Hồi Ký: Phạm G. Đại
(Lời Tác Giả: Để kỷ niệm 35 năm ngày 30-4-1975 mất miền Nam vào tay Cộng Sản, hồi ký "Những Người Tù Cuối Cùng" sẽ được khởi đăng Phần I ngày hôm nay trên những diễn đàn thân hữu và gửi đến gia đình và bạn bè xa gần.)
Phần I
Khu Rừng Lá Buông
Trời đã sẫm lại từ lúc nào, bóng tối đã bao phủ cả khu vực trại giam Z-30D Hàm Tân,Thuận Hải, tất cả đều yên tĩnh và chỉ còn nghe vẳng từ thật xa tiếng gió xào xạc qua những khu rừng lá.
Bên phía các buồng giam tù hình sự im ắng lạ thường bởi vì hầu hết đều kéo lên hội trường để xem phim bộ và những ngọn đèn vàng không đủ chiếu sáng cái sân trại quá rộng.
Tôi ngồi trên chiếc ghế đá trước cửa buồng và nhìn lên bầu trời xanh thẳm không một gợn mây với những ngôi sao lung linh như muốn đem thêm chút ánh sáng xuống cho một vùng trái đất đang đi vào bóng đêm.
Chợt một ngôi sao đang đổi ngôi. Tôi nhớ có ai đó nói với tôi rằng nếu mình ước nguyện điều gì khi có một vì sao đang đổi ngôi thì sẽ được toại nguyện, nên vừa nhìn ngôi sao đó tôi vừa cầu nguyện cho tất cả các tù nhân chính trị chế độ cũ đang bị giam giữ ngay chính trên quê hương họ sẽ sớm được trả tự do.
Sau bữa cơm chiều, tôi đã ngồi đó một mình trên ghế đá.
Trong buồng, các bạn tôi đang đọc sách báo, nằm nghỉ trên giường, hay đang ngồi uống trà hàn huyên để chuẩn bị đi ngủ.
Phía bên phải căn buồng là một căn phòng được xây cao hơn với bực tam cấp và dành cho bốn ông Tướng còn lại là Lê Minh Đảo, Trần Bá Di, Lê Văn Thân và Đỗ Kế Giai.
Mỗi ông tướng đều có một nét riêng mà anh em chúng tôi đều kính mến như những người anh cả trong gia đình.
Anh Đảo thì văn nghệ, và là người hùng của trận Xuân Lộc nơi mà sư đoàn 18 bộ binh của ông dù súng đạn đã cạn nhưng tinh thần vẫn bất khuất và vẫn anh dũng chặn đứng và cầm chân bốn sư đoàn Bắc Việt trong tỉnh Long Khánh hơn hai tuần lễ và chúng đã không thể tiến thêm được một bước nào về Sàigòn như kế hoạch đã chỉ thị. Anh Di thì luôn tươi cười khi nói chuyện với anh em. Anh Thân thì hoà nhã, và anh Giai thì luôn thâm trầm nhưng lại rất cởi mở và rôm rả khi chúng tôi ghé lên mấy bậc tam cấp thăm các anh.
Tôi nghe thấy tiếng sáo du dương của ông Thân hòa với tiếng đàn ghi ta của ông Đảo vẳng xuống trong một bản nhạc mà ông Đảo đã sáng tác riêng để tặng cho Mẹ. Chợt tôi thấy lòng mình như lâng lâng theo tiếng đàn và tiếng sáo và một nỗi buồn man mác từ đâu đưa tới vì mới đó mà đã bốn năm rồi kể từ khi chuyển trại vào miền Nam và chúng tôi vẫn còn ở lại nơi đây.
Tướng Lê Minh Đảo và bạn bè đồng đội cùng thân nhân
Quả là thời gian thật vô tình và lạnh lùng như giòng suối ngày đêm róc rách không ngừng chảy qua khu rừng lá Buông này vậy.
Bây giờ là tháng Tư năm một chín chín hai và chúng tôi vỏn vẹn chỉ còn đúng hai mươi người trong đó có bốn tướng và mười sáu anh em từ cấp đại tá, trung tá, thiếu tá, trung úy, một anh hồi chánh viên, một thiếu úy trinh sát tỉnh (PRU), hai anh trong Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo (PĐUTƯTB) và một anh về từ tầu Việt Nam Thương Tín (VNTT).
Mỗi người đúng là một vẻ khác nhau nhưng thẩy đều có một điểm chung là đang đi trên quãng đường gian nan cuối cùng của một cuộc hành trình tưởng rằng sẽ không bao giờ tới đích.
Đây là những người tù cuối cùng đã bị bắt hay "tập trung cải tạo" từ sau khi mất miền Nam, những người đã cùng tôi đi suốt chặng đường dài lịch sử của mười bẩy năm "tập trung cải tạo" ròng rã. Một quãng thời gian mà không một ai dù là có một trí tưởng tượng phong phú đến cách mấy có thể hình dung được chiều dài của nó với bao nhiêu là biến động thăng trầm và sóng gió của một đời người trong trại giam Cộng Sản, nhất là ở một đất nước nghèo đói và lạc hậu nhất thế giới như tại Việt Nam dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ngoài các vị tướng lãnh và đại tá, trung tá An Ninh Quân Đội (ANQĐ) hay các thiếu tá Cảnh Sát Đặc Biệt (CSĐB) là những người mang "nợ máu với nhân dân" như Cộng Sản vẫn tuyên truyền thì anh Hoà chỉ là thiếu úy trinh sát tỉnh (PRU) và anh Miên một hồi chánh viên hay anh Bửu Uy, một nhân viên PĐUTƯTB mà không hiểu vì sao cũng mang một lý lịch thật "nặng ký" mà Bộ Nội Vụ họ không muốn thả.
Cũng như anh Hiểu, người về từ tầu VNTT, chỉ vì nhớ vợ nhớ con mà đã nhất định bỏ bến bờ Tự Do mà mình vừa đặt chân tới để bước lên con tầu định mệnh mà trở về.
Nhưng than ôi khi tầu vừa vào hải phận Nha Trang thì các người trên tầu đều bị điệu ngay vào bờ và nhốt ngay vào trại giam không cần xét hỏi gì trước. Anh Hiểu thì bị kiên giam ngay trong điều kiện vô cùng ngặt nghèo bởi vì lý lịch anh là làm việc cho toà lãnh sự Mỹ tại Vùng II trước đó, cho nên họ nghi anh và các người trên tầu đều là gián điệp của Mỹ gửi về để đánh phá "Cách Mạng"?
Anh không những không về được căn nhà cũ để thăm vợ con để được nhìn mặt những người thân yêu một lần nữa mà cũng không ra khỏi khu biệt giam để rồi bất ngờ bị ném vào một cuộc hành trình kéo dài tới mười bẩy năm "tập trung cải tạo" tưởng như dài vô tận đầy những gian nan và uất hận.
Tổng kết một cách sơ lược thì thấy số tù nhân còn lại đều thuộc về những ngành dính dáng đến an ninh và tình báo như ANQĐ, CSĐB, và PĐUTƯTB, họ được xem như những nhân vật "nặng ký" nên được "chiếu cố" một cách kỹ lưỡng suốt mười bẩy năm, qua bao nhiêu là trại giam từ Nam ra Bắc và lại từ Bắc xuôi về Nam.
Nhưng nhìn những nét mặt bình thản có vẻ vô tư của họ và những nụ cười mà họ trao đổi với nhau, ít ai hiểu được bao nhiêu là gian truân hiểm nguy, nhọc nhằn, và tủi nhục mà họ đã phải đi qua trong suốt chiều dài của mười bẩy năm tù đầy và lao động khổ sai triền miên trên chính đất nước và quê hương của họ dưới mũi súng của quân thù nay là kẻ chiến thắng. Nhiều lúc nhìn lại chính tôi cũng không hiểu tại sao mà mình còn sống sót đến giờ phút này.
Phải chăng ông Trời phú cho con người một sức chịu đựng phi thường, một tiềm năng vô tận để đáp ứng lại mọi tình huống khó khăn nhất, căng thẳng nhất cả về tinh thần lẫn vật chất?
Phải chăng những lời cầu nguyện của chúng tôi hằng đêm đã động đến lòng thương xót của Trời Phật và Ơn Trên đã cứu giúp?
Có những tai nạn xẩy ra hầu như hàng ngày mà chúng tôi vẫn thoát khỏi trong đường tơ kẽ tóc bao nhiêu năm qua có phải đã có bàn tay mầu nhiệm nào che chở?
Tôi chợt nhớ tới một đoạn trong thông điệp gửi nhân dân Mỹ vào dịp Giáng Sinh vào khoảng năm một chín tám ba, Tổng Thống Ronald Reagan "đã đề cập đến tình hình thế giới, chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Nga Sô, và cuối bản thông điệp Tổng Thống có gửi lời thăm hỏi đến gia đình và những tù nhân chính trị tại Việt Nam; những con người trước kia đã hằng ngày đối mặt với quân thù ngoài chiến trường, và nay trong trại giam vẫn hằng ngày đối diện với kẻ thù, đang phải chịu những sự trả thù một cách tàn bạo và hy sinh trong lặng lẽ âm thầm, và Tổng Thống nhắn nhủ rằng ông và chính phủ Hoa Kỳ không bao giờ quên họ - những vị anh hùng".
Sau đợt thả Tết năm Nhâm Thân đầu năm một chín chín hai thì tổng số những người tù cuối cùng của Ba Sao chuyển vào Hàm Tân bốn năm trước từ một trăm năm mươi tư người bây giờ chỉ còn lại đúng hai mươi người. Hai mươi người này được tập trung hết vào đội 23 để tiếp tục lao động mỗi ngày, nhưng tình hình đã hoàn toàn đổi khác thuận lơị một cách bất ngờ. Chúng tôi chỉ đi ra hiện trường lao động cho có lệ chứ không còn phải lao động theo chỉ tiêu như trước.
Quân số đội 23 là hai mươi người, nhưng đúng ra phải kể cả con chó Pepsi rất là dễ thương của Hoàng Hiểu -người về từ VNTT- nữa là hai mươi mốt.
Con Pepsi này anh Hiểu đã xin khi nó mới sanh ra và nuôi nó lớn lên thành con vật được cưng chiều nhất của đội, được mọi người yêu thích và mỗi khi đội xuất trại lao động là nó chạy theo.
Anh đặt tên cho nó là Pepsi không biết có phải để nhớ lại vùng đất Tự Do mà anh vừa đặt chân đến nhưng đã chối bỏ nó rồi bước lên tầu VNTT để tìm về với vợ con và sa chân vào gông cùm xiềng xích?
Khi anh Hiểu vào rừng đi đốn củi cho đội thì con Pepsi cũng chạy theo, hay lẽo đẽo theo tôi ra chỗ lao động nằm trong bóng mát nhìn các ông chủ của nó cuốc đất hay trồng cây, hoặc theo anh Thắng, đầu bếp của đội nằm trong lán để chờ đến chiều trước khi về trại là được anh Hiểu, tôi hay anh Thắng tắm cho nó bên cạnh giòng suối. Những lúc nó được tôi sát sà bông và tắm rửa sạch sẽ xong thì thường nhìn tôi với cặp mắt biết ơn rồi lon ton theo đội vào trại.
Có lần nó chạy vào rừng sâu rỡn chơi cái gì không biết, khi về thì ôi thôi hôi hám chịu không nổi và tôi đã phải nhấn đầu nó xuống giòng suối một lúc rồi mới dám sát sà bông và cọ rửa cho nó. Bực quá, tôi phát cho nó mấy cái thật mạnh vào mông vậy mà nó biết lỗi và im lặng chịu đòn đuôi cúp xuống va không dám phản ứng gì.
Có những lần tôi được gọi ra khu thăm nuôi và trong khi đang ngồi nói chuyện với gia đình, tôi nghe thấy tiếng cào cào vào cánh cửa và cái đầu của con Pepsi ngó vào trong để cho tôi thấy là nó cũng có mặt như là một thành viên trong gia đình vậy, thật là dễ thương hết sức.Nó chờ cho đến khi tôi bước ra vuốt đầu nó khen ngoan thì mới vẫy đuôi chạy mất về đội.
Nhiều lúc tôi cũng không giải thích được, y như là nó nghe được tiếng người vậy nên khi thấy tôi chuẩn bị vô trại thì sau đó nó chạy theo và ra tận khu thăm nuôi để tìm tôi cho bằng được.
Trong thời gian tại trại Hàm Tân, một điều đặc biệt là buồng giam chúng tôi không có khoá cửa ban đêm, trong khi cứ sáu giờ chiều là khu bên trại hình sự cửa ngõ đều khoá trái. Chỉ có điều là đúng chín giờ tối thì có một cán binh bảo vệ đi tuần ngang qua và nhắc chúng tôi vào trong buồng không ở ngoài sân nữa và khép hờ cửa lại mà thôi. Điều này làm tôi nhớ lại khi mới bị tập trung vào "cải tạo" tại trại cô nhi Long Thành thì chung quanh chỉ có một hàng rào dựng lên với những tấm liếp bằng tôn đơn sơ mà thôi và các căn phòng thì không có cả cửa sổ và cửa ra vào nữa, không khóa cửa y như bây giờ, một chu kỳ đã khép kín lại chăng?
Một đặc biệt nữa của trại Hàm Tân này mà thiếu tá Nhu trưởng trại dành cho chúng tôi là tù nhân chính trị được mời đi xem các phim bộ mỗi đêm trên hội trường miễn phí trong khi hình sự nam và nữ phải mua vé. Đây cũng là một hình thức kinh doanh rất thành công của thiếu tá Nhu vì trong tù có gì mà giải trí đâu cho nên tối đến là hội trường đông nghẹt tù nam và tù nữ trong những bộ quần áo thời trang và cũng là dịp cho họ hò hẹn gập gỡ nhau.
Một nhóm chúng tôi thường hay đi cùng với nhau những buổi tối để xem những phim bộ nổi tiếng lúc bấy giờ như "Võ Tắc Thiên", "Thái Bình Công Chúa",v.v., và mỗi khi đến cổng hội trường thì các anh chị trật tự đều chào hỏi chúng tôi một cách trân trọng, và đứng qua một bên nhường đường cho chúng tôi vào và hai hàng ghế trên cùng là ưu tiên để trống dành cho các bác, các chú, các anh tù chính trị.
Nơi ăn ở của chúng tôi vì số lượng còn lại quá ít nên được dành cho hai buồng nhỏ nhưng sạch sẽ trong một góc trại, và có giường đơn riêng cho mỗi người chứ không còn phải nằm xếp lớp như cá mòi trước kia trên những phản gỗ hay xi măng; còn toàn khu trại rộng mênh mông là dành cho tù hình sự nam và nữ.
Trong thời gian này, chúng tôi có phần may mắn vì dù là ít người nhưng phía bên hình sự từ trật tự viên đến tù nhân nam nữ thẩy đều tỏ ra có thiện cảm với chúng tôi nên những năm tháng cuối cùng ở đây cũng dễ chịu và không có gì nguy hiểm. Một phần cũng do khi họ có cần gì thì anh em chúng tôi đều bảo nhau giúp đỡ cho họ về thuốc men hay thực phẩm khô khi gia đình họ chưa tới thăm kịp thời. Đây cũng là phẩm chất của người Quốc Gia trong con người tù nhân chính trị, cho nên khi đi đến đâu cũng đối xử với lòng hảo tâm và nhờ đó mà chiếm được nhân tâm mọi người, làm dịu đi sự căm thù của tuyên truyền chống lại họ hay chuyển thù thành bạn.
Thật là hoàn toàn trái ngược với thời gian khi mới chuyển trại từ Nam ra Bắc sau khi mất miền Nam, và phải ở chung với bên hình sự với sự đối xử như muốn nhận chúng tôi xuống bùn đen.
Ban ngày thì lao động và khẩu phần ăn thiếu thốn đã làm chúng tôi kiệt quệ về sức khoẻ, ban chiều về trại lại phải nghe những tiếng mắng chửi thậm tệ nào là "bán nước" nào là "Mỹ Ngụy",v.v., từ phiá các đội lao động hình sự mà tôi tin là có bàn tay khích động của các cán bộ của họ đằng sau lưng. Mục đích là làm cho chúng tôi thêm ê chề và là một hình thức trả thù cả về thể xác lẫn tinh thần đối với những người bại trận.
Nhìn lại bốn năm trước, khi chuyển trại từ Ba Sao Nam Hà về Hàm Tân Z-30D, miền Nam, chúng tôi chín mươi người tù cuối cùng tại miền Bắc được tập trung với những anh em còn lại trong Nam thành tổng số khoảng một trăm năm mươi tư người và chia ra thành hai đội để đi lao động.
Đội 23 gồm các tướng và các anh tuổi từ năm mươi lăm trở lên và được lao động nhẹ hơn, và phần còn lại dưới năm mươi lăm tuổi thì được "biên chế" về Đội 20 và lao động chỉ tiêu theo như bên hình sự. Được cái thuận lợi là khí hậu miền Nam dù ban ngày có nóng nực đi chăng nữa nhưng ban đêm thì rất dễ chịu chứ không nóng như nung người về đêm của mùa Hè hay giá lạnh căm căm của mùa Đông mưa phùn gió bấc của xứ Bắc nên sức khoẻ chúng tôi cũng dần dần khá lên. Gia đình cũng ở gần nên sự tiếp tế được thường xuyên hơn.
Nhưng sau mười ba năm lưu đầy từ Nam ra Bắc, không ngờ cuối cùng về Hàm Tân chúng tôi lại bị cưỡng bách lao động khổ sai trong khi tay trưởng trại công khai tuyên bố là các anh về đây để được ở gần gia đình và chờ ngày được thả về mà thôi.
Một hôm, có bão rớt ở miền Trung và vùng khu rừng lá Buông này thì chỉ mưa lất phất nhưng gió mạnh, và tụi tôi được lệnh "vô thung" tức là theo các đội hình sự vào sâu trong thung lũng để trồng cây đào lộn hột bấy giờ là mục tiêu sản xuất chính của trại.
Khi đi qua một khu rừng thưa, dù là vác trên vai cuốc xẻng mà chúng tôi vẫn cố lần từng bước một để bám chặt chân xuống đất vì gió thổi quét ngang rất nguy hiểm. Mãi mới di chuyển ra khỏi được vùng gió xoáy đó.
Không ai bảo ai chúng tôi đều quẳng các đồ nghề xuống bên đường và ngồi nghỉ, người vấn điếu thuốc, người nhấp ngụm nước trước cặp mắt ngạc nhiên của tay quản giáo và bảo vệ trong khi các đội hình sự khác vẫn từ từ qua mặt. Tay quản giáo kêu anh đội trưởng cho đội tiếp tục lên đường để vào khu sản xuất, anh đội trưởng nói là anh em đều đã mệt và phải nghỉ một chút rồi mới đi được. Thường thì bao giờ quản giáo ra lệnh thì đội mới được nghỉ ngơi, bây giờ tự dưng tất cả đội nghỉ ngang xương làm cho tay quản giáo vừa tức giận vừa ngạc nhiên. Y sợ trách nhiệm nên hối thúc mọi người đứng dậy.
Có lẽ tức nước vỡ bờ vì tuổi đời đều đã cao, sức khoẻ không còn mà vẫn bị cưỡng bách lao động theo các đội hình sự trẻ tuổi nên anh em mỗi người một câu để chống đối lại sự cưỡng bức lao động phi lý đó nên như ngọn sóng càng lúc càng lên cao dần và bùng nổ ra thành một cuộc biểu tình ngồi lần đầu tiên xẩy ra của đội 20 trước con mắt tròn xoe của tay quản giáo và đám cán bộ của các đội khác đang xúm lại chỉ chỏ.
-"Các ông phải biết rằng con vật mà dồn nó vào chân tường
thì nó cũng phản ứng chứ đừng nói gì con người" .
-"Ông vào trong trại thông báo cho Ban biết rằng chúng tôi không
thể lao động như thế này được nữa và tùy Ban quyết định."
Tay quản giáo đành phải bảo chúng tôi vào một căn nhà hoang bên đường để tạm nghỉ trong khi hắn đạp xe đạp vào trại để xin chỉ thị.
Đến nước này rồi thì không thể lui lại được nữa và anh em chúng tôi nhìn nhau và sẽ chấp nhận bất cứ hình phạt nào chứ nhất quyết không lao động ngày hôm đó.
Một giờ đồng hồ trôi qua không thấy gì, rồi một giờ nữa thì có tay thượng úy, phó trại và hai cán bộ đến nói chuyện. Sau khi nghe các anh em trong đội phân tích và phản đối cách lao động không hợp lý dành cho đội 20 thì tay thượng úy có lẽ đã được chỉ thị trước, đồng ý cho đội rút về trại.
Kể từ ngày hôm đó thì đội 20 sẽ chỉ lao động chung quanh trại mà thôi và không phải theo chỉ tiêu như bên hình sự nữa. Anh em chúng tôi thở ra nhẹ nhõm với chiến thắng bất ngờ đó và lục tục kéo về trại trước những cặp mắt ngạc nhiên của các tay cán bộ và cán binh bảo vệ vì nếu như bên hình sự mà chống đối như vậy thì cùm ít nhất hai tuần lễ, biệt giam và cắt thăm nuôi.
Trong bốn năm chúng tôi ở trại Hàm Tân, quy chế về thăm nuôi cũng được nới lỏng nên gia đình đến thăm có thể truyện trò thoải mái chứ không bị khó chịu vì sự hiện diện của tay cán bộ phụ trách như những năm mới được gia đình đến thăm tại các trại ở miền Bắc.
Tay trại trưởng thiếu tá Nhu cũng tỏ ra rất nể trọng các cấp chỉ huy của tù chính trị và thỉnh thoảng buổi tối lại mời mấy ông tướng tù chính trị ra nhà riêng để uống trà và thăm hỏi.
Thời gian thấm thoát thoi đưa, vậy mà chúng tôi đã trải qua bốn năm rồi ở trại Hàm Tân, ngồi trên chiếc ghế đá hơi sương đêm bắt đầu thấm lạnh. Tôi đứng dậy bước vào buồng để lại một đêm nữa sắp qua đi. Cái lạnh làm cho tôi nhớ lại một đêm về sáng, một đêm mà suốt cuộc đời tôi không sao quên được.
Phần II
Cánh cửa Địa Ngục
Chúng tôi ngồi đó trên dốc đồi thoai thoải nhìn xuống hướng xa lộ chạy về Sàigòn phía bên ngoài của một lớp hàng rào đan vào nhau bằng những tấm tôn mỏng chạy vòng chung quanh khu làng cô nhi Long Thành nay đã được biến thành trại tạm giam cho các tù "cải tạo" thuộc chế độ cũ .
Trời đã mát và bóng nắng đang lùi xa dần về hướng xa lộ, hơn ngàn anh em chúng tôi - những người đang bị tập trung tại cái cô nhi viện hoang vắng này đã một năm rồi - thường vẫn hay đi tản bộ quanh khu nhà hay ngồi bên dốc đồi mà mắt hướng về phía Sàigòn sau bữa cơm chiều. Có lẽ trong mỗi người, tuy không nói ra nhưng ai cũng tự hỏi bây giờ những người thân yêu của họ đang làm gì và có nhớ đến họ như họ đang thương nhớ đây không? Và cuộc sống của những người thân thương ấy bây giờ ra sao sau một năm dài không tin tức?
Tôi nhớ lại một năm trước, hôm xách ba lô và nhờ cậu em họ chở đến nơi tập trung là trường Chu Văn An trước đôi mắt mở to ngạc nhiên của hai đứa con lúc đó mới bốn và năm tuổi và chúng hỏi tôi rằng Bố đi đâu vậy và bao giờ thì Bố về? Tôi cố ngăn niềm xúc động đang dâng lên trong lòng và bảo cậu em họ nổ máy xe ra đi mà không dám ngoảnh nhìn lại và cũng không ngờ rằng tôi sẽ chẳng bao giờ còn trở về mái nhà đó nữa.
Ngày ra đi ấy theo như lời tuyên truyền của Uỷ Ban Quân Quản thành phố thì sẽ kéo dài một tháng, nhưng không ngờ thời gian đó đã thành như thiên thu bất tận nhằm nghiền nát cuộc đời của hàng trăm ngàn thanh niên miền Nam trong những trại giam mà được khoác cho chiếc áo lừa bịp cả trong nước và thế giới là "khoan hồng nhân đạo" và "tập trung cải tạo".
Khi bước chân vào ngôi trường Chu Văn An năm xưa, lòng tôi không khỏi bồi hồi nhìn lại ngôi trường thân yêu mà đúng mười năm trước tôi đã thi đậu Tú Tài II để rồi trôi vào giòng đời.Mười năm rồi, thời gian đủ để cho vật đổi sao dời nhưng sao ngôi trường vẫn những hình nét ấy không đổi thay.
Một người dáng thư sinh vừa đi ngang qua chỗ tôi ngồi ngoài hành lang, đúng là ông thầy trẻ tuổi dậy Anh văn chúng tôi năm Đệ Tam. Vẫn cái dáng thư sinh và gọng kính trắng ấy, nhưng hình như thầy gầy ốm đi nhiều và tâm trí thì để nơi đâu nên cứ lầm lũi bước đi qua đám người trong đó có tôi, đang nằm ngồi ngổn ngang bên trong và ngoài các lớp học, những con người với một tương lai vô định.
Sau khi chiếm được miền Nam, với cái chiến thắng quá nhanh và hầu như bất chiến tự nhiên thành đó, Cộng quân quá ngỡ ngàng nên có nhiều thành phố bỏ ngỏ cả tuần lễ sau Cộng quân mới dám lò dò đến để "tiếp thu" vì vẫn còn e ngại là người Mỹ chưa thực tâm bỏ rơi miền Nam hay dụ họ vào thành phố bỏ hoang để tiêu diệt như một số cán binh họ nói lại sau này.
Ủy Ban Quân Quản với sự chỉ đạo của miền Bắc đã tuyên truyền ầm ĩ trong nước và trên thế giới về cái gọi là chính sách "khoan hồng nhân đạo" và cho hàng triệu người đã cộng tác với chế độ cũ "được đi học tập cải tạo" ba ngày tại địa phương cho sơ cấp và mười ngày hay một tháng cho trung và cao cấp.
Tôi được thông báo là chuẩn bị đi một tháng và tập trung tại trường Chu Văn An. Ngồi nhìn chung quanh, tôi chưa gập một khuôn mặt thân quen nào, có thể vì quá đông. Tôi bèn nằm dài ra dựa vào ba lô tìm giấc ngủ. Khoảng nửa đêm thì nghe tiếng của một đoàn xe căm nhông Nga Sô loại Motorola chạy vào khuôn viên của trường và chúng tôi được đánh thức dậy để lên hết trên xe, rồi đoàn xe di chuyển dọc theo xa lộ và thẩy chúng tôi xuống làng cô nhi Long Thành này.
Lúc đó cô nhi viện này chỉ còn là những cái xác nhà trống tuyếch không cửa sổ lẫn cửa ra vào và nằm thành hai dẫy.
Ngày thứ hai mươi chín tại trại Long Thành, anh Thúy thuộc Phủ Đặc Ủy TƯTB nằm đối diện, nhìn tôi nheo mắt lại ý nói rằng thời hạn một tháng như họ tuyên bố đã chấm dứt. Anh Lộc, Quyền Đặc Ủy Trưởng thì hỏi tôi nghĩ ra sao và khi tôi chưa kịp trả lời thì anh đã nhìn tôi một cách rất bi quan và nói là anh không tin họ sẽ thả chúng ta ra đúng một tháng như họ đã tuyên truyền.
Ngày hôm sau đúng một tháng tròn đi "cải tạo", tất cả đều yên tịnh không có một dấu hiệu gì khác lạ và y như một ngày thường; cho đến buổi chiều thì đột nhiên có một nhóm cán bộ mặc quần áo đồng phục xanh theo kiểu "giải phóng", đội mũ tai bèo và vài tên chỉ huy Bắc Việt vào trại và ra lệnh cho chúng tôi tập hợp lại hết trong một căn nhà trống.
Có một anh Bảy nào đó đứng ra nói chuyện về chính sách "khoan hồng nhân đạo" và về những "tội" mà chúng tôi đã làm trước kia "chống lại nhân dân". Cuối cùng anh nói một câu thật là ngắn gọn và thật là giản dị rằng thời hạn một tháng đã chấm dứt và chúng tôi không phải đóng tiền gạo hàng tháng nữa mà từ nay Đảng và Nhà Nước sẽ nuôi các anh "học tập" cho tốt để trở thành "người dân lương thiện" hầu hội nhập với xã hội sau này, và hỏi xem ai có thắc mắc gì không.
Khi anh vừa dứt tiếng, cả căn nhà dùng làm hội trường chợt im lặng, một cái im lặng chết chóc khác thường đang bao phủ tất cả chúng tôi và không ai bảo ai mọi người đều lặng lẽ trở về chỗ nằm.
Đêm ấy, tôi không tài nào chợp mắt được, đêm Long Thành thật là mát mẻ, trên trời ánh sáng lung linh mờ ảo và nhạt nhòa của Mặt Trăng thượng tuần tỏa xuống thật yếu ớt không đủ đem xuống một chút tin yêu nào cho những con người đang sa cơ thất thế trong tay địch. Tôi ra ngoài hàng hiên ngồi tựa vào tường và nhìn ra xa lộ lúc đó đã tím thẫm và lâu lắm mới thấy một chiếc xe chạy vụt qua như nó cũng sợ bóng đêm vậy.
Một lát sau, tôi thấy lục tục một số bạn cũng ra hàng hiên ngồi hút thuốc và tâm sự với nhau. Một anh bạn đốc sự Phó Quận nói nhỏ với tôi:"Họ chỉ cần giam giữ chúng ta như thế này thôi thì buồn chán quá chúng ta từ từ cũng chết."
Không biết đó có phải là điềm báo trước hay không vì sau đó không những thời gian giam cầm không còn hạn định nữa mà họ cũng chẳng cho chúng tôi ngồi không để buồn chán đến chết, mà chiến dịch "Lao Động là Vinh Quang" còn làm cho chúng tôi dần dần kiệt sức trong tình trạng sống dở chết dở.
Buổi tối hôm đó, lần đầu tiên tôi hút hết bao thuốc Basto xanh với anh bạn bên cạnh và nằm thao thức mãi chờ trời sáng.
Chúng tôi bắt đầu làm quen với lao động tay chân như trồng khoai, sắn, rau muống, lên luống và thời gian từ từ trôi qua cho đến đúng sáu tháng thì có một đợt thả lớn và hầu hết các chị và các anh em tương đối "nhẹ tội" hơn đã được kêu tên ra về và tổng số hơn ba ngàn người chỉ còn lại hơn một ngàn và được "biên chế" về hết bên dãy trái, còn dãy bên phải thì bỏ trống.
Sau đó thì họ sàng lọc lại và "biên chế" chúng tôi vài lần nữa và tôi được đưa về căn nhà số sáu cùng với một anh Sửu, bạn cùng ngành nhưng khác sở và một số sĩ quan cấp tá của ngành đặc biệt, một số thuộc ngành an ninh và Phủ Đặc Ủy.
Sống trong trại Long Thành được một năm thì một đêm, một đêm cũng bình thường như những đêm khác, nhưng tôi không bao giờ quên được cái đêm tăm tối ấy.
Buổi tối hôm đó, đang nằm ngủ thì tự dưng có linh tính gì khiến tôi thức dậy, đồng hồ mới chỉ một giờ sáng, tôi tung cái mùng ra và bước ra ngoài hiên nhìn ra sân.
Cả khu trại yên lặng như tờ và đen như mực không một ánh sáng gì của trăng sao, chỉ thỉnh thoảng mới thấy vài cán binh mũ tai bèo và bộ đội Bắc Việt vác súng đi tuần ngoài sân ra hiệu cho tôi trở vào căn nhà.
Vừa quay mình định bước chân vào thì tôi chợt thấy lấp loáng ánh đèn pin từ phía cổng trại chiếu vào về phía tôi đang đứng và tiếng người nói lao xao và chỉ một phút sau thì khoảng vài chục bộ đội đa số là Bắc Việt và súng AK lăm lăm trong tay di chuyển thẳng về căn nhà tôi đang ở.
Tôi vội chui lại vào trong mùng và huých tay đánh thức hai thằng bạn hai bên thức dậy. Vừa lúc đó thì đám bộ đội đó xộc vào căn phòng và ra lệnh cho chúng tôi ra tập hợp ngoài sân.
Tôi cảm thấy một thoáng hơi lạnh chạy dọc theo xương sống rồi bình tĩnh trở lại nhưng mấy anh bạn khác thì không biết có phải vì sương đêm đang đổ xuống thấm lạnh nên tay châm điếu thuốc mãi mà không cháy.
Chúng tôi nhìn nhau lần nữa và trong đầu nghĩ rằng thế là xong và mỗi người sẽ lãnh một viên đạn trả nợ cuộc đời - cái giá cho kẻ thua trận.
Căn nhà chúng tôi đang ở gồm hai trăm người và sắp hàng trước sân, toán bộ đội khoảng bốn chục người chia ra bao vây chúng tôi rồi một tay chỉ huy rút một tờ giấy trong túi ra nói rằng những ai có tên thì đứng qua một bên.
Anh ta còn trẻ và không đeo "quân hàm" nên không rõ cấp bậc gì. Rất thản nhiên và cũng rất là từ từ anh ta đọc tên từng người một, đến người thứ tư là họ tên của tôi trong tổng số tất cả bốn mươi người đã được sàng lọc trong danh sách hai trăm người.
Tay chỉ huy này với cặp mắt lạnh lùng bảo chúng tôi bốn mươi người hãy gấp rút chuẩn bị để di chuyển với hành lý gọn nhẹ, trong khi các tay cán binh thì lăm lăm tay súng như chực nhả đạn và mắt thì nhìn chúng tôi một cách thù hận.
Tôi vội vã nhét được những gì có thể vào trong một cái ba lô và ra dấu cho các bạn còn ở lại những món đồ mà tôi không đem đi được để họ tiếp tục có cái mà dùng, rồi quay ra giúp cho anh bạn cùng ngành với tôi xách theo cái thùng đựng nước. Tôi cũng không rõ anh đem theocái thùng này để làm gì trong khi có nhiều thứ khác cần mang theo hơn, hay có lẽ thấy cái gì trong tầm tay thì anh xách theo vì đầu óc cũng đang bối rối chăng.
Ngoài sân, trời thì tối đen và chúng tôi chỉ có thể phân biệt được là đang di chuyển về phiá cổng trại nhờ ánh đèn đường yếu ớt chiếu xuống và ánh đèn pin loang loáng của các cán binh đi theo áp tải.
Anh bạn đang đi bên cạnh tôi chợt thở dốc có lẽ vì cơn suyễn và buông cái túi xách xuống dừng lại để thở, một tên cán binh bước lại giơ báng súng lên thúc dục, tôi vội giơ tay ra cản và xách dùm cái túi và đi kèm sát bên anh.
Cuối cùng thì chúng tôi cũng ra đến chỗ đậu xe cách đó gần nữa cây số. Tên chỉ huy lúc nãy ra khẩu lệnh cho chúng tôi khi đoàn xe di chuyển, nhắc lại từng điểm chúng tôi không được làm khi ngồi trên xe, và nói sẽ trừng trị nếu ai vi phạm, và lần đầu tiên trong đời tôi biết cái còng số tám và sợi xích sắt. Vì số còng đã hết nên họ đã dùng những sợi dây xích bằng sắt để xích hai người lại với nhau. Tay trái tôi xích vào tay phải của anh Sửu và tên cán binh siết lại thật chặt rồi mới tra ổ khoá vào. Cổ tay anh Sửu lớn hơn cổ tay tôi nên tôi nhìn rõ nét đau đớn hiện lên trên khuôn mặt sạm nắng của anh.
Anh cũng làm cho toà đại sứ Hoa Kỳ (HK) tại Sàigòn như tôi, anh thì yểm trợ cho Tổng Nha Cảnh Sát Đô Thành còn tôi thì cho Phủ Tổng Thống. Anh đã đi theo bao nhiêu là chuyến bay trong tháng Tư năm một chín bẩy lăm từ Sàigòn ra Guam và vài căn cứ nữa của Mỹ trên Thái Bình Dương (TBD) để chuyên chở tài liệu và nhân viên không thiết yếu di tản trước.
Các nhân viên sứ quán Mỹ cần thiết thì đã nhận được lệnh là phải ở lại yểm trợ cho chính phủ VNCH cho đến giờ phút cuối cùng rồi mới được di tản sau. Không ngờ chuyến cuối cùng thì anh bị kẹt lại Sàigòn vì chương trình di tản bằng đường hàng không từ Tân Sơn Nhất đã bị đình chỉ vì tên phi công nằm vùng Nguyễn Thành Trung đã lợi dụng tình hình để bỏ bom vào sân bay Tân Sơn Nhất; và chỉ còn con đường độc nhất di tản là bằng trực thăng mà thôi.
Riêng tôi thì ba ngày trước khi Sàigòn sụp đổ đã được các cố vấn Mỹ thân cận trong buổi họp sau chót tại sứ quán Hoa Kỳ hứa hẹn là tôi vẫn nên hết sức yểm trợ phía chính phủ VNCH đến cùng, và họ sẽ đem trực thăng đến đón gia đình tôi tại nhà dù là trong tình trạng dầu sôi lửa bỏng.
Kế hoạch di tản thứ nhì là năm ngàn thủy quân lục chiến Mỹ (TQLC) từ Đệ Thất Hạm Đội ngoài khơi TBD sẽ vào để thiết lập một vòng đai an toàn từ Sàigòn ra tới Vũng Tầu cho chương trình di tản bằng đường bộ được tiếp tục nếu đường hàng không bị trở ngại.
Khi buổi họp kết thúc, mọi người đều tin tưởng rằng chương trình di tản sẽ được thực thi hoàn hảo và những nhân viên thiết yếu của sứ quán HK cũng sẽ được ra đi chu toàn trước khi Sàigòn rơi vào tay quân Bắc Việt.
Chiếc trực thăng hứa hẹn đón gia đình tôi ấy không bao giờ xuất hiện và vòng đai an toàn Sàigòn-Vũng Tầu của TQLC Mỹ đó cũng trôi theo giòng nước như những lời hứa cam kết không bao giờ bỏ miền Nam của chính phủ và các Tổng Thống HK.
Thế rồi chúng tôi leo lên những xe cam nhông bít bùng, chỉ hở phía sau, chạy bon bon trên xa lộ, thỉnh thoảng mới thấy dọc hai bên có một vài hàng quán ven đường đang chuẩn bị mở cửa cho một ngày buôn bán mới, với những ngọn đèn dầu hiu hắt. Thành phố hình như đang say ngủ, còn tất cả chỉ là bóng đêm và gió thổi xào xạc trên những ngọn cây.
Khoảng một giờ đồng hồ sau khi xe chạy trên xa lộ và rẽ quặt vào qua ba cánh cửa sắt đến trong sân thì chúng tôi nhận ra đang ở trong trại Cải Huấn Thủ Đức.
Khi bốn chục người được dồn chung vào một căn phòng xong thì cánh cửa sắt to lớn nặng nề đóng sầm lại và khoá trái bên ngoài.
Một năm ở trại Long Thành, họ đã để cửa ngỏ, bây giờ lần đầu tiên họ chính thức đối xử với chúng tôi như những tù nhân.
Sau ba ngày giam giữ tại trại Thủ Đức, đêm ngày thứ ba nghe thấy tiếng lách cách mở khoá, chúng tôi ngồi dậy và được lệnh nhanh gọn tập trung di chuyển nữa.
Ra đến sân trại thì thấy chai lọ và các vật dụng cá nhân linh tinh vất đầy sân bừa bãi, như vậy là đã có những toán khác vừa ra đi xong.
Hai chiếc xe âm thầm chạy trong đêm hướng về thành phố, tim tôi tự dưng đập mạnh hơn khi nghĩ đến những người thân yêu chắc giờ này đang say ngủ nhưng rồi hai chiếc cam nhông không đi vào thành phố mà lại rẽ vào phi trường và đổ đám tù nhân xuống bên cạnh chiếc máy bay vận tải khổng lồ Hercules C-130 của HK để lại cho Không Quân VNCH,
Ngồi trên chiếc C-130 với phi công là một trung tá cũ của không quân VNCH lòng tôi ngổn ngang trăm mối vì chỉ mới mấy ngày qua mà bao nhiêu là biến đổi và không biết tương lai mình và các bạn mình sẽ đi về đâu?
Chiếc C-130 này là loại máy bay mà tôi sử dụng nhiều nhất trước kia khi còn làm việc cho Đệ Thất Không Đoàn Hoa Kỳ trong những chuyến bay ra miền Trung nhưng không ngờ bây giờ tôi lại ngồi trên chiếc ghế vải này trong thân phận tù tội, cuộc đời quả thật không ai học được chữ ngờ. Sau này tôi được tin là viên trung tá phi công VNCH chở tụi tôi chuyến đó và một vài chuyến nữa xong cũng được Đảng và Nhà Nước Cộng Sản chiếu cố "khoan hồng" cho đi "cải tạo". Họ chỉ sử dụng một số nhân tài của miền Nam tạm thời xong là cho đi luôn nếu có dính dáng gì đến chế độ cũ.
Một thời gian sau, tôi còn nghe được tin là đám "Mặt Trận Giải Phóng miền Nam" cũng được Hà Nội cho đi chỗ khác chơi, và "Thành Đồng" đã trở thành "đồng nát" hết.
Chiếc C-130 cứ bay lặng lẽ hết giờ này qua giờ khác, chúng tôi nhìn nhau tự hỏi hay là họ cho phi cơ bay vòng vòng sợ chúng tôi đoán biết được nơi sẽ đến? Có anh em đoán rằng họ sẽ đem tù ra Phú Quốc để giam giữ tại đó nhưng sau khi bay được khoảng gần bốn tiếng đồng hồ thì tay cán bộ ngồi cạnh tôi, tóc bạc, không đeo cấp bậc quay sang hỏi tôi là đã đi trên chiếc C-130 này lần nào chưa và có biết đi đâu không. Khi ông ta hỏi lần thứ nhì thì tôi mới trả lời là đã nhiều lần rồi và không biết. Khi ông ta nói nơi máy bay đang đáp xuống thì tất cả các anh em ngồi gần nghe được thẩy đều bàng hoàng.
Chiếc Hercules khổng lồ đang lượn cánh để đáp xuống phi trường Gia Lâm, miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Chúng tôi cũng như hàng vài chục ngàn người tù chính trị khác đã được phân loại "nguy hiểm cho chế độ" và phải được di chuyển ngay bằng mọi phương tiện từ Nam ra Bắc. Bứng chúng tôi khỏi mọi gốc rễ miền Nam để họ rảnh tay đưa miền Nam mau chóng vào quỹ đạo của xã hội chủ nghĩa.
Lúc đó trời đã rạng sáng và vào cuối mùa Hè, chúng tôi đặt chân xuống đất bên cạnh những túi xách hay ba lô cá nhân, hai người một vẫn bị còng lại với nhau suốt chặng đường từ trại Cải Huấn Thủ Đức ra sân bay và trên máy bay.
Nhìn sân bay Gia Lâm, một sân bay được coi là lớn vào hàng thứ nhì tại miền Bắc mà hoang tàn và hoang phế như một sân cỏ với những đám cỏ tranh và bông lau cao đến nửa người mà không ai buồn ngó ngàng tới, tôi như có một linh cảm không lành về đợt chuyển trại này. So với sự nhộn nhịp của phi trường Tân Sơn Nhất thì sân bay Gia Lâm này là vùng đất chết. Tôi như cảm nhận được cái gì thật lạnh lẽo u ám không sinh khí khi vừa đặt chân xuống sân bay và miền đất hoang dã này.
Qủa thật chỉ trong một đêm, không ngờ chúng tôi đã giã từ miền Nam thân yêu để đặt chân lên miền Bắc xã hội chủ nghĩa hoàn toàn xa lạ như đến một đất nước khác không phải trên quê hương mình.Trên bước đường lưu đầy, tôi cũng không thể nào ngờ rằng bao nhiêu những gì tăm tối nhất, đọa đầy nhất, ngục tù nhất trên thế gian đang chờ đón tôi và các người tù này trong suốt mười hai năm trời ròng rã.
Nếu lúc đó họ ban cho mỗi người chúng tôi một phát súng thì họ còn một chút nhân đạo nhưng mười hai năm lao động khổ sai lưu đầy trong tình trạng thiếu ăn thiếu mặc và suy dinh dưỡng, qua những mùa Hè nắng chói chang kiệt sức ban ngày và oi bức mất ngủ ban đêm và những mùa Đông dài âm u lạnh thấu xương tủy thì chúng tôi chợt hiểu rằng họ không muốn cho chúng tôi chết đi dễ dàng.
Chính sách "khoan hồng nhân đạo" đó làm chúng tôi sống dở mà chết đi cũng không được bởi vì họ đã áp dụng đúng mức cái phương pháp "cải tạo" của Nga Sô và Trung Cộng trong các trại tập trung. Họ đã tìm ra cách trả thù thâm độc nhất là để cho chúng tôi sống nhưng chết đi từng giờ, từng ngày, từng tháng, và từng năm.
Chúng tôi đã vừa bước chân vào chốn Địa Ngục trần gian, nơi không có ngày tháng, nơi hoang vắng tình người, nơi mà sự sống và cái chết luôn kề cận bên nhau như bóng với hình, và nơi mà tính mạng con người không hơn cọng rơm và cỏ rác.
Cánh cửa của Địa Ngục vừa mở rộng ra để đón nhận chúng tôi vào.
Phần III
Hạnh Phúc Mong Manh
Anh ngồi bên những luống cải, rau muống và mấy cái dàn mướp, bí bầu và khổ qua, nghỉ một lát để chờ giờ nhập trại với các bạn trong đội 23. Các bạn anh hầu hết ai cũng tìm một mảnh đất nhỏ nào để canh tác riêng cho mình, nhờ thế mà vừa có được rau tươi sạch sẽ cho bữa cơm lại vừa giữ được sức khoẻ.
Anh là một trong 20 người tù chính trị của chế độ cũ còn sót lại sau bao nhiêu là đợt thả ở trại Hàm Tân Z-30D này. Vì số lượng còn lại quá ít nên trại đã hầu như để cho anh và các bạn được thoải mái lao động tự giác chứ không còn chế độ giao chỉ tiêu nữa, nên nhờ Trời cũng dễ thở hơn.
Bầu trời chiều nay một mầu xanh thẳm và trong vắt không gợn một áng mây. Anh nhìn ra chung quanh toàn là những cây Buông lớn nhỏ bao quanh khu vực sản xuất và những con suối róc rách chẩy qua gần đó, một vùng mà ngày trước là khu rừng thiêng nước độc ít ai dám ở, sau nhờ vào các người tù hình sự về đây đầu tiên rồi đến những tù chính trị về khai phá và đã làm cho khu vực này trở thành thuần hóa hơn và phát triển mạnh và đem lại sự sung túc cho trại từ dạo ấy.
Nhìn lại mình, anh vẫn không thể tượng tượng rằng mình vẫn còn sống, thật như là một phép lạ. Tay anh rờ một bẹ cải xanh đang vươn ra chắc nịch, nâng trái bí đã quá nặng lên trên dàn, để cảm nhận đích thực rằng mình vẫn còn hiện hữu trong một cuộc sống quá lênh đênh trên cõi đời này. Nhiều lúc anh cho rằng mình đã sinh ra dưới một ngôi sao xấu để tự an ủi mình mà thôi nhưng dầu sao thì mình vẫn còn đây dù là những người thân yêu nhất của anh thì bây giờ đã xa cách nghìn trùng.
Hạnh phúc nhỏ nhoi nhất của anh là những khi được thư từ hay những món quà nho nhỏ từ nửa bên kia vòng trái đất gửi về, dù là anh biết đêm hôm đó mình sẽ không thể nào đi tìm được giấc ngủ. Ban đêm, ngồi một mình trên chiếc giường đơn trong cái mùng vải trong khi đọc kinh và khấn nguyện trước khi đi ngủ, anh có lần thầm trách ông Trời bất công, tại sao vừa cho anh một chút hạnh phúc nhỏ nhoi thì đã lấy lại của anh một giấc ngủ? Tuy vậy, anh vẫn thầm nghĩ rằng số phận cuối cùng đã mỉm cười với anh bởi vì anh vẫn còn sống.
Những buổi chiều êm đềm như buổi chiều hôm nay với tiếng gió thì thào thổi qua rừng lá Buông, tiếng chim hót líu lo như gọi nhau bay về tổ ấm của chúng vì màn đêm sắp buông xuống, thì tâm hồn anh thật nhẹ nhàng và thấy như lòng mình lắng đọng và những cảnh vật chung quanh như mờ dần đi và cái con tầu ấy như từ từ hiện rõ dần ra như một cơn ác mộng mà anh không thể nào quên được...
Cuộc đời anh quả thật như một cuốn tiểu thuyết đầy những yếu tố bất ngờ kể từ khi anh và hàng ngàn người Việt Nam đã quyết định trở về quê hương trên con tầu Việt Nam Thương Tín (VNTT) định mệnh đó.
Chuyến trở về trên con tầu định mệnh mà đã vùi dập cuộc đời của hàng ngàn người chỉ vì lòng thương nhớ gia đình, thương nhớ quê hương của họ.
Khi miền Nam đang chìm trong khói lửa của biến cố 30 tháng Tư tang tóc thì anh may mắn đi thoát được đến đảo Guam, bến bờ của Tự Do - niềm ao ước vô biên của hàng bao nhiêu triệu người Việt Nam vào ngày mà Sàigòn sụp đổ và những năm tháng sau đó.
Vậy mà anh đã quyết định trở về sau một thời gian ngắn đến được đảo Tự Do này bởi vì vợ con anh đều bị kẹt ở lại Sàigòn.
Hình ảnh người vợ hiền và những đứa con dại còn ở lại quê nhà cứ ám ảnh tâm trí anh dù là anh đang được sống trong bầu không khí Tự Do và tạm đầy đủ về vật chất trên đảo này.
Trách nhiệm người chồng, người cha trong hoàn cảnh loạn ly đã không quay về kịp để đón vợ con mình và đành phải ra đi ngậm ngùi một mình đã làm cho anh bao đêm thao thức và đó cũng là tâm trạng của những người quyết định lên tầu VNTT để trở về quê hương.
Nhưng có một điều họ quên rằng quê hương của họ nay đã đổi thay, căn nhà xưa nay đã đổi chủ.
Khi những người trong đoàn bước qua cái cổng sau cùng để lên chiếc tầu VNTT thì những người Mỹ trong chương trình định cư đã hết lời khuyên can họ nên quay lại vẫn còn kịp bởi vì về tới Việt Nam (VN), họ sẽ bị giam giữ và tù đầy; nhưng lòng thôi thúc vì thương nhớ vợ con gia đình và quê hương đã thắng.
Anh cũng như họ bỏ ngoài tai những lời cảnh cáo của giới chức Hoa Kỳ và bước lên con tầu định mệnh.
Khi con tầu nhổ neo quay mũi hướng về hải phận VN thì họ không thấy đâu cái anh chàng mà tranh đấu hăng nhất thậm chí còn đốt phá một số căn lều trên đảo để đòi về VN mọi giá cho bằng được đâu nữa. Lúc ấy mọi người mới lờ mờ hiểu ra rằng anh ta là một Việt Cộng (VC) nằm vùng thì cũng đã quá trễ rồi.
Hoá ra là VC trong kế hoạch hậu chiến của chúng đã cài người vào giòng người di tản qua Mỹ để tiếp tục phá hoại trong cộng đồng chúng ta tại hải ngoại.
Con tầu vẫn lặng lẽ rẽ sóng và khi người tài công báo cho biết là sắp vào hải phận Nha Trang thì mọi người đều reo hò mừng rỡ vì người Quốc Gia chúng ta ai lại không nặng lòng vì gia đình vợ con và vì quê hương đất nước?
Nhưng niềm vui đó không kéo dài được bao lâu thì được lệnh từ trong bờ đánh ra là tầu phải bỏ neo ngoài khơi và không được tiến gần sát vào bãi biển khi chưa có lệnh làm mọi người đều thắc mắc.
Họ phải chờ đến gần tối thì mới thấy ba con tầu nhỏ có võ trang và bộ đội trên đó ra đón và đưa hết họ vào bờ để con thuyền VNTT lẻ loi nằm lại cho sóng vỗ rì rào ngoài khơi.
Lúc đó họ mới cảm thấy một cái gì nguy hiểm đang rình rập chung quanh nhưng đã quá muộn màng vì một màn lưới giăng ra đã phủ chụp xuống đầu họ bất ngờ, tóm gọn hết toàn bộ những người trở về trên con tầu VNTT. Một lực lượng vũ trang hùng hậu và một đoàn xe vận tải đã chờ sẵn để chào đón họ trên bãi biển.
Tất cả đều bị tống giam theo lệnh từ trên đưa xuống trong sự ngỡ ngàng đến cùng cực của mọi người và những lời phân bua giải thích như tiếng kêu trong sa mạc.
Một vài ngày sau thì những đàn bà và con nít được thả ra cho về trước, còn các thanh niên và đàn ông đều phải trải qua cuộc thẩm tra ngày đêm vì họ nghi ngờ rằng tình báo Mỹ đưa người về lại VN để đánh phá "cách mạng". Anh đúng là từ trên Thiên Đường phút chốc rơi xuống Hỏa Ngục trên đất nước của mình.
Anh đã bị họ khám xét không còn một chỗ nào trên người thoát khỏi cặp mắt cú vọ của mấy tên công an và phản gián. Những lời khai của anh là vì nhớ vợ con mà quay về không được họ chấp nhận và những cuộc hỏi cung như liên tu bất tận làm cho anh kiệt sức.
Họ khám xét từng centimét trên con người của anh từ cọng tóc đến ngón chân, thậm chí soi cả vào cổ họng, hốc mũi, hai vành tai cho đến cả hậu môn làm cho anh cảm thấy mình không còn là con người nữa trong tay của họ. Những tháng ngày giam giữ sau khi tầu về đến VN là những ngày tháng kinh hoàng cho anh và những người trở về.
Họ xem xét kỹ từng tờ giấy, chiếc bút bi, áo quần, giầy vớ, và tịch thu hết vòng vàng, đồng hồ và dĩ nhiên tất cả đô la mà anh đem về.
Một số nhỏ sau đó được thả về, còn đa số bị chuyển đến trại giam khác và bắt đầu một cuộc hành trình đến một nơi vô định với một bản án không công bố và không có thời hạn vì chủ trương của họ là thà giam lầm hơn thả lầm.
Anh còn bị chiếu cố kỹ hơn nữa vì trước năm 1975, anh là nhân viên của tổng lãnh sự Mỹ tại Nha Trang nên họ kết luận ngay là điệp viên Hoa Kỳ và không cần xét xử gì lâu la hơn.
Giấc mơ được về sum họp với gia đình được nhìn thấy vợ con của anh tan ra như bọt sóng đại dương một cách thật không thể nào hình dung ra nổi với cái chế độ mới kỳ quái này trên cái quê hương này nữa.
Anh không những không được nhìn thấy vợ con mình, gia đình anh cũng không hề được thông báo là anh đã trở về để đến thăm anh mà thân anh tự dưng sa vào vòng tù tội không biết lúc nào ra.
Cuộc đời anh từ đó gian nan và phiêu lưu còn hơn câu chuyện người tù khổ sai Papillon anh từng đọc khi trước.
Sau nhiều năm qua nhiều trại giam và ra lưu đầy tại miền Bắc thì anh mới bắt đầu nhận được tin gia đình như một cái sét đánh ngang tai vì vợ con anh quá nhớ thương anh và không chịu nổi đời sống kìm kẹp và tàn bạo của chế độ Cộng Sản nên đã lên đường vượt biển. Anh từ bên kia bờ đại dương theo tầu trở về, không gập được những người thân yêu, rơi vào tù tội trong khi vợ con anh lại nghĩ rằng anh đang trên đất Tự Do và lao ra biển để tìm đường sum họp. Ông Trời quả thật là quá trớ trêu để cho con Tạo xoay vần như không.
Bao nhiêu năm sau đó anh sống như người mất hồn trong một thân xác trống rỗng cho đến khi qua những gia đình bạn anh đến thăm nuôi thì anh được tin là vợ con anh đã đến được bến bờ Tự Do bình yên, lúc đó anh bắt đầu bình tĩnh trở lại và cố gắng sống còn để mong còn có ngày đoàn tụ.
Những ngày tháng đầu tiên trong phòng biệt giam, ăn uống thiếu thốn toàn khoai sắn và thẩm vấn căng thẳng ngày đêm, đã có những lúc anh nghĩ đến sự giải thoát cho thân xác hết đau khổ, nhưng hình ảnh vợ con hiện lên làm anh lại cố gắng chịu đựng từng ngày. Sau một thời bị biệt giam, anh được đưa ra buồng giam lớn và may mắn được ở chung với các bạn tù chính trị chế độ cũ và sức khoẻ của anh dần dần hồi phục.
Năm 1979, khi từng đoàn người trong Nam tải hàng tiếp tế cho chồng con của họ đang bị giam trong các trại miền Bắc thì việc thăm nuôi đó, những sự hy sinh đó của gia đình đã đem lại luồng sinh khí cho những người tù này trong đó có anh.
Ngay cả những trại giam và những cán bộ phụ trách khu thăm nuôi cũng bẩy tỏ lòng thán phục với gương hy sinh của những người vợ, người Mẹ hay thân nhân vất vả từ Nam ra Bắc. Ngoài ra, anh cũng lên tinh thần khi biết phía bên kia bờ biển Thái Bình Dương cũng có nhiều cá nhân hội đoàn VN và Hoa Kỳ đang ngày đêm tranh đấu cho những người tù chính trị sớm được thả ra khỏi trại giam.
Nhờ vào những sự tranh đấu này và sự tiếp tế vật chất tiền bạc thuốc men từ gia đình mà cuộc sống của anh và các bạn trong lao động khổ sai và lưu đầy cũng bớt phần gian khổ và nhân phẩm được tôn trọng hơn. Những người tù này không còn phải mặc áo quần đóng dấu "cải tạo" sau lưng nữa, có thể mặc quần tây áo sơ mi gia đình gửi đến, và buổi tối được ở ngoài sân cho đến chín giờ thì mới phải vào buồng giam.
Anh dù là qua bao nhiêu gian truân bao nhiêu là thăng trầm như từ cõi chết trở về cõi sống nhưng lúc nào anh cũng tỏ ra hoà nhã và vui vẻ với mọi người chung quanh nhất là với các bạn tù đống cảnh ngộ và được anh em thương mến.
Nhiều người cũng về từ tầu VNTT và cũng bị lưu đầy ra miền Bắc nhưng dần dần họ được thả ra về hết. Anh Hoá, Trung Úy cũng vì theo tầu về mà bị giam mười ba năm là người bị giam lâu nhất sau anh. Sau đợt thả lớn vào tháng chín năm một chín tám bẩy và dịp Tết năm một chín tám tám thì chỉ còn chín mươi người tù chính trị còn lại trên đất Bắc trong trại Nam Hà và anh là người duy nhất còn lại của chiếc tầu định mệnh VNTT.
Thời gian sống chung tại trại Nam Hà, những khi kể về con tầu VNTT, anh kể lại với một sự bình tĩnh và chấp nhận số mệnh và không hề tỏ lời than trách Chúa hay Ơn Trên và vẫn dốc tâm cầu nguyện hằng đêm theo tôn giáo của mình. Anh cũng tìm niềm vui khi xin nhận con chó con Pepsi về nuôi và chia sẻ niềm vui đó cho cả đội. Đối với các cán bộ trại, anh luôn tỏ ra điềm tĩnh và sẵn sàng giúp đỡ cho họ hay khu gia binh nếu cần đến thuốc men hay vật dụng gì mà anh có và do đó anh cũng thâu được cảm tình và sự vì nể của các cán bộ trại giam. Chính vì những con người như anh mà cuộc sống của những tù nhân bên chính trị được cởi mở hơn và tình trạng căng thẳng giữa tù nhân và phía trại giam cũng không còn và lần đầu tiên mà nhiều người trong khu gia binh đã gọi anh và các bạn là ân nhân của họ. Mỗi khi có chuyển trại thì khu gia binh kéo ra đầy đường và giơ tay của mấy đứa con nhỏ đang bồng lên vẫy chào và luyến tiếc những người tù nhiều lòng vị tha này.
Có những cán bộ nữ thường xuyên liên lạc với chúng tôi về mua bán tại căng-tin chẳng hạn thì chạy xe đạp thẳng vào trại đến trước cửa buồng giam để chúc chúng tôi mạnh khoẻ khi vào trại mới, và mắt thì đỏ hoe và giọng nghẹn ngào xong thì lại vội vã chạy xe đạp ra sợ các người khác trông thấy. Có tên trực trại trước kia được mệnh danh là "hung thần" khi thấy chúng tôi lần lượt lên xe di chuyển vào Nam thì thốt ra một câu:"Các anh đi rồi chúng tôi như chết đi nửa người và trại này sẽ hoang vắng lắm".
Chúng tôi đều không ngờ rằng sau mười mấy năm bị tập trung "cải tạo" thì người bị cải tạo lại chính là họ, những người phía bên kia chiến tuyến.
Anh nhìn tôi và các bạn và trong lòng chúng tôi đang rộn lên một niềm vui vì kết cuộc thì sự nhẫn nhục chịu đựng và lòng vị tha của những người tù này đã khiến cho một điều không thể xẩy ra được đã xẩy ra, đó là những bông hoa đã nở ra được trong lòng Địa Ngục trần gian trên miền Bắc.
Anh là Hoàng Hiểu, người về từ con tầu VNTT, một trong 20 người tù cuối cùng, chỉ vì lòng thương nhớ vợ con mà đã phải trả bằng cái giá của mười bẩy năm tù đầy.
Anh được thả ra khỏi trại Hàm Tân, Bình Thuận ngày 29 tháng Tư năm một chín chín hai. Một năm sau thì anh được đưa vào danh sách Z-05 theo chương trình H.O. và qua Mỹ đoàn tụ với gia đình. Một cuộc đoàn tụ đầy xúc cảm và nước mắt nhưng là những giọt nước mắt của hạnh phúc sum vầy; một hình ảnh đoàn tụ mà anh cứ tưởng sẽ đến với anh mười bẩy năm trước khi anh leo lên con tầu VNTT để về lại quê hương.
Phạm Gia Đại