Monday, 9 September 2013

NHÀ THƠ HÀN MẠC TỬ

Theo ông Nguyễn Hiến Lê qua cuốn “Hương Sắc Trong Vườn Văn” thì Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ lớn của thi đàn Việt Nam. Những mối tình thất vọng và chứng bệnh nan y là chất xúc tác kỳ diệu đã giúp Hàn trở thành một nhà thơ lớn. Và chính chứng bệnh nan y với những mối tình tuyệt vọng này đã dày vò thể xác lẫn tâm hồn của nhà thơ khiến nhà thơ đã thốt lên những lời đau thương thảm thiết:


Máu đã khô rồi thơ cũng khô,
Tình ta chết yểu tự bao giờ!
Từ nay trong gió, trong mây gió,
Lời thảm thương rền khắp nẻo mơ
.
Ta còn trìu mến biết bao người,
Vẻ đẹp xa hoa của một trời.
Đầy lệ, đầy thương, đầy tuyệt vọng.
Ôi! Giờ hấp hối sắp chia phôi!
Ta trút linh hồn giữa lúc đây,
Gió sầu vô hạn nuối trong cây...
Còn em sao chẳng hay gì cả?
Xin để tang anh đến vạn ngày.

(Trút Linh Hồn)
   

Hàn tiên sinh tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22-9-1919, quán làng Hương Thủy, huyện ThanhThủy, tỉnh Thừa Thiên. Thuở nhỏ học ở Huế, từ năm 1932 đã từng làm thơ ký nhà buôn, trắc lượng viên Sở Địa Chánh và chủ trương tờ Công Luận Văn Chương, ngoài ra còn cộng tác với các tạp chí như Trong Khuê Phòng, Tân Thời. Thi sĩ đã từng mang các bút hiệu Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lê Thanh trước khi có bút hiệu Hàn Mặc Tử. Những thi phẩm đã xuất bản gồm Gái Quê, Xuân Đau Thương, Như Ý, Thương Thanh Khí, còn kịch thơ thì đã xuất bản Duyên Kỳ Ngộ, Quần Tiên Hội. Ngoài ra nhà thơ cũng còn để lại một bản văn xuôi khá nổi tiếng đó là Chơi Giữa Mùa Trăng.
     Cuối năm 1936, Hàn thi sĩ biết mình mắc chứng bệnh cùi, sau gần hai năm chạy chữa ở nhà nhưng bệnh càng ngày càng tăng, đến mùa hè 1938, Hàn tiên sinh quyết định vào Bố Thí Viện ở Qui Hòa, Qui Nhơn và mất ở đấy vào ngày 11-11-1940, lúc đó thi sĩ chỉ mới có 28 tuổi nhưng thơ của thi sĩ đã khá nổi tiếng vào thời ấy. Thật là một thiên tài nhưng mệnh yểu để lại nhiều nuối tiếc cho thi đàn Việt Nam. Khi nói đến sự nghiệp thi ca của Hàn Mặc Tử, chúng ta có thể khẳng định rằng chính chứng bệnh nan y kết hợp với những mối tình vô vọng đã giúp thiên tài Hàn Mặc Tử giữ địa vị xứng đáng trên thi đàn. Thật vậy, nhìn vào dòng thơ, Hàn thi sĩ khởi đầu sự nghiệp thi ca bằng bài thơ Đường:

Ấp úng không ra được nửa lời,
Tình thu bi thiết lắm thu ơi!
Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt,
Hiu hắt hơi may thoảng lại rồi...
Nằm gắng đã không thành mộng được,
Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi.
Ngàn trùng bóng liễu trông xanh ngát,
Cảnh sắp về đông mắt lệ vơi.

(Buồn Thu)

 Dĩ nhiên ý thơ đã vượt xa những bài thơ Đường trong nền thi ca cổ điển vào hậu bán thế kỷ 19 đầu thế kỷ thứ 20 nhưng vẫn còn ước lệ, vẫn còn bị đóng khung. Đến khi tập “Gái Quê” ra đời, thi sĩ đã lột xác, giả từ những ý thơ “ước lệ” để theo gót chân nàng thơ thanh tân với những dòng thơ trữ tình, lãng mạn:

Trăng nằm sóng soải trên cành liễu,
Đợi gió đông về để lả lơi.
Hoa lá ngây tình không muốn động,
Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi!
Trong khóm vi lau rào rạt mãi...
Tiếng lòng ai nói sao im đi?
Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm,
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe...
Vô tình để gió hôn lên má,
Bẽn lẽn làm sao lúc nửa đêm.
Em sợ lang quân em biết được,
Nghi ngờ tới cái tiết trinh em.
(Bẽn Lẽn)
   

Như đã đề cập ở trên, chính chứng bệnh nan y và những mối tình vô vọng đã tạo nên thiên tài Hàn Mặc Tử nên chúng ta không thể nào không đề cập đến những mối tình của những người đàn bà đã đi qua cuộc đời của một thi sĩ tài hoa nhưng mang nhiều bất hạnh.

     Trong thời gian Hàn Mặc Tử làm việc ở Phan Thiết, người yêu của nhà thơ là Mộng Cầm, tên thật Huỳnh Thị Nghệ. Lầu Ông Hoàng ở đấy đã ghi đậm nét yêu đương của hai người và đã đi vào lịch sử âm nhạc Việt Nam. Mộng Cầm yêu chàng tha thiết, nhưng thế rồi cuối năm 1936, nhà thơ biết chắc rằng mình mắc chứng bệnh cùi, chàng quyết định tuyệt giao với tất cả bạn bè và báo cho Mộng Cầm biết để cắt đứt sự ràng buộc về những hứa hẹn trăm năm. Dĩ nhiên nàng đã khóc lóc thảm thiết và một lần nữa lại thề thốt. Nhưng sáu tháng sau Hàn Mặc Tử được tin Mộng Cầm đi lấy chồng. Ở vào hoàn cảnh của nhà thơ, có lẽ phái nam của chúng ta cũng không thoát khỏi tâm trạng đau đớn cùng cực:


Nghệ hỡi Nghệ muôn năm sầu thảm,
Nhớ thương còn một nắm xương thôi!
Thân tàn ma dại đi rồi,
Rầu rầu nước mắt bời bời ruột gan.
Nghe hơi gió ôm ngang lấy gió,
Tưởng chừng như trong đó có hương,
Của người mình nhớ mình thương...
Nào hay gió tạt chẳng vương vấn gì.
Nhớ lắm lúc như si như dại,
Nhớ làm sao bải hoải tay chân!
Nhớ hàm răng, nhớ hàm răng,
Mà ngày nào đó vẫn khăn khít nhiều.
Dẫu đau đớn vì điều phụ rẫy,
Nhưng mà ta không lấy làm đều.
Trăm năm vẫn một lòng yêu,
Và còn yêu mãi rất nhiều em ơi...
(Muôn Năm Sầu Thảm)
   

Nghĩ cũng hơi mâu thuẫn, muốn chấm dứt mối tình nhưng khi hay tin người ta đi lấy chồng lại đau khổ, khóc than thảm thiết nhưng đấy là sự mâu thuẫn hợp lý trong dòng tâm trạng yêu đương, nhất là ở lứa tuổi hoa niên muốn chứng tỏ mình cao thượng, không muốn người yêu đau khổ vì mình.Thế nhưng khi mất người yêu, Hàn than, Hàn tiếc, Hàn kêu gào tên người yêu như điên, như dại như muốn loan báo khắp cả nhân gian rằng “ Người đi một nửa hồn tôi mất. Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ”.
     Trên thi đàn Việt Nam ta có hai chàng thi sĩ thất tình, kêu gào tên người yêu ồn ào náo nhiệt trong thi văn, đó là thi sĩ Vũ Hoàng Chương và nhà thơ Hàn Mặc Tử, Họ Vũ thì:

Tố của Hoàng ơi, Tố của anh!
Tố của Hoàng nay Tố của ai...

(Mười Hai Tháng Sáu – Ngày Mười Hai Tháng Sáu là ngày người yêu của Vũ tiên sinh lên xe hoa)

Còn Hàn tiên sinh thì:

Nghệ hỡi Nghệ muôn năm sầu thảm,
Nhớ thương còn một nắm xương thôi!

     Có một vài giả thuyết cho rằng Hàn Mặc Tử mắc bệnh cùi vì trong một cuộc đi chơi núi với Mộng Cầm, khi băng qua cánh đồng gặp cơn mưa giông hai người lại nhảy qua một ngôi mộ vừa mới chôn... nhưng tại sao một mình Hàn Mặc Tử mắc bệnh thôi? Dù sao đấy chỉ là giả thuyết, thực tại của nhà thơ là bệnh hoạn và đau khổ. Vì bệnh cho nên bị tình phụ, tình phụ cho nên đau khổ mà càng đau khổ bệnh lại càng tăng vì thế thi ca là con đường nghệ thuật duy nhất để giải tỏa tâm trạng đau thương đó:


Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi?
Bao giờ tôi hết được yêu vì,
Bao giờ mặt nhật tan thành máu,
Và khối lòng tôi cứng tợ si?
Họ đã xa rồi khôn níu lại,
Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa...
Người đi một nửa hồn tôi mất,
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?
Sao bông phượng nở trong màu huyết,
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?
(Những Giọt Lệ)
   

Mối tình thứ nhì của Hàn là nàng Kim Chi, cũng trong thời gian làm việc ở Sở Địa Chánh, viên trưởng ty của sở này có người con gái tên Kim Chi, rất đẹp lại thích thơ Hàn Mặc Tử. Hai người quen nhau và thỉnh thoảng hẹn hò hoặc thi sĩ đến nhà thăm Kim Chi. Thế rồi, không biết vì lý do gì mà thân phụ của nàng quyết định cho nàng trở về Huế. Khi hay tin Hàn Mặc Tử lâm trọng bệnh, Kim Chi đã gởi tặng thi sĩ bức ảnh của mình kèm theo lá thơ với lời lẽ của một người yêu và chúc nhà thơ sớm lành bệnh. Chính bức ảnh và lời lẽ trong thơ đã gây nguồn cảm hứng để Hàn tiên sinh làm nên bài:


Đây Thôn Vĩ Dạ
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc,
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà?
   
Sau Mộng Cầm và Kim Chi là chuyện tình giữa Hàn Mặc Tử  với Mai Đình nữ sĩ. Chuyện tình giữa Hàn và Mai Đình, ta có thể nói, đúng là một thứ tình yêu vì nghệ thuật. Mai Đình tên thật là Lê Mai, nguyên quán ở Thanh Hóa, cũng vì tình duyên dang dở nên nàng lìa bỏ gia đình để sống cuộc đời hải hồ. Năm 1937, Mai Đình nữ sĩ tới Qui Nhơn, nhiều lần muốn đến thăm Hàn Mặc Tử vì đã nghe danh nhà thơ từ lâu nhưng lại lưỡng lự không đến. Sau có người mách lại cho Hàn Mặc Tử biết, Hàn đã gởi tặng nàng tập thơ “Gái Quê”. Cảm kích tấm lòng của Hàn, nàng đã làm bài thơ“Biết Anh”:

Còn anh em đã gặp anh đâu,
Chỉ cảm vần thơ có mấy câu.
Âu yếm say sưa đầy cả mộng,
Xuôi lòng tơ tưởng lúc đêm thâu.

  
 Làm xong bài thơ trên, Mai Đình đến thăm nhà thơ Quách Tấn ở Nha Trang và đưa cho Quách Tấn xem. Quách Tấn đã trao bài thơ của Mai Đình cho Hàn Mặc Tử. Đọc bài thơ của Mai Đình, quá xúc động nên Hàn Mặc Tử đã làm nên bài “Lưu Luyến”:


Chửa gặp nhau mà đã biệt ly,
Hồn anh theo dõi bóng em đi.
Hồn anh sẽ nhập trong luồng gió,
Lưu luyến bên em chẳng nói gì.
Thơ em cũng giống lòng em vậy,
Là nghĩa thơm tho như ánh trăng,
Mềm mại như lời tơ liễu rỉ,
Âm thầm trong áng gió băn khoăn.
Anh đã ngâm và anh đã thuộc làu,
Cả người rung động bởi thương đau,
Bởi vì mê mẩn vì khoan khoái,
Anh cắn lời thơ để máu trào...
Lời thơ ngậm cứng, không rền rĩ,
Mà máu tim anh vọt láng lai.
Thơ ở trong lòng reo chẳng ngớt,
Tiếng vang tha thiết dội khắp nơi.
Em đã nghe qua, em đã hay,
Tình anh sao phải chứng mê say,
Anh điên anh nói như người dại.
Van lạy không gian xóa những ngày...
Những ngày đau khổ nhuộm buồn thiu,
Những áng mây lam cuốn dập dìu,
Những mảnh nhạc vàng rơi lả tả,
Những niềm run rẩy của đêm yêu.
Anh đứng cách xa hàng thế giới,
Lặng nhìn trong mộng miệng em cười.
Em cười anh cũng cười theo nữa,
Để nhắn hồn em đã tới nơi.
   

Đầu năm 1937, hai ba lần Mai Đình tìm cách đến thăm Hàn Mặc Tử nhưng nhà thơ đã từ chối. Nàng vẫn kiên trì và viết thư cho Hàn như sau:”Nếu anh không mắc bệnh này thì Mai không bao giờ đến thăm đâu, đã tưởng tượng bao nhiêu cái rùng rợn của người đau bệnh ấy rồi nên không sợ. Cứ cho gặp đi! Vì không bởi lẽ gì mà Mai giảm bớt tình yêu đâu...”. Cuối cùng Hàn đã nhượng bộ để cho Mai Đình đến thăm.
     Giữa năm 1938, Mai Đình rời Qui Nhơn một thời gian đến cuối năm đó nàng trở lại tặng gia đình Hàn một món tiền và xin phép được vào ở trong nhà để dễ dàng săn sóc cho nhà thơ. Trong thời gian Mai Đình rời Qui Nhơn, có lẽ nàng đã trở về gia đình ở Thanh Hóa để xoay xở, vay mượn tiền hầu trở lại giúp đỡ gia đình Hàn. Trong thời gian gần gũi bên nhau, hai người thường trao đổi những vần thơ ân tình:

Mai Đình
Còn đâu nữa anh ơi tình duy nhất,
Của tim em hồi còn hãy thơ ngây.
Nay xóa mờ tan tác đám mây bay,
Theo giòng nước hững hờ trôi đi mất.

Hàn Mặc Tử
Viết bằng chữ là thơ không kín đáo,
Giơ tay thề mà ai chứng lòng cho.
Anh thương em không cần phải so đo,
Vì trinh tiết há bằng hương vạn đợi?
   

Mối tình giữa cô gái hải hồ với nhà thơ mang bệnh nan y, ai cũng đoán được là không thể kéo dài mãi mãi vì thế nàng lại lên đường và từ một chân trời xa xăm nào đó, thỉnh thoảng Mai Đình gởi về cho Hàn tiên sinh những vần thơ chứa chan tình cảm, đầy ắp tình yêu trai gái:
Hãi hùng em sợ trăng thanh,
Vắng em anh lại tư tình với trăng.
   
Những ngày sống với Mai Đình, có lẽ là thời gian đẹp trong cuộc đời của nhà thơ và có lẽ chàng sẽ giữ mãi những kỷ niệm này cho đến ngày trút hơi thở cuối cùng:

Ôi khoái quá thấm dần vô thể chất,
Hồn trong xương ảnh hưởng đến mê tơi.
Quý như vàng trong như ngọc trên đời,
Mai, Mai, Mai là Nguyệt Nga tái thế.
   
Sau Mai Đình là mối tình giữa Hàn Mặc Tử với Thương Thương. Mối tình giữa Hàn tiên sinh và nàng Thương Thương là một mối tình trong mộng. Năm đó, năm 1939, nàng Thương Thương mới có 12 tuổi, cháu của Trần Thanh Địch, bạn của nhà thơ. Nhận thấy bạn của mình đang sống những ngày chờ chết, nghĩa là sống trong tuyệt vọng nên Trần Thanh Địch mới giới thiệu Hàn Mặc Tử với một thiếu nữ có cái tên thật đẹp là Thương Thương. Nàng rất thích thơ Hàn Mặc Tử và vâng lời chú viết thư nói chuyện văn thơ với Hàn nhưng không ngờ cái tên Thương Thương đã tạo cho nhà thơ nguồn cảm xúc vô biên nên ngày 23-1-1940, Hàn đã viết cho nàng: «Thương Thương, cái tên thi vị quá chừng. Thương Thương là một bài thơ, hơn nữa, một nguồn thơ bất tuyệt. Những hàng chữ đơn sơ của em đã rung cảm được tâm hồn của anh... Ở  lòng anh có Thương Thương, nghĩa là có thơ, có nguồn thơ vĩnh viễn đấy.” Rồi ngày 11-3-1940, Hàn tiên sinh lại viết: 'Từ nay hình ảnh em sẽ đến với anh mãi trong trí tưởng. Em sẽ là nàng thơ của anh...”.

     Thế rồi, không cần biết mặt người, chỉ cần hai chữ Thương Thương cũng đủ tạo cho nhà thơ nguồn cảm hứng vô biên để hình thành những vần thơ chứa chan sóng lòng yêu đương:


Sầu lên cho tới ngàn khơi,
Ai đâu ráo lệ, chưa lời nói ra.
Chiều nay tàn tạ hồn hoa,
Nhớ Thương Thương quá xót xa tâm bào!
Tiếng buồn đem trộn tiêu tao,
Bóng em chờn chợ trong bao nhiêu màu.
Nghe ai xé lụa mà đau,
Gió than niềm gió biết đâu hẹn hò!
Đừng ai nói để thương cho...
Lỡ ra lạnh nhạt đền bù sao cam...
Chiều nay chẳng có mưa dầm,
Mình sao nước mắt lại đầm đìa tuôn?
Ồ ra lụy ngọc nôn nôn,
Có bao giờ hết nỗi buồn vô duyên!
(Nỗi Buồn Vô Duyên)
   

Vào đầu năm 1940, nguồn cảm hứng về người con gái có cái tên thật đẹp, thật thơ đã giúp Hàn Mặc Tử viết nên tập kịch thơ với nhan đề “Thương Thương”, về sau được đổi tên là “Cẩm Châu Duyên”, gồm hai phần. Phần thứ nhất là Duyên Kỳ Ngộ”, kể lại cuộc hành trình của Hàn Mặc Tử đi tìm tứ thơ đã lạc vào một động tiên và nhà thơ đã gặp một nàng tiên nữ, chính là Thương Thương. Hai người yêu nhau say đắm, nhưng nghĩ đến thân phận tuyệt vọng của mình, chàng phải giả biệt người yêu:

Bây giờ đây khóc than niềm ly hận,
Hỡi Thương Thương người ngọc của lòng anh!

     Tập thứ hai là “Quần Tiên Hội”, nối tiếp tập “Duyên Kỳ Ngộ”. Sau thời gian giả biệt với Thương Thương, tức Quỳnh Tiên, chàng đã không chịu nổi nhớ nhung bèn đi tu tiên, cải trang thành Huyền Tiên để được sống nghững ngày ân ái với Quỳnh Tiên:

Nương nương ơi biết nhau từ độ ấy,
Tóc xanh thêm và tình đậm đà nhiều...

     Tập “Quần Tiên Hội” không có đoạn kết, Hàn Mặc Tử phải bỏ dở nửa chừng vì gia đình nàng Thương Thương không muốn Hàn tiên sinh đem tên con mình ra làm đối tượng thất tình ồn ào, xôn xao cả nước nên yêu cầu Hàn Mặc Tử từ đây đừng nhắc đến Thương Thương trong văn thơ của mình vì lý do gia đình. Chuyện tình giữa Hàn Mặc Tử và nàng Thương Thương, nhiều người cho rằng nàng không chỉ là người yêu của nhà thơ mà thật sự là người tình muôn thuở. (Lời tác giả: Cách đây mấy năm, trong những dịp mạn đàm văn chương, người viết được bạn bè cho biết bà Thương Thương hiện đang sống tại Pháp và tính đến nay, năm 2007, nếu bà Thương Thương còn sống thì bà đang ở vào tuổi 80).

     Lúc 11giờ 00 ngày 11-11-1940, câu nói sau cùng của Hàn Mặc Tử: “Thôi bây giờ nằm nghỉ một chốc, kẻo nãy giờ nói chuyện mệt...”, nhà thơ nhắm mắt và vĩnh viễn ra đi. Khổ đau, thiên tài và tình sử của Hàn thi sĩ cũng chấm dứt từ đó!

     Để kết luận, ta có thể nói:

Bao nhiêu đau khổ của trần gian,
Trời đất dành riêng để tặng chàng!

Lê ThươngRichmond, Virginia

Mộng Cầm, người tình trong thơ Hàn Mặc Tử
Nữ sĩ Mộng Cầm, sinh năm 1917, người tình trong thơ Hàn Mặc Tử, sau 5 năm bị bệnh tai biến và được điều trị tại bệnh viện, nhưng do tuổi cao, sức yếu đã qua đời vào 16 giờ 20 ngày 23-7-2007
nha MC
Nhà ở Mộng Cầm
 
tại nhà riêng ở số 300 đường Trần Hưng Đạo, phường Lạc Đạo, TP Phan Thiết. Bà Mộng Cầm lập gia đình và sống ở Phan Thiết. Trong những năm cuối đời, bà sống với người con gái thứ ba tên Mộng Đức (trong số 8 người con). Sau tang lễ, vào ngày 26-7, linh cữu của bà Mộng Cầm sẽ được mang đi an táng tại nghĩa trang Lầu Ông Hoàng (nơi nổi tiếng với mối tình thơ đi vào văn học của Hàn Mặc Tử).

Năm 1934 khi nhà thơ Hàn Mặc Tử được bạn bè mời vào Sài Gòn, phụ trách trang văn chương tờ báo “Trong Khuê Phòng” đã quen với nữ độc giả thường gởi sáng tác thơ, ký tên Mộng Cầm (Mộng Cầm gọi nhà thơ Bích Khê là cậu ruột). Mối tình thơ của Hàn Mặc Tử đã nảy nở từ đấy cho đến lúc thi sĩ rơi vào bi kịch bệnh nan y.

Nhà thơ Hàn Mặc Tử  khi sáng tác những dòng thơ nói với người tình của ông, thì ông luôn nhắc đến một người thiếu nữ tên Mộng Cầm như một  người tình của Hàn Mặc Tử, nhưng mà Mộng Cầm không bao giờ làm người tình thật của ông được cả.

Người thiếu nữ thuở đó tên thật là Huỳnh Thị Nghệ, ngày sinh không rõ, chỉ biết đại khái là cô sinh vào khoảng tháng 5 năm 1917 tại tỉnh Nghệ An, nhưng gia đình cô Nghệ lại đến sinh sống ở một làng chài ở ven biển thuộc tỉnh Quảng Ngãi.

 Mong Cam
Khi tin cụ Huỳnh Thị Nghệ đã qua đời tháng 7 năm 2007  vào tuổi 90 được loan ra, tin này làm cho nhiều người có cảm tình với cụ Huỳnh Thị Nghệ không khỏi bồi hồi tưởng nhớ đến mối tình tuyệt vời giữa cố thi sĩ Hàn Mặc Tử  và Mộng Cầm,  nàng thiếu nữ đã dịu dàng nhưng tha thiết bước vào thơ và đi vào mộng, và chỉ là mộng mị thôi chứ không bao giờ là hiện thực, có chăng chỉ qua những vần thơ kể từ những ngày chưa quen biết. Trong bài Trường Tương Tư nhà thơ Hàn Mặc Tử đã viết:

Hiểu gì không, ý nghĩa của trời thơ
Của hương hoa trong trăng lờn lợt bày
Của lời câm muôn vì sao áy náy
Hiểu gì không em hỡi! hiểu gì không?
Anh ngâm nga để mở rộng cửa lòng
Cho trăng xuân tràn trề say chới với
Cho nắng hường vấn vương muôn ngàn sợi;
Cho em buồn trời đất ứa sương khuya,
Để em buồn, để em nghiệm cho ra
Cái gì kết lại mới thành tinh tú;
Và uyên ương bởi đâu không đoàn tụ,
Và tình yêu sao lại dở dang chi,
Và vì đâu, gió gọi giật lời đi.
Lời đi qua một chiều trong kẽ lá,
Một làn hương mới nửa lừng sa ngã
Anh mến rồi ý vị của làn mơ.
Lệ Kiều ơi! em còn giữ ý thơ
Trong đôi mắt mùa thu trong leo lẻo,
Ở xa xôi lặng nhìn anh khô héo
Bên kia trời hãy chụp cả hồn anh.
Hãy van lơn ở dưới chân Bàn Thành,
Cho yêu ma muôn năm vùng trở dậy,
Náo không gian cho lửa lòng bùng cháy,
Và để cho kinh động đến người tiên,
Đang say sưa trong thế giới Hão Huyền
Đang trửng giỡn ở bên sông Ngân biếc...
Anh rõ trước sẽ có ngày cách biệt,
Ngó như gần nhưng vẫn thiệt xa khơi!
Lau mắt đi đừng cho lệ đầy vơi.
Hãy mường tượng một người thơ đang sống
Trong im lìm lẻ loi trong dãy động.
Cũng hình như, em hỡi! động Huyền Không!
Mà đêm nghe tiếng khóc ở đáy lòng,
Ở trong phổi, trong tim, trong hồn nữa.
Em có nghĩ ra một chiều vàng úa,
Lá trên cành héo hắt, gió ngừng ru:
"Một mối tình nức nở giữa âm u,
"Một hồn đau rã lần theo hương khói,
"Một bài thơ cháy tan trong nắng dọi,
"Một lời run hoi hóp giữa không trung,
"Cả niềm yêu, ý nhớ, cả một vùng,
"Hóa thành vũng máu đào trong ác lặn".

Đấy là tất cả người anh tiêu tán,
Cùng trăng sao bàng bạc xứ Say Mơ,
Cùng tình em tha thiết như văn thơ,
Ràng rịt mãi cho đến ngày tận thế

Kể từ ngày  mối tình trong mộng giữa Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm  cho đến nay đã trên nửa thế kỷ rồi, ấy thế mà dấu vết thời gian vẫn không thể xoá nhoà được nét đẹp rực rỡ của những áng thơ tình ám ảnh cả cuộc đời bất hạnh của nhà thơ.

Mộng Cầm có bà dì ruột tên Ngọc Sương, bà này là chị ruột của thi sĩ Bích Khê, bà thi sĩ này cũng là bạn tình trong thi ca thuở xưa của Hàn Mặc Tử.

Mộng Cầm chỉ là bút hiệu, bà muốn gửi gắm những tư tưởng, những vần thơ vào những kỷ niệm, những suy nghĩ viển vông của người thiếu nữ nhiều tình cảm qua bút hiệu, nhờ đó để cho đời sống được êm đềm trôi như dòng nườc chảy, đôi khi chỉ lững lờ trôi theo gió thu nhè nhẹ để thổi cho những chiếc lá vàng rơi,  Mộng Cầm chỉ ước mong cho cuộc đời mình đượ bình thường giống như các bạn đồng trang lứa, không quá ba chìm bảy nổi và nhiều sóng gió. Ngược lại với mộng ước bình thường của nàng, con tạo lại trớ trêu đã làm cho đời nàng không phẳng lặng như niềm mong ước. Vì cha nàng, ông Huỳnh Quang Long là một Thi Độc Học sĩ, một quan chức nhỏ bé của triều đình, thân phận của một kẻ sĩ cuối mùa của thời kỳ nho học suy tàn, cho nên con đường hoạn lộ của ông Huỳnh Quang Long không gặp thời.  Cuộc đổi đời hán nho suy tàn đang tan biến dần,  nhường chỗ cho nền tây học cho nên ông phải làm việc với người Pháp bảo hộ suốt mười mấy năm trường, rồi có một lần ông bất hoà với viên chủ sự người Pháp phục vụ trong Toà sứ Quảng Ngãi, thế là  ông bị đổi ra Nghệ An , sau đó ít lâu ông lại  bị đưa đi Thanh Hoá, Đồng Hới  rồi sau đó lại trở về Nghệ An, năm 1926 thì ông lâm trọng bệnh và chết ở Quảng Bình. Năm đó Huỳnh Thị Nghệ được khoảng chín mười tuổi.  

Sau cái đại tang, cuộc sống bình lặng của gia đình cô bé Huỳnh Thị Nghệ chao đảo, vì suốt cuộc đời thân phụ cô chỉ là một viên chức nhỏ, nên gia sản của quan Thị độc không có lấy một mảnh ruộng miếng vườn, cũng không có lấy một căn nhà che mưa trú nắng  Nghệ phải theo mẹ về Quảng Ngãi và lên tàu vào Phan Thiết sống nhờ gia đình người cậu ruột.

Phan Thiết vào năm 1930, chỉ có vài con phố nhỏ, loanh quanh ta chỉ thấy vài con đường lộ trải đá chạy dọc con sông Cà Ty có nước chỗ đục chỗ trong. Mọi sinh hoạt thường tập trung  chung quanh khu xóm chài, nơi có những thuyền buồm đánh cá dong đuổi ra khơi. Khu nhà ga xe lửa nằm gần tháp nước là nơi những người dân thường trông ngóng chờ nghe tiếng còi tàu hụ hàng ngày lúc bảy giờ tối, chuyến xe này từ Sài Gòn ra mang theo những chuyện chính trị, thời sự, văn hóa lạ lẫm với dân địa phương Phan Thiết của Sài gòn. 

Huỳnh Thị Nghệ có tài làm thơ, nàng sáng tác thơ từ  khi còn ngồi trên ghế nhà trường Ecole Plein Exerria Phan Thiết, năm 16 tuổi có thơ đăng ở báo Công Luận và báo Sài Gòn với bút hiệu Mộng Cầm. Những bài thơ đường luật như bài Vịnh Lầu Ông Hoàng và bài Tết, những bài thơ này nàng sáng tác theo liêm luật thơ cổ điển, tuy vậy nhưng với nội dung và cú pháp vẫn được người đương thời ưa thích và khuyến khích. Ta hãy thưởng thức  bài Vịnh Lầu Ông Hoàng.

Nước nước non non một cõi này
Lâu đài ai dựng tháp ai xây
Sương dầm nắng dãi lờ gan đá
Gió dập mưa dồn tủi phận cây
Tuồng thế tang thương bao lớp sóng
Cuộc đời thành bại mấy chòm mây
Đường lên cõi phúc tìm đâu thấy
Thấy cảnh đau lòng khách tỉnh say.
(Vịnh Lầu Ông Hoàng)
Và bài thơ tả cảnh Tết
Tết nhất làm cho khéo rộn ràng
Nhà nhà bánh mứt dọn nghênh ngang 
Bạc bài tấp nập ba anh điếm
Rượu thịt say sưa mấy bác làng
Pháo đốt nổ hoài vui dạ trẻ
Lễ dâng thâu mãi nhọc lòng quan...

(Tết)

Kể từ khi thơ cô được đăng báo, sau đó một thời gian ngắn Mộng Cầm nhận được một bài thơ kèm với một bức thư gửi từ Saigon. Một cô nữ sinh lớp năm của trường tiểu học Ecole chưa biết gì về tình ái, lại nhận được một bức thư của một người không quen biết,  nhưng chứa đựng những tình cảm dạt dào đã khiến cô không khỏi bàng hoàng, tim cô xao xuyến, cô đọc bức thư rồi lại đọc bài thơ Xuân Đầu Tiên mà cảm thấy lòng mình lâng lâng một niềm vui, dạt dào khó tả.  

Mai sáng mai, trời cao rộng quá
Gió căng hơi và nhạc lên mây
Đôi lòng cũng ấm như xuân ấm
Chỉ có ao xuân trắng trẻo thay .

Mai này thiên địa mới tinh khôi
Gió căng hơi và nhạc lên trời
Chim khuyên hót tiếng đầu tiên hết
Hoa lá hồ nghi sự lạ đời .

Trái cây bằng ngọc vỏ bằng gấm
Còn mặt trời kia tợ khối vàng
Có người trai mới in như nguyệt
Gió căng hơi và nhạc lên ngàn.

Thuở ấy càn khôn mới dựng nên
Mùa thơ chưa gặt tốt tươi lên
Người thơ phong vận như thơ ấy
Nào đã ra đời ngọc biết tên. 

Xuân gấm đầu tiên giữa cõi đời
Mùi thơm ngây dại sóng con người
Hãy hoan hô, lời cao như sấm
- Vạn tuế, bay ơi! nắng rợp trời. 
(Xuân Như Ý)

Dòng thơ của một nhà thơ nổi tiếng trên văn đàn lại được gửi cho một người con gái mà mình chỉ biết tên qua trang báo chẳng khác chi một cơn giông bão thổi vào cuộc đời một cô nữ sinh còn trẻ dại của miền tỉnh lẻ Phan Thiết. Cô vừa mừng  vừa vui nhưng lại lo lắng bồn chồn, một mối lo làm  Mộng Cầm không dám viết thư trả lời cho Hàn Mặc Tử dù trong thâm tâm cô cũng muốn biết thêm về người thanh niên đã từng có danh trên thi đàn với các biệt hiệu Lệ Thanh, Phong Trần hay Hàn Mặc Tử.

Mộng Cầm năm đó thi lấy bằng primaire, trong khi chờ công bố kết quả, nàng theo người cậu ruột ra làm việc tại một trạm xá mà thời đó người ta coi như một bệnh viện tại Mũi Né. Ở vùng đồi cát hẻo lánh xa xôi này mà có một phòng khám bệnh phát thuốc và mấy căn nhà nhỏ thấp lè tè làm nhà hộ sinh cho bà con trong vùng là quý lắm rồi.

Vì không chuyên môn ngành y khoa nên công việc của Mộng Cầm rất đơn giản, nàng chỉ phát thuốc và chăm sóc một vài thứ bệnh thông thường mà thôi, nên còn bao nhiêu thời giờ thì nàng dành để sáng tác thơ hoặc sao chép những bài thơ nàng ưa thích vào cuốn sổ tay. Có một lần Mộng Cầm tình cờ đọc tờ báo xuất bản ở Sài Gòn của một bệnh nhân đem đến,  có dòng nhắn tin như sau:

“Mộng Cầm em ở đâu, cho tôi biết địa chỉ - Hàn Mặc Tử“.

Chỉ vỏn vẹn một dòng chữ ngắn ngủi như vậy thôi mà thực sự làm đời sống của  Mộng Cầm đang êm ả bỗng nổi cơn sóng gió. Nàng bồn chồn xúc động khi biết người thi sĩ nổi danh kia đã dành cho nàng những tình cảm nồng nhiệt cho một cho người thiếu nữ chưa quen biết là nàng. Suốt cả đêm hôm ấy Mộng Cầm thức trọn cả đêm để trằn trọc suy nghĩ, và sau đó nàng quyết định viết thư hồi âm cho Hàn Mặc Tử. Thời gian khoảng một vài tuần lễ sau khi nàng gửi thư đi, Hàn Mặc Tử đã đáp xe lửa đi Phan Thiết, rồi từ Phan Thiết, chàng chuyển sang một phương tiện di chuyển khác, từ Phan Thiết đến Mũi Né lúc đó chỉ có đò dọc, ghe chở người khách bềnh bồng trên sông nước suốt cả đêm, mãi đến sáng hôm sau mới ghe mới tới bến Mũi Né, chàng bước lên bờ vội vã đến gặp Mộng Cầm trong trạm xá bệnh viện.

Mộng Cầm, nay đã già và đã cụ bà Mộng Cầm đang hồi tưởng lại lần gặp gỡ đầu tiên trong đời của bà với nhà thơ Hàn Mặc Tử, bà nói rằng không thể nào quên được dù buổi sáng ấy cách đây đã gần 60 năm khi bà đang phát thuốc cho bệnh nhân, người tuỳ phái chạy vào báo rằng có khách ở Sài Gòn đến tìm,  bà đoán ngay ra là chắc chắn là “anh ấy”, rồi khi cầm tấm danh thiếp đọc tên thì bà biết đã đoán không sai nên bùi ngùi xúc động. Gặp chàng bà thấy trên người của Hàn Mặc Tử vẫn còn khoác chiếc áo choàng trắng của bệnh viện, đang đứng đợi bà dưới mái hiên, dáng người chàng cao dong dỏng, bận bộ đồ com-lê trắng nên hoàn toàn khác với sự tưởng tượng và hình dung dáng dấp mà trong đầu óc của bà đã tự vẽ về chân dung của chàng. “Người ấy” không táo bạo, bậm trợn như bà nghĩ mà chỉ nhỏ nhẹ hỏi: “Mộng Cầm đây phải không. Tôi đáp xe lửa đến Phan Thiết rồi dùng ghe thuyền đi suốt từ tối đến giờ mới tới”. Và cả hai đều lúng túng, không ai nói với ai câu nào nữa, cứ im lặng mãi như thế cho tới khi người cậu của bà nhắc rằng hãy mời khách vào phòng trong  mà tiếp chuyện.

Câu chuyện sáng hôm ấy giữa nàng và chàng chỉ loanh quanh chuyện thơ ca thi phú, chuyện thời tiết đó đây, chuyện trên trời dưới đất, chẳng câu chuyện nào ăn nhập với nhau cả, chứ “anh ấy” tuyệt nhiên không nhắc gì đến tình cảm riêng tư của chính mình.
 
“Rồi mãi đến xế trưa, chuẩn bị lên ghe trở về Phan Thiết cho kịp chuyến xe lửa trở lại Sài Gòn, lúc đó ảnh mới dám nhìn thẳng vào  tôi và nói rằng hẹn tuần sau ảnh sẽ trở lại thăm tôi”. Bà kể lại như thế.  “Khi chiếc ghe dần khuất sau những cồn cát, lúc ẩn lúc hiện thì lúc đó tôi mới linh cảm thấy cuộc đời tôi từ nay sẽ bước sang một khúc rẽ. Dòng đời chảy xuôi hay ngược nào ai biết trước được!”.  Sự kín đáo của một người lớn tuổi, cụ bà Mộng Cầm  không nói nhiều về những lần gặp gỡ giữa bà với Hàn Mặc Tử ở Mũi Né  Phan Thiết, cụ bà không xác nhận cũng không phủ nhận những lần gặp gỡ, những chuyến đi chơi trong buổi chiều mưa ướt, tránh mưa dưới mộ đá trong  một nghĩa địa hoang phế mà sau này nhiều bài báo, tuồng tích đã khai thác và quy kết là nguyên nhân căn bệnh nan y mà Hàn Mặc Tử mắc phải.

Mộng Cầm  chỉ kể một vài câu chuyện vui, như  khi bà cùng Hàn Mặc Tử băng qua bãi cát để đến trường Hồng Đức nơi người cậu ruột của Mông Cầm, đó là nhà thơ Bích Khê đang dạy học tại đó, hoặc bà trách Hàn Mặc Tử ít chú ý đến cách ăn mặc. Hàn Mặc Tử nhanh nhẩu ứng khẩu ngay bằng những câu thơ vui:

Người sao như tỉnh lại như say
Xác rác xơ rơ cái mặt mày
Chỉ thích cái đời làm thi sĩ
Cho nên quần áo chẳng buồn thay

Đọc mấy câu thơ ấy xong chàng cười thật vui. Bà kể lại rằng có một thời kỳ kéo dài đến mấy năm, hàng tuần vào chiều thứ sáu cuối tuần, Mộng Cầm xin phép cậu từ Mũi Né lên Phan Thiết để đáp chuyến xe lửa chiều thứ bảy để về Saigon, rồi chiều hôm sau Chúa nhật,  quyến luyến lúc gặp gỡ cũng như lúc giã biệt nhau.

Trong bài thơ “Chan Chứa “ Mộng Cầm đã nhắc nhiều đến những kỷ niệm của cái thuở ban đầu, gặp nhau cuối tuần,  mà cứ như mỗi cuối tuần là một mùa xuân.

Nếu anh đếm được những vì sao
Thì hiểu em yêu đến bậc nào
Tinh tú trên trời không đếm được
Tình yêu càng với lại càng cao
Cả năm chỉ có một lần xuân
Nhưng với lòng em xuân mỗi tuần
Thơ thẩn tâm hồn hoa nở nhuỵ
Cạn dòng tâm sự được bao lần.
Em cứ tưởng rằng anh với em
Như hình với bóng dưới màn đêm
Hoàng hôn đã khóc niềm chung thuỷ
Đau đớn tình anh khắng khít thêm.
Cho nên không thể nói không yêu
Mà nói rằng yêu, yêu rất nhiều
Trời đất ngập tràn thơ vĩnh biệt
Lòng em chan chứa biết bao nhiêu

(Chan Chứa)

Bà đính chính rằng nhiều bài báo viết sai sự thật về mối tình của bà và Hàn Mặc Tử, bà bảo rằng tình yêu giữa hai người hoàn toàn trong sáng, không có chút gì xàm xỡ hay hoen ố.
Bệnh tình của Hàn Mặc Tử mỗi lúc một trầm kha khiến có lúc ông buồn rầu  mà sáng tác bài Muôn Năm Sầu Thảm
Nàng hỡi nàng muôn năm sầu thảm
Nhớ thương còn một nắm xương thôi!
Thân tàn ma dại đi rồi,
Rầu rầu nước mắt bời bời ruột gan.
Nghe hơi gió ôm ngang lấy gió,
Tưởng từng như trong đó có hương
Của người mình nhớ mình thương...
Nào hay gió tạt chẳng vương vấn gì.
Nhớ lắm lúc như si như dại,
Nhớ làm sao bải hoải tay chân!
Nhớ hàm răng, nhớ hàm răng,
 
Mà ngày nào đó vẫn khăng khít nhiều.
Dẫu đau đớn vì điều phụ rẫy
 
Nhưng mà ta không lấy làm đều.
Trăm năm vẫn còn lòng yêu,
Và còn yêu mãi rất nhiều, em ơi.
 Cả hai người,  Hàn Mặc Tử qua đi nay đến Mộng Cầm cũng qua đời vào tháng bảy hai ngàn lẻ bảy vừa qua, thiên tình sử đã đi vào huyền thoại.