Quốc Tuấn đã nhận ra những khuyết điểm và giới hạn của kỵ
binh Mông Cổ :
Giới hạn thứ nhất : Xứ ta không
có đồng cỏ nên kỵ binh Mông Cổ phải lệ thuộc vào sự tiếp tế cỏ từ các tỉnh phía
Tây Bắc của Trung Hoa.
Giới
hạn thứ hai : xứ ta là một xứ khí hậu nhiệt đới
có nhiều mưa nên cả người và ngựa bị giảm sút hiệu năng chiến đấu vào mùa mưa.
Giới
hạn thứ ba : đồng bằng sông Hồng là một vùng
sình lầy nên không thuận tiện khi dàn đội hình kỵ binh lâm trận (Ngựa mà phải lội
sình thì bộ binh di động nhanh hơn kỵ binh)
Giới
hạn thứ tư : nước ta lại có nhiều sông nên kỵ
binh muốn vượt sông mà không có cầu hoặc không có tàu bè để đem ngựa sang sông
thì quá ư là trở ngại, do đó các tướng lãnh Mông Cổ không thể chọn lựa mục tiêu
tấn công như họ đã làm tại chiến trường Tây Bắc Trung Hoa.
Quân Lực VNCH tôn vinh Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn là Thánh Tổ của Quân Chủng Hải Quân, nhiều người lầm tưởng là nhờ chiến
thắng của trận Bạch Đằng Giang, nhưng thực tế không phải như vậy. Sau khi kỵ
binh Mông Cổ của tướng Ngột Lương Hợp Thai phải rút về Trung Hoa vào năm 1258,
tướng Trần Quốc Tuấn đã đệ trình kế hoạch thành lập thủy binh cho Thái Sư Trần
Thủ Độ ( Thái Sư là cấp bậc trong ngành hành chánh quan lại, thực tế Thái Sư Trần
Thủ Độ giữ chức Tể Tướng = Thủ Tướng Chính Phủ và kiêm luôn chức vụ Thái Thượng
Hoàng của vua Trần Thái Tông – là cháu gọi ông Trần Thủ Độ là chú). Sử gia Trần
Trọng Kim cho rằng nhà Trần chú trọng về Thủy Quân và Hải Quân vì tổ tiên của nhà Trần sinh nhai bằng nghề đánh cá. Tôi
cho rằng lời nhận định của sử gia Trần Trọng Kim không có tính thuyết phục vì
các lý do sau đây :
Lý
do thứ nhất : khi Trần Cảnh lên ngôi vào năm
1225 lúc mới 8 tuổi, mọi việc trong triều đều do Trần Thủ Độ quyết đoán, Thái
Sư Trần Thủ Độ còn phải bận việc dẹp loạn và đánh tan các tướng cướp cũng như các sứ quân hùng cứ khắp nơi , cho
nên không có nhu cầu thành lập “thủy quân và hải quân”
Lý
do thứ hai : Trần Thủ Độ đã có ý định soán đoạt
ngôi nhà Lý, nên sắp xếp 2 cháu của mình lấy 2 chị em Thuận Thiên và Chiêu
Hoàng ( Lý Huệ Tông không có con trai). Sử không ghi tuối tác của Trần Liễu, chỉ
ghi Trần Cảnh được Chiêu Hoàng nhường ngôi lúc mới 8 tuổi (tức là năm sinh của
Trần Cảnh là năm 1217), nhưng căn cứ vào năm sinh của tướng Trần Quốc Tuấn là
năm 1230 thì tôi đoán là Trần Liễu lớn tuổi hơn Trần Cảnh khá nhiều chứ không
suýt soát tuổi như 2 chị em Thuận Thiên – Chiêu Hoàng. Trần Liễu bị Trần Thủ Độ
xử ép nên uất ức nổi loạn, tuy nhiên Trần Thủ Độ không giết cháu mình,mà lại
nâng đỡ hết mình cho con trai lớn của Trần Liễu là Trần Quốc Tuấn. Đó cũng là
khi còn quá trẻ , lúc mới 27 tuổi, Trần Quốc Tuấn đã được Thái Sư Tể Tướng Trần Thủ Độ đưa lên nắm giữ
binh quyền.
Ghi
chú của người viết : Con người ta có số mệnh, nếu
Lý Huệ Tông truyền ngôi cho Thuận Thiên công chúa thì vị vua đầu tiên của nhà
Trần sẽ là Trần Liễu chứ không phải là Trần Cảnh và đương nhiên người con trai
lớn của Trần Liễu là Trần Quốc Tuấn sẽ là vị vua thứ nhì. Và nếu Chiêu Hoàng
hoàng hậu có thai sinh được hoàng tử thì bà đã không bị truất phế, do đó Trần
Liễu không bị mất vợ thì chưa chắc gì Trần Quốc Tuấn đã được Thái Sư Tể Tướng
Trần Thủ Độ lưu tâm để ý giúp đỡ (tướng Lê Phụ Trần – phụ tá đắc lực của Thái
Sư Tể Tướng Trần Thủ Độ trong việc đánh dẹp nội loạn, là sư phụ của tướng Trần
Quốc Tuấn trong đời binh nghiệp ) và Thái Sư Tể Tướng Trần Thủ Độ giao cho tướng
Trần Quốc Tuấn chức vụ Tổng Tiết Chế (tương đương với chức Tổng Tham Mưu Trưởng
thời hiện tại), nắm giữ binh quyền của nhà Trần. Âu cũng là điều may mắn cho nước
Việt Nam chúng ta , vì trên lịch sử thế giới, chỉ có tướng Trần Quốc Tuấn mới
đánh bại vua Hốt Tất Liệt tới 3 lần ( Thoát Hoan là hàng con cháu, làm sao
bì được với vua cha Hốt Tất Liệt và tướng
Trần Quốc Tuấn).
Là một tướng giỏi về chiến lược và tham mưu
nên tướng Trần Quốc Tuấn thành lập Thủy Quân và Hải Quân để đối phó với kỵ binh
của Mông Cổ. Thành lập Thủy Quân và Hải Quân đòi hỏi thời gian đóng tàu khá lâu
và tốn vào ngân sách cũng như tài chính của quốc gia rất lớn. Đó là chưa kể chi
phí huấn luyện cho binh sĩ sử dụng tàu thuyền nhuần nhuyễn và phải diễn tập kỹ
thuật tác chiến trên sông trên biển rất tốn kém và mất thì giờ.
Lý
do thứ ba : sau 12 năm chung sống, hoàng hậu
Chiêu Hoàng bị Thái Sư Trần Thủ Độ truất phế vì không có bầu, đó là vào năm
1237 khi đó hoàng hậu mới 19 tuổi. Vợ của Trần Liễu là Thuận Thiên công chúa
đang có bầu, “ bị “ lên làm Hoàng Hậu
cho vua Trần Thái Tông. Nhưng người con trai đầu lòng của Hoàng Hậu Thuận Thiên
(tên là Quốc Khang) không được làm vua, mà người con trai thứ nhì là Thái Tử Hoảng
mới làm vua tức là Trần Thánh Tông. Các chi tiết vừa nêu được ghi trong Trần
Triều Thế Phổ do sử gia Trần Trọng Kim biên soạn cũng chứng tỏ rằng tướng Trần
Quốc Tuấn vừa là vai anh con ông bác của Trần Thánh Tông, vừa là người lớn tuổi
hơn và cũng là người có kinh nghiệm chiến trận vượt xa các ông vua vai em cháu
như Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông. Bởi vậy, ý kiến của tướng Trần Quốc Tuấn
trong triều đình nhà Trần rất có trọng lượng : ông chuẩn bị rất kỹ cho cuộc đón
tiếp Thái Tử Thoát Hoan vào năm 1284 (tính từ 1257 đến 1284, tướng Trần Quốc Tuấn
có tới 27 năm để chuẩn bị). Các em của vua Trần Thánh Tông như Thái Sư Trần
Quang Khải, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, tôn thất nhà Trần như tướng Trần Bình Trọng, tướng Trần Khánh
Dư…đều được lệnh rèn luyện binh mã và thành lập các đơn vị chiến đấu có quy củ,
cho nên đã trở thành các danh tướng trong lịch sử chiến tranh với quân Mông Cổ
sau này.
Lý
do thứ năm : nước ta không có nhiều ngựa cho
nên tướng Trần Quốc Tuấn chuyển quân bằng
thuyền lớn di chuyển trên sông nhanh hơn
rất nhiều nếu so với bộ binh của nhà Trần di chuyển bằng chân. Binh sĩ của tướng
Trần Quốc Tuấn chỉ có 20 vạn ( VNSL quyển I –trang 137 ) ít hơn 500,000 quân của
Thoát Hoan, nhưng nhờ di chuyển nhanh hơn nên có thể tấn công quân Mông Cổ vào
bất cứ mục tiêu nào mà tướng Trần Quốc Tuấn muốn. Đó cũng là ý nghĩa của câu trả
lời : “Binh cốt tinh nhuệ không cốt ở số lượng” khi các tổng trấn các nơi xin
tướng Trần Quốc Tuấn tuyển mộ thêm quân.
Lý
do thứ sáu : vì sử dụng thủy binh vào công tác
chuyển vận binh sĩ cho nên các tướng của nhà Trần đều đóng quân tại những địa
điểm mà bây giờ chúng ta gọi là “căn cứ thủy bộ”. Nghĩa là nơi để đổ bộ tiến
quân hay là nơi tập kết binh sĩ để di chuyển qua mục tiêu khác. Quân đội nhà Tống,
quân đội của nước Nga cũng như một số nước vùng Trung Á đều thảm bại trước đà
tiến quân của kỵ binh Mông Cổ vì kỵ binh của Mông Cố có thể tỏa ra tấn công cả
4 mặt vào một thành trì nào đó (do bộ binh trấn giữ), nhưng với “căn cứ thủy bộ”,
quân Mông Cổ chỉ có thể tấn công mặt trước của căn cứ mà thôi, mặt sau là sông
và 2 bên trái - phải của căn cứ là bờ
sông nên kỵ binh trở nên “bất khiển dụng” . Suy ra, phòng ngự tại căn cứ thủy bộ dễ hơn
là phòng thủ một thành trì được xây dựng trên vùng đồng bằng khô cạn.
Thoát Hoan tiến quân vào nước ta vào tháng chạp
năm Giáp Thân (1284) nhưng 6 tháng sau – tháng 6 năm Ất Dậu (1285) phải bỏ chạy
về Tàu với những trận thua tại Bến Hàm Tử, thua tại bến Chương Dương và thua tại
trận Tây Kết (trận này Toa Đô trúng tên bị tử trận và Ô Mã Nhi phải trốn xuống
một chiếc thuyền nhỏ bơi vế Tàu). Lần này lui quân bằng đường bộ, Thoát Hoan phải
chui vào trống đồng để ttên mà quân nhà Trần bắn ra như mưa. Ghi nhận rằng đại
binh của Thoát Hoan vẫn chưa khai thông được con đường tiếp tế lương thực cho
người và tiếp tế cỏ khô cho ngựa bằng ngả đường bộ đi qua tỉnh Lạng Sơn.
Lần thứ hai, Thoát Hoan tiến quân vào nước
ta vào tháng 2 năm Đinh Hợi (1287), lần này tiếp tế lương thực và cỏ khô bằng
đường biển do Trương Văn Hổ phụ trách. Tuy nhiên tướng Trần Khánh Dư đã chiến
thắng Trương Văn Hổ ngay tại Bến Vân Đồn khiến rất nhiều lương thực và khí giới
bị tướng Trần Khánh Dư tịch thâu.
Đã có rất nhiều sử gia, nhà khảo cổ và các
nhà nghiên cứu trình bày những khám phá mà họ đã và đang tìm thấy trong khi
khai quật chiến trường Bạch Đằng Giang của thế kỷ 13. Tuy nhiên theo nhận định
riêng của người viết bài này, đã có rất nhiều ngộ nhận và suy đoán sai lầm về
vai trò của tướng Trần Quốc Tuấn về trận Bạch Đằng Giang. Điển hình như sử gia
Trần Trọng Kim đã viết :
Trích dẫn – Hưng Đạo Vương biết mưu ấy, bèn sai Nguyễn Khoái dẫn binh lẻn qua
đường tắt lên mé sông thượng lưu sông Bạch Đằng, kiếm gỗ đẽo nhọn bịt sắt đóng
khắp giữa giòng sông, rồi phục binh chờ
đến lúc nào thủy triều lên thì đem binh ra khiêu chiến, nhử cho thuyền giặc qua
chỗ đóng cọc. Hễ lúc nào nước thủy triều xuống thì quay lại hết sức mà đánh.
– Hết trích (VNSL quyển Một, trang 156)
Thủy Sư Đô Đốc Togo – người đã đánh tan hạm
đội của Nga Hoàng hồi 1905 tại eo biển Đối Mã nhận định rằng :
1/ Tướng Trần Quốc Tuấn đã chuẩn bị trận địa
Bạch Đằng Giang trước khi Thoát Hoan kéo binh qua Việt Nam.
2/ Số nhân công và binh sĩ đóng cọc phục vụ cho trận địa Bạch Đằng Giang phải lên
tới hàng ngàn, cho nên không thể thực hiện công trình này trong khi quân đội 2
bên đang lâm chiến.
3/ Số người đi lại đông như vậy thì không
thể che mắt được tướng Ô Mã Nhi và quân
thám báo của ông ta, đã để tướng Ô Mã Nhi chú ý thì không cách gì dụ được thủy
quân Mông Cổ lọt vào bẫy .
Các nhà khảo cổ đã minh định được các cọc gỗ
xuất xứ từ 3 loại gỗ khác nhau : gỗ gụ, gỗ bưởi và gỗ lim với 3 đường kính khác
nhau 5cm, 13cm và 20cm. Căn cứ vào sinh cảnh thực vật của bộ môn Entomology (tạm
dịch là sinh thái môi trường thực vật), 3 loại cây này không thể mọc ở vùng cửa
sông có phù sa bồi đắp quanh năm, nhất là gỗ gụ và gỗ lim với đường kính 20cm
thì phải là những cây có tuổi từ 25 năm trở lên. Suy ra những cây cọc cắm trên
vùng sông Bạch Đằng phải đem từ nơi xa đến và tướng Nguyễn Khoái đang thi hành
phận sự ngăn chặn thủy quân Mông Cổ thì làm gì có đủ nhân sự và thì giờ để đóng
cọc gỗ.
Tài năng và đức độ của tướng Trần Quốc Tuấn
quá siêu việt , ông được người Việt Nam đương thời và con cháu của ông nhiều đời
về sau tôn kính và dành cho ông một vị trí danh dự trong lịch sử Việt Nam. Tại
quê hương của ông, làng Vạn Kiếp tỉnh Hải Dương, sau khi ông qua đời, dân chúng
đã lập đền thờ và tôn xưng tướng Trần Quốc Tuấn là THÁNH TRẦN. Hàng năm, đến
ngày giỗ của ông 20 tháng 8 âm lịch, dân chúng khắp nơi kéo về Vạn Kiếp lễ bái
tấp nập, họ coi ông như một vị thần linh thiêng bảo vệ đất nước Việt Nam và dân
chúng Việt như hồi ông còn sinh tiền.
Dân chúng bình dân tôn xưng THÁNH TRẦN cũng
đồng nghĩa với việc coi tướng Trần Quốc Tuấn không còn là người thường, mà họ
coi ông mang nhiều tính cách thần bí và huyễn hoặc. Bây giờ đã là đầu thế kỷ 21 thì không thể mang tính
chất thần bí áp đặt vào con người thực của
tướng Trần Quốc Tuấn được nữa, vì khi đã mang tính chất thần bí thì chúng ta
không rút tỉa được bài học nào cả.
Tài năng và đức độ của tướng Trần Quốc Tuấn
xuất xứ từ sự giáo dục, ông được giáo dục để trở thành nhà LÃNH ĐẠO của đất nước,
cho nên ông không đặt nặng vấn đề cha của ông (An Sinh Vương Trần Liễu) dặn dò
phải đoạt ngôi vua, ông đã đem tài năng của ông điều khiển nhân sự của nhà Trần để đánh đuổi quân xâm
lăng nguy hiểm và to lớn hơn nước Việt gấp hàng chục lần. Lên làm vua thì được
hưởng lợi lộc gì khi chủ quyền quốc gia bị tước đoạt, dân chúng điêu linh sống
triền miên trong kiếp nô lệ…
Một câu hỏi từ thế kỷ 13 đến nay vẫn còn có
người hỏi : dất nước Việt Nam thì quá nhỏ bé so với Trung Hoa, số lượng dân
chúng Việt Nam là phân số 1/20 nếu so sánh với dân số Trung Hoa, thì làm sao
chúng ta có thể tồn tại trước sự xâm lần một cách lộ liễu liên tục và có hệ thống
của chính quyền Trung Hoa ? Vua tôi nhà Trần trong thế kỷ 13 đã 3 lần đánh tan
đạo quân xâm lược Mông Cổ khét tiếng trên thế giới, đã là một bài học hùng hồn
cho dân tộc Việt : hãy xây dựng và đào luyện một lực lượng trí thức chuẩn bị để
LÃNH ĐẠO ĐẤT NƯỚC (xin đừng lầm lộn “lãnh đạo đất nước” với “cai trị đất nước”).
Chính trong những trí thức lãnh đạo đất
nước sẽ nẩy sinh ra những sáng kiến độc đáo để hóa giải những âm mưu hung hiểm
của kẻ thù phương Bắc như danh tướng Trần Quốc Tuấn đã làm hồi thế kỷ 13.
Một đất nước mà thành phần “cai trị đất nước”
coi trí thức chỉ giá trị không hơn một cục
phân , luôn luôn hô háo khẩu hiệu
“TRÍ, PHÚ , ĐỊA, HÀO
ĐÀO
TẬN GỐC, TRỐC TẬN RỄ “
thì con đường bị diệt vong là điều tất yếu,
vấn đề chỉ còn là lâu hay mau mà thôi.
Trần Trung Chính
San José ngày 19 tháng 6 năm 2016
Kỷ Niệm NGÀY QUÂN LỰC thứ 41st