CHƯƠNG
I
SƠ LƯỢC LỊCH-SỬ HẢI-QUÂN
Việt-Nam Cộng-Hòa (V.N.C.H.)
Theo thỏa ước được ký tại Paris ngày 30-12-1949 giữa chính
phủ Việt-Nam và Pháp, quân đội Việt-Nam được thành lập.Trong sự tổ chức và huấn
luyện để hình thành quân đội Việt-Nam thuần nhất, Hải-Quân Việt-Nam ra đời.
Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa (V.N.C.H.) ra đời và trưởng
thành theo những diễn tiến sau đây:
1950.- Một số
rất ít thanh niên Việt-Nam được gửi sang Pháp thụ huấn tại trường Hải-Quân
Pháp. (The Naval Academy in Brest).
1951.- Dự án về
một Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Việt-Nam được khởi xướng. Cũng trong năm này,
hai đơn vị Hải-Quân chiến đấu được dự trù sẽ thành lập.
Tháng 11-1951, công cuộc xây cất Trung-Tâm Huấn-Luyện
Hải-Quân Nhatrang bắt đầu,
1952.- 350 nhân
viên được tuyển lựa; một số ít được gửi sang thụ huấn tại The Naval Academy in Brest ; và năm mươi người
trở thành hạ sĩ quan.
- Tháng 3 ngày 6,
Hải-Quân Việt-Nam chính thức ra đời.
- Tháng 5 ngày 20, Bộ-Tư-Lệnh Hài-Quân được thành lập.
- Tháng 7 ngày 12, Đô-Đốc Ortoli khánh thành Trung-Tâm
Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang. Cũng trong tháng này, Hải-Quân Việt-Nam nhận
lãnh trách nhiệm trên sông và dọc bờ biển.
- Tháng 9, chín sĩ quan Hải-Quân Việt-Nam đầu tiên – khóa I
Hải-Quân Nha-Trang, được huấn luyện tại Việt-Nam –tốt nghiệp và ra đơn vị phục
vụ. Khóa này gồm một số cựu sinh viên Hàng-Hải Thương-Thuyền.
- Tháng 10, sáu ứng viên được tuyển chọn để theo học tại
The Naval Academy in Brest .
1953.- Trong chiều hướng bành trướng quân đội Việt-Nam, Hải-Quân Việt-Nam được tăng thêm hai đơn vị chiến đấu – đã được dự trù từ năm 1951. Cũng trong thời gian này, vấn đề được đặt ra là Bộ-Binh hay Hải-Quân kiểm soát các giang đỉnh. Vấn đề này khiến Phó-Đề-Đốc Auboyneau nảy sinh ra ý kiến và đề nghị thành lập đơn vị Thủy-Quân Lục-Chiến.
- Tháng 4 ngày 10, đơn vị Hải-Quân Việt-Nam đóng tại
Cần-Thơ là đơn vị Hải-Quân đầu tiên mang Quốc-Kỳ Việt-Nam. Đơn vị này được
trang bị:
1 Soái-đỉnh (Command).
2 Quân-vận-đỉnh (LCM – Langding Craft Mechanized)
2 Trung-vận-đỉnh (LCVP–Langding Craft Vehicle and
Personnel).
- Tháng 4, Pháp chuyển giao cho Trung-Tâm Huấn-Luyện
Hải-Quân Nha-Trang một giang-pháo-hạm (LSIL – Langding Ship, Infantry, Large).
Chiến hạm này mang cờ Pháp.
- Tháng 6, đơn vị Hải-Quân tại Vĩnh-Long hoạt động. Lúc này
sự tranh luận về Quốc-Kỳ trên kỳ đài của các chiến đỉnh bột phát giữa hai chính
phủ Việt-Nam và Pháp.
1954.-
- Tháng 1, Hải-Quân Việt-Nam có 22 sĩ quan và 684 đoàn
viên.
- Tháng 2 ngày 11, vấn đề Quốc-Kỳ được giải quyết thỏa
đáng. Pháp chuyển giao cho Hải-Quân Việt-Nam 3 Trục-Lôi-Hạm (YMS – Auxiliary
Motor Minesweeper):
HQ 112 Chương Dương.
HQ 113 Bạch-Đằng.
HQ 114 Hàm-Tử.
- Tháng 3, Hải-Quân Việt-Nam nhận thêm:
2 Hải-Vận-Đỉnh (LCU – Landing Craft Utility).
Hải-Đoàn 22 Xung-Phong.
- Tháng 7, hai căn cứ tiếp vận được thành lập; một tại
Hải-Phòng; một tại Saigon . Hải-Quân Việt-Nam
có 45 sĩ-quan và 975 đoàn viên.
- Tháng 8, Pháp chuyển nhượng Hải-Đoàn 25 Xung-Phong.
- Tháng 10 ngày 30, Hải-Quân Việt-Nam có 131 sĩ quan và
sinh viên sĩ quan cùng 1353 thủy thủ. Trong số này, 86 sinh viên sĩ quan và 233
thủy thủ được thụ huấn tại Việt-Nam và Pháp.
Khi chiến tranh Việt Pháp kết thúc, Pháp đã chuyển giao cho
Hải-Quân Việt-Nam:
4 Hải-Đoàn Xung-Phong.
2 căn cứ tiếp vận.
Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quan Nha-Trang.
2 giang-pháo-hạm HQ 330 Lôi Công và HQ 331
Tầm Sét
300 Wizards (Wizard dài 20 feet, võ bằng nhựa, máy 25 mã
lực, chạy bằng dầu cặn).
Hải-Quân Hoa-Kỳ đã xuất hiện tại Việt-Nam từ tháng 8 năm
1950 với một thành phần rất nhỏ, gồm 08 sỹ quan trong MAAG (Military Assistance
Advisory Group); nhưng mãi đến năm 1954 quân nhân Hoa-Kỳ mới trở thành cố vấn
cho Hải-Quân Việt-Nam.
1955.-
- Tháng 6 ngày 30, Thủ-Tướng Ngô-Đình-Diệm bổ nhiệm Tướng
Trần-Văn-Đôn chỉ huy Hải-Quân.
- Tháng 8 ngày 20, Thủ-Tướng Ngô-Đình-Diệm chỉ định
Hải-Quân Thiếu-Tá Lê-Quang-Mỹ Tư-Lệnh Hải-Quân kiêm Tư-Lệnh Thủy-Quân
Lục-Chiến.
Ngay khi vừa nhận chức, Tư-Lệnh Hải-Quân Lê-Quang-Mỹ bổ
nhiệm sĩ quan Hải-Quân Việt-Nam vào những chức vụ then chốt, thay thế sĩ quan
Pháp.
Kể từ tháng này, mỗi năm Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân
Nha-Trang đào tạo khoảng 1.200 nhân sự các cấp.
- Tháng 11 ngày 7, Pháp chuyển giao Trung-Tâm Huấn-Luyện
Hải-Quân Nha-Trang cho Hải-Quân Việt-Nam.
- Tháng 12 ngày 7, để bành trướng những hoạt động ở sông
rạch, mỗi Hải-Đoàn được trang bị:
6 LCM.
4 LCVP.
6 Hors-bord có vận tốc cao.
Hải-Quân Việt-Nam tiếp nhận hai trợ-chiến-hạm (LSSL –
Landing Ship Support Large).
Thời điểm này Hải-Quân Việt-Nam có 4.000 nhân sự, kể cả
1837 Thủy-Quân Lục-Chiến.
Cũng trong năm này, Hải-Quân Việt-Nam thành lập 3 Lực-Lượng
chính yếu: Hải-Trấn, Hải-Lực và Giang-Lực.
Bộ-chỉ-huy của ba Lực-Lượng này đều đặt tại Saigon.
1.- HẢI-TRẤNgồm
có:
Ø 04
Duyên-Khu. Bộ chỉ huy của mỗi Duyên-Khu đặt tại Phú-Quốc, Nha-Trang, Vũng-Tàu,
Đà-Nẵng.
Ø Trung-Tâm
Huấn-Luyện Nha-Trang.
Ø 03
thủy xưởng tại Saigon, Cần-Thơ và Đà-nẵng.
2.- HẢI-LỰCgồm
có:
Ø 5
PC (Patrol Craft or Submarine Chaser) Hộ-Tống-Hạm: HQ 6 Vân-Đồn, HQ 1 Chi-Lăng,
HQ 2 Vạn Kiếp, HQ 3 Đống-Đa I, HQ 4 Tụy Động, HQ 5 Tây-Kết và HQ 7 Đống-Đa II.
Ø 03
YMS trục-lôi-hạm: HQ 211 Hàm-Tử, HQ 112 Chương-Dương, HQ 113 Bạch-Đằng.
Ø 02
LSSL Trợ-Chiến-Hạm: HQ 225 Nỏ Thần và HQ 226 Linh Kiếm.
Ø 04
LSM (Landing Ship Medium) Hải-Vận-Hạm: HQ 400 Hát-Giang, HQ 401 Hàn-Giang, HQ
402 Lam-Giang, HQ 403 Ninh-Giang.
Ø 10
WBP (Coast Guard Patrol Cutters)
3.- GIANG-LỰC gồm
có05 Hải-Đoàn. Mỗi Hải-Đoàn được trang bị:
5 quân-vận-đỉnh.
4 trung-vận-đỉnh.
5 hô-bo ( Hors-bord)
4 giang-pháo-hạm.
5 hải-vận-đỉnh.
4YTL (Harbor Craft)
Hậu cứ của Hải-Đoàn được đặt tại Cần-Thơ, Mỹ-Tho, Vĩnh-Long
và Long-Xuyên.
Tháng 12 ngày 21, Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam Lê-Quang-Mỹ
công bố sự hình thành của Thủy-Quân Lục-Chiến Việt-Nam.
1956.-Lực-Lượng
Hải-Thuyền được đề xướng nhưng chưa được phê chuẩn.
Hải-Lực nhận được 05 LSIL(Giang-Pháo-Hạm): HQ 327 Long-Đạo,
HQ 328 Thần-Tiễn, HQ 329 Thiên Kích. HQ 330 Lôi-Công và HQ 331 Tầm Sét.
1957.-Tháng 5,
sĩ quan Hải-Quân Pháp cuối cùng rời Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang,
giao hoàn toàn trọng trách huấn luyện cho sĩ quan Hải-Quân Việt-Nam.
Hải-Quân Việt-Nam nhận: 02 LCM, 01 LSSL HQ 227 và nhiều
MLC. MLC (Modified Landing Craft – loại tiểu đỉnh có khả năng chạy trên sông và
trên ruộng lúp xúp nước).
Hầu hết những giang đỉnh và chiến hạm này đều do Hoa-Kỳ
viện trợ cho Pháp trong thời kỳ chiến tranh Đông-Dương và lúc này Pháp giao lại
cho Việt-Nam. Điều rất buồn cười là khi chuyển giao những chiến hạm và tiểu
đỉnh đó cho Hải-Quân Việt-Nam, Hải-Quân Pháp – không hiểu nguyên do nào – đã
phá hoại bằng cách bỏ cát trong dầu chạy máy hoặc nhận bùn vào các ống dẫn dầu,
khiến một số chiến hạm chỉ xử dụng được một thời gian ngắn rồi phế thải!
1958.- Khóa sĩ
quan Hải-Quân Việt-Nam đầu tiên – khóa 8 Hổ-Cáp – được chính sĩ quan Hải-Quân Việt-Nam tuyển mộ
và huấn luyện.
1959.- Lực-Lượng
Hải-Thuyền được thành lập.
Thời gian này Giang-Lực có tổng cộng 96 giang-đỉnh, tổ chức
thành 05 Hải-Đoàn.
Hải-Lực nhận thêm: 03
MSC (trục-lôi-hạm): HQ 114 Hàm-Tử II, HQ 115 Chương-Dương II.Và HQ 116
Bặch-Đằng II.
Nâng tổng số chiến hạm và chiến đỉnh đủ loại lên đến 119
chiếc.
Nhiều sĩ quan, hạ-sĩ-quan được gửi sang Hoa-Kỳ tu nghiệp.
Những sĩ quan cao cấp tu nghiệp tại The Naval War College ở Newport, Rhode
Island. Vị sĩ quan đầu tiên theo học tại The Naval War College là Hải-Quân
Trung-Tá Trần-Văn-Chơn. Sĩ quan trung cấp tu nghiệp tại U.S. Naval Postgraduate
School ở Monterey, California.
1960.-Thêm 40
sĩ-quan và 60 hạ-sĩ-quan được gửi sang Hoa-Kỳ tu nghiệp.
Hải-Quân Việt-Nam cũng gửi một toán tình-nguyện-quân sang
Đài-Loan thụ huấn về U.D.T. (Underwater Demolition Team) để trở thành những
Biệt-Hải đầu tiên của Hải-Quân.
·
Tháng 4 ngày 2, 45 tân sĩ quan Hải-Quân khóa 8
Hổ-Cáp ra trường.
·
Tháng 07, khóa đầu tiên với 400 đoàn viên
Hải-Thuyền được tuyển mộ và huấn luyện tại Đà-Nẵng, dưới sự chỉ huy của
Hải-Quân Trung-Úy Nguyễn-Văn-Thông.
·
Tháng 12, bốn Duyên-Đoàn đầu tiên được thành lập
và đóng tại Cửa Việt, Huế, Đà-Nẵng và Hội-An.
Cũng trong năm nay, Lực-Lượng Hải-Thuyền thật sự ra đời.
Thời gian này, Lực-Lượng Giang-Cảnh cũng được thành lập
với:
18 tiểu đỉnh STCAN (French-designed River Patrol Craft), 04
LCM và 08 LCVP.
Hải-Quân Trung-Tá Chung-Tấn-Cang là vị sĩ quan thứ hai được
tu nghiệp tại U. S. Naval War College. Từ thời gian này trở về sau, mỗi năm,
một sĩ quan cao cấp Hải-Quân được theo học tại Đại-Học Quân-Sự này.
Hải-Quân nhận 1 Hộ-Tống-Hạm (PC –Patrol Craft) HQ 6
Vân-Đồn.
1961.-Liên Đội Người Nhái được thành
lập.
Chương trình MAP (Military Assistance Program) chấp thuận
406 sĩ quan Hải-Quân Việt-Nam du học Hoa-Kỳ về tất cả các ngành chuyên môn của
Hải-Quân. Ngoài ra, nhiều sĩ quan được đưa ra thực tập trên những chiến hạm
thuộc Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ.
Lúc này Hải-Quân Việt-Nam có gần 6.000 quân, kể cả sĩ quan,
hạ-sĩ-quan và đoàn viên.
Lực-Lượng Hải-Thuyền có 80 ghe đủ loại, tuần tiểu từ vùng I
Duyên-Hải, bên này vĩ tuyến 17.
Hải-Lực nhận: Hải-Vận-Hạm Hương-Giang HQ 404 và 01 PCE HQ
7.
Tổng số chiến hạm của Hải-Lực là 21 chiếc.
1962.- Tháng 2,
Bộ-Chỉ-Huy Lực-Lượng Giang-Phòng được thành lập và đặt trực thuộc Bộ-Tư-Lệnh
Địa-Phương-Quân.
Lực-Lượng Hải-Thuyền bành trướng với: 800 đoàn viên, 28
Duyên-Đoàn, 61 ghe chủ-lực, 200 ghe di-cư, 320 ghe buồm.
23 ghe chủ-lực đang đóng.
Ghe chủ-lực chạy bằng dầu cặn, máy 225 mã lực.
Tháng 6, Lực-Lượng Giang-Phòng nhận 145 LCVP để trang bị
cho 24 Đại-Đội Tuần-Giang.
Tháng 8, Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang tuyển chọn
gấp đôi số sinh viên – từ 50 sinh viên cho mỗi khóa tăng lên 100 sinh viên – và
thời gian thụ huấn được rút ngắn còn 18 tháng, thay vi hai năm như những khóa
trước.
Tháng 10, sáu mươi hai Người Nhái tốt nghiệp, do sự huấn
luyện của SEAL (Sea Air Land) Hoa-Kỳ.
Cũng thời gian này, Hải-Đoàn 22 Xung-Phong được thành lập
với 19 chiến đỉnh và hơn 200 đoàn viên.
Hải-Lực tiếp nhận:
2 Hộ-Tống-Hạm: HQ 8 Chi-Lăng II và HQ 9 Kỳ-Hòa.
1 Hải-Vận-Hạm (LSM) HQ.405 Tiền-Giang.
2 Dương-Vận-Hạm (LST – Landing Ship, Tank): HQ 500 Cam-Ranh
và HQ 501 Đà-Nẵng.
1963.- Năm thủy
xưởng được thành lập tại các Duyên-Khu. Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Thuyền tại
Phú-Quốc được dời về Cam-Ranh.
Hải-Lực nhận:
Nhiều Tuần-Duyên-Hạm (PGM – Patrol Motor Gunboat). Trong số
đó có 12 PGM được chương trình MAP chấp thuận, mang số từ HQ 600 đến HQ 611.
Hải-Vận-Hạm (LSM) HQ 406 Hậu-Giang.
Dương-Vận-Hạm
(LST) HQ 502 Thị-Nại.
Tàu dầu (YOG – Gasoline Barge, Self-propelled) HQ 471.
2 Tuần-Duyên-Hạm (MSF – Minesweeper Fleet, nguyên thủy của
Hải-Quân Hoa-Kỳ là MSF 300 Serene và MSF 301 Shelter.Về sau hai Tuần-Dương-Hạm
này được biến cải thành hai Hộ-Tống-Hạm PCE).
12 MLM (Minesweeping Launch) mang số từ HQ 150 đến HQ 161.
Giang-Lực nhận: 24 Monitors và một số LCVP, nâng tổng số
giang đỉnh lên 208 chiếc.
Thời gian này Hải-Quân có hơn sáu ngàn quân các cấp;
Lực-Lượng Hải-Thuyền có 66 sĩ quan (sĩ quan Hải-Quân), 375 hạ sĩ quan và 3359
đoàn viên.
1964.- Lực-Lượng
Hải-Tuần được thành lâp, trực thuộc Sở Phòng-Vệ Duyên-Hải. Một Trung-Úy Hải-Quân
và hầu hết nhân viên thuộc Biệt-Hải được biệt phái Sở Phòng-Vệ Duyên-Hải.
- Tháng 1 Hải-Quân có
6.467 sĩ quan.
- Tháng 2 ngày 22, hai PT (Motor Torpedo Boat) đều tiên đến Đà -Nẵng, đặt dưới quyền xử dụng
của Lực-Lượng Hải-Tuần, thuộc Sở Phòng-Vệ Duyên-Hải.
- Tháng 6, danh xưng Bộ-Chỉ-Huy Lực-Lượng Giang-Phòng được
đổi thành Bộ-Chỉ-Huy Liên-Đoàn Tuần-Giang và trực thuộc Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân.
- Tháng 11, Hải-Quân có 8.162 sĩ quan.
Trung-Tâm Huấn-Luyện kỹ thuật Hải-Quân (engineering School)
từ Saigon được dời ra Cam-Ranh.Từ đó, Thủy-Quân Lục-Chiến tuần tự chuyển nhượng
căn cứ Cam-Ranh cho Hải-Quân.
Hải-Lực tiếp nhận:
2 Tuần-Duyên-Hạm: HQ 610 Diên-Hải và HQ 611 Trường-Sa.
2 PGM cuối cùng trong số 12 PGM.
2 Hộ-Tống-Hạm (PCE): HQ 10 Chí-Linh và HQ 11 Nhựt-Tảo.
Tổng số chiến hạm là 44 chiếc.
Ghe buồm của
Lực-Lượng Hải-Thuyến được từ từ thay thế bằng ghe xi-măng Yabuta (Ferro ciment,
đóng tại Hải-Quân Công-Xường)
Thời điểm này Giang-Lực lớn mạnh với 07 Hải-Đoàn; mỗi
Hải-Đoàn có 19 giang đỉnh.
Cũng trong năm này,
nhiều căn cứ lớn được thành lập tại các hải cảng quan trọng như Cam-Ranh,
Đà-Nẵng, Phú-Quốc, v.v…
1965.- Tháng 7,
Lực-Lượng Hài-Thuyền được sát nhập vào Hải-Quân với 4.000 nhân viên, 389 ghe
chủ-lực, 95 ghe buồm; được chia làm 28 Duyên-Đoàn, đóng rải rác tại 22 căn cứ
Hải-Quân.
Mỗi Duyên-Đoàn trang bị:03 ghe chủ-lực, 03 ghe di-cư và 16
ghe chèo.
Về sau, tất cả loại ghe này được thay thế bằng Yabuta.
Hải-Lực tiếp nhận:
04 trợ-chiến-hạm (LSSL): HQ 228, HQ 229, HQ 230 vàHQ 231.
02 PC: HQ 5 và HQ 2.
01 LMS HQ 406.
Lúc này Hải-Lực có 2.000 quân, kể cả sĩ quan và đoàn viên.
Nhiều LSIL va LSSL lưu động tuần tiểu trên sông Mékong. Một trong những
Giang-Pháo-Hạm và Trợ-Chiến-Hạm này được biệt phái cho Đặc-Khu Rừng-Sát.Ba LST
và vài LSM được xử dụng để chuyên chở quân dụng.Một LSM được chỉnh trang thành
bệnh-viện-hạm với đầy đủ dụng cụ y khoa.
Vào thời điểm này quân số Hải-Quân tổng cộng là 13.000, kể
cả sĩ-quan, hạ-sĩ-quan và đoàn viên. Bảy sĩ quan được gửi sang Hoa-Kỳ tu nghiệp
tại U. S. Naval Postgraduate School.
Cũng trong năm này, danh từ Hải-Đoàn được thay bằng
Giang-Đoàn Xung-Phong (River Assault Group). Sáu trong 07 Giang-Đoàn Xung-Phong
được trang bị:
01 Commandement, 01 Monitor, 05 LCM, 06 LCVP và 06
truy-kích-đỉnh (fom)
Riêng Giang-Đoàn 27 Xung-Phong được trang bị: 01
Commandement, 01 Monitor, 06 LCM và 10 tiểu đỉnh (RPC – River Patrol Craft).
Mỗi Giang-Đoàn có 150 nhân sự, gồm sĩ quan, hạ-sĩ-quan và
đoàn viên.
07 sĩ quan được sang Hoa-Kỳ theo học tại The Naval
Postgraduate School.
1966.- Hải-Lực
tiếp nhận những chiến hạm sau đây:
HQ 12 Ngọc-Hồi.
4 PGM, từ HQ 612 đến HQ 615.
2 sĩ quan được theo học tại The Naval Postgraduate School,
Hoa-Kỳ.
Cuối năm, Giang-Đoàn 51 Giang-Đoàn 52 Tuần-Thám được chuyển
giao cho Hải-Quân V.N.C.H.
1967.- Hải-Quân
Việt-Nam Cộng-Hòa – với nhân số gần 9.000 sĩ quan, 27.000 hạ-sĩ-quan và đoàn
viên – là một Lực-Lượng Hải-Quân lớn vào hàng thứ 14 trên toàn thế giới.
Hải-Lực nhận 4 PGM, từ HQ 616 đến HQ 619.
1968.-Tháng 02,
Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang trở thành Trung-Tâm Huấn-Luyện sĩ-quan
Hải-Quân Nhatrang. Trung-Tâm Huấn-Luyện Cam-Ranh đào tạo thủy thủ và
hạ-sĩ-quan.Trung-Tâm Huấn-Luyện Bổ-Túc Saigon trao dồi thêm về kỹ thuật và kiến
thức chuyên môn.
Tháng 6 Giang-Lực nhận nhiều PBR (River Patrol Boat) theo
tinh thần viện trợ của chương trình MAP.
Tháng 11, chương trình “Việt-Nam hóa chiến tranh” (ACTOV
–Accelerated Turnover to the Vietnamese) chuyển nhượng 500 chiến hạm và chiến
đỉnh đủ loại. Nhiều Tiền-Doanh Yểm-Trợ cũng được bàn giao cho Hải-Quân Việt-Nam
theo tinh thần chương trình ACTOV.
1 sĩ quan được sang Hoa-Kỳ, tu nghiệp tại The Naval
Postgraduate School.
1969.- Ba
Lực-Lượng tác chiến sông ngòi được thành lập:
Ø Lực-Lượng
Tuần-Thám.
Ø Lực-Lượng
Thủy-Bộ.
Ø Lực
lượng Trung-Ương.
Hải-Lực được chuyển nhượng:
Dương-Vận-Hạm HQ 503 Vũng-Tàu.
8 WPB mang số từ 700 đến 707.
Tháng 7, khoảng 425 PBR được Hoa-Kỳ chuyển nhượng cho
Hải-Quân Việt-Nam trong một buổi lễ rất trang trọng, trước Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân,
dưới sự chủ tọa của Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam và Tư-Lệnh Hải-Quân Hoa-Kỳ tại
Việt-Nam, cùng nhiều sĩ quan cao cấp Việt-Mỹ..
1970.- Những
chiến hạm sau đây được Hoa-Kỳ chuyển giao cho Hải-Quân Việt-Nam:
Tuần-Duyên-Hạm HQ 13 Hà-Hồi.
2 tàu dầu: HQ 472 và HQ 473.
3 Dương-Vận-Hạm: HQ 504 Qui-Nhơn, HQ 505 Nha-Trang, HQ 800
Mỹ-Tho.
18 WPB, mang số từ 708 đến 725.
PCER HQ 14 Van-Kiếp.
Ngoài ra, theo chương trình Việt-Nam hóa chiến tranh, A.C.T.O.V.
Hải-Quân Hoa-Kỳ chuyển nhượng cho Hải-Quân Việt-Nam 242 chiến đỉnh.
1 sĩ quan được sang Hoa-Kỳ, theo học trường The Naval
Postgraduate School.
1971.-Hải-Quân
Việt-Nam tiếp nhận từ Hải-Quân Hoa-Kỳ:
2 Khu-Trục-Hạm (DER – Destroyer Escort Radar Picket) HQ 1
Trần-Hưng-Đạo và HQ 4 Tần-Khánh-Dư.
4 Tuần-Dương-Hạm (WHEC – White High Endurance Cutter): HQ 2 Trần-Quang-Khải, HQ 3
Trần-Nhật-Duật, HQ 5 Trần-Bình-Trọng và HQ 6 Trần-Quốc-Toản.
2 Dương-Vận-Hạm loại lớn: HQ 801 Cần-Thơ và HQ 802
Vĩnh-Long.
1 sĩ quan theo học tại The Naval Postgraduate School,
Hoa-Kỳ.
1972.- Hải-Quân
Hoa-Kỳ chuyển nhượng cho Hải-Quân Việt-Nam:
3 Tuần-Dương-Hạm: HQ 15 Phạm-Ngũ-Lão, HQ 16 Lý-Thường-Kiệt
và HQ 17 Ngô-Quyền.
Một tàu dầu HQ 475.
Và hầu hết những căn cứ của Hải-Quân Hoa-Kỳ tại Việt-Nam.
Bốn sĩ-quan được gửi sang tu nghiệp tại The Naval
Postgraduate School, Hoa-Kỳ.
1973.- Sáu
sĩ-quan được sang Hoa-Kỳ tu nghiệp tại The Naval Postgraduate Scool.
1974.- Năm sĩ
quan được tu nghiệp tại The Naval Postgraduate School.
1975.- 19
sĩ-quan tu nghiệp tại The Naval Postgraduate School.
1 sĩ-quan cao cấp Hải-Quân tu nghiệp tại U. S. Naval War
College.
Những sĩ-quan này bị kẹt lại Hoa-Kỳ khi miền Nam Việt-Nam
thất thủ.
Thời gian này Lực-Lượng Hải-Quân Việt-Nam gồm có:
Ø 5
vùng Duyên-Hải.
Ø 2
vùng Sông Ngòi.
Ø Hạm-Đội
với 83 chiến hạm đủ loại.
Ø 650
sĩ-quan.
Ø 7.000
đoàn viên.
Ø Mỗi
chiến hạm có một sĩ-quan cơ khí.
Ø Lực-Lượng
Duyên-Phòng 213 thuộc Hành-Quân Lưu-Động-Biển.
Ø 28
Duyên-Đoàn.
Ø Bốn
Lực-Lượng đặc nhiệm thuộc Hành-Quân Lưu-Động-Sông:
·
Lực-Lượng Tuần-Thám (Lực-Lượng Đặc-Nhiệm (212).
·
Lực-Lượng Thủy-Bộ ( Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 211).
·
Lực-Lượng Trung-Ương (Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 214).
·
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 99 – được thành lập cấp tốc
vào thánh 4 -1975.
Ø Liên-Đoàn
Tuần-Giang.
Ø 20
Giang-Đoàn Xung-Phong.
Ø 03
Trung-Tâm Huấn-Luyện:
Ø Hải-Quân
Công-Xưởng tại Saigon và vài thủy xưởng khác.
Ø Nhiều
Căn-Cứ Tiền-Doanh Yểm-Trợ rải rác khắp 05 vùng Duyên-Hải và 02 vùng Sông Ngòi.
Ø Bệnh
xá Bạch-Đằng với tòa nhà hai tầng đồ sộ, trang bị đầy đủ dụng cụ y-khoa, tọa
lạc đối diện Hải-Quân Công-Xưởng.
Thời điểm này, quân số Hải-Quân lên đến hơn 40.000.
CHƯƠNG II
TƯ-LỆNH HẢI-QUÂN
Kể từ khi thành lập cho đến tháng 04-1975, những vị sĩ-quan
sau đây tuần tự đảm nhiệm chức vụ Tư-Lệnh Hải-Quân:
- Hải-Quân Thiếu-Tá
Lê-Quang-Mỹ 20/8/1955 -/1957
- Hải-Quân Trung-Tá Trần-Văn-Chơn 1957-1959
- Hải-Quân Đại-Tá
Hồ-Tấn-Quyền
6/8/1959-1963
- Hải-Quân Đại-Tá Trần-Văn-Phấn 26/4/1965-1966
- Trung-Tướng Cao-Văn-Viên 9/1966-10/1966
- Hải-Quân Đại-Tá Trần-Văn-Chơn 31/10/1966-1975*
- Đề-Đốc Lâm-Ngươn-Tánh
1975
- Phó-Đô-Đốc Chung-Tấn-Cang 1975
*.- Khi bàn giao chức vụ Tư-Lệnh cho Đề-Đốc
Lâm-Ngươn-Tánh, nguyên Tư-Lệnh Trần-Văn-Chơn mang cấp bậc Đề-Đốc. Và cựu Đề-Đốc
Trần-Văn-Chơn là sĩ-quan cao cấp nhầt của Hải-Quân V.N.C.H. bị Cộng-Sản
Việt-Nam cầm tù.
Kể từ khi thành lập cho đến tháng 04 năm 1975, những vị sĩ
quan sau đây tuần tự đảm nhiệm chức vụ Tư-Lệnh Hải-Quân:
Ø
Hải-Quân Thiếu-Tá Lê Quang Mỹ 20/8/1955 – 1957
Ø
Hải-Quân Trung-Tá Trần Văn Chơn 1957 – 1959
Ø
Hải-Quân Đại-Tá Hồ Tấn Quyền 6/8/19 59
– 1963
Ø
Hải-Quân Đại-Tá Chung Tấn Cang 11/1963 – 1965
Ø
Hải-Quân Đại-Tá Trần Văn Phấn 26/4/1965 – 1966
Ø
Trung-Tướng Cao Văn Viên 9/1966 – 10/1966
Ø
Hải-Quân Đại-Tá Trần Văn Chơn * 31/10/1966 – 1974
Ø
Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh 1974 – 1975
Ø
Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang 3/1975 – 4/1975
* Khi bàn giao chức vụ
Tư-Lệnh cho Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh, Tư-Lệnh Trần Văn Chơn mang cấp bậc Đề-Đốc.
Tư-Lệnh Hải-Quân Đầu
Tiên
Tư-Lệnh Hải-Quân Cuối Cùng
Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang
Vị sĩ quan Hải-Quân cao cấp nhất
bịCộng Sản cầm tù
Nguyên Tư-Lệnh Hải-Quân
Cựu Đề-Đốc Trần Văn Chơn
Còn tiếp