Tuesday, 29 October 2013

TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM (1897- 1963) - LS.Phạm Kim Vinh

TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM (1897- 1963)

Người ta còn nhớ rằng điều kiện tiên quyết do ông Ngô Ðình Diệm đặt ra cho Bảo Ðại là ông Diệm phải được "toàn quyền về dân sự và quân sự’’ thì ông Diệm 
mới chịu trở về lãnh đạo nước Việt Nam.

 

Những ngày chót của cuộc chiến tranh Ðông Dương I. Bảo Ðại phải chịu nhận điều kiện ấy. Do đó, khi nhận định về thành tích đối nội và đối ngoại của Chính Quyền Ngô Ðình Diệm, người ta nên nhận định từ cái bối cảnh ‘’toàn quyền dân sự và quân sự’’ đó.


Mặt khác, kể cả những quan sát viên quốc tế có cảm tình sâu đậm nhất với ông Diệm cũng không che đậy sự băn khoăn và lo ngại là ông Diệm không thể đứng vững được tới một năm. Trong hoàn cảnh này, thành tích đối nội của ông Diệm là chìa khóa để mở cửa cho lãnh vực đối ngoại: Cộng Ðồng Quốc Tế sẽ nhìn vào khả năng đối nội của ông Diệm để chấp nhận Chính Phủ và xứ sở của ông ta vào Cộng Ðồng Quốc Tế.

Theo sát sự chấp chánh của ông Diệm ngay từ đầu, một Giáo Sư Chính Trị Học của Mỹ thuộc Viện Ðại Học Michigan là Wesley L. Fishel có nhận xét rằng ông Diệm nhận cái quyền tưởng như rất rộng rãi đó để thực hiện một mục tiêu coi như ‘’không thể làm được’’:

‘’Làm sao giữ vững được con thuyền Quốc Gia lúc ấy đang nghiêng ngửa thảm hại trước những thắng lợi quân sự to lớn và liên tiếp của Việt Minh. ’’.

Là người biết khá rõ về nội tình của Việt Nam năm 1954 Fishel kết luận rằng cái toàn quyền dân sự và quân sự rộng lớn ấy thực ra ‘’chỉ có trên giấy tờ’’ vì ông Diệm không kiểm soát được các lực lượng chính yếu của phía Quốc Gia lúc ấy, Cảnh Sát, Công Chức, Quân Ðội, Giáo Phái. Ðó là chưa kể tới sự phá hoại không cần ngụy trang của thực dân Pháp, sự phá hoại càng tai hại hơn nữa của Cộng sản... Là người ngoại quốc, Fishel nêu được nhận xét ấy cũng đáng khen lắm rồi. Trên thực tế, ông Diệm đã lãnh đạo trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn mà ngoài ông ra, không một nhân vật quốc gia nào lúc ấy dám có khí phách nhận lãnh Lá Cờ Quốc Gia.


Là người làm chính trị tầm vóc quốc tế, cái nhìn của ông Diệm đối với việc giải cứu quê hương Việt Nam năm 1954 là cái nhìn ở tầm mức Quốc Gia. Chỉ có cái nhìn sâu sắc và bao quát như thế mới có thể giữ vững được uy quyền Quốc Gia để từ đó, đạt tới các mục tiêu khác của sự đối nội và đối ngoại. Tin tưởng rằng người dân Việt nào cũng yêu nước một cách sáng suốt và nhất là tỉnh táo trước nguy cơ của cộng sản, ông đã kêu gọi lòng yêu nước và sự hiểu biết của dân chúng Việt Nam để giúp ông hoàn thành sứ mạng cứu nước. Nhưng lúc ấy, bức tranh của xã hội Việt Nam, nhất là xã hội miền Nam Việt Nam thật là nản lòng.


Sự nản lòng đầu tiên đến từ chính người đã trao toàn quyền cho ông Diệm, đó là ‘’Quốc Trưởng’’ Bảo Ðại. Ðược mẫu quốc Pháp đào tạo để trở thành một con người chỉ biết hưởng thụ vật chất, Bảo Ðại đã ‘’bán đứt’’vùng Sài Gòn-Chợ Lớn cho tên tướng cướp Bảy Viễn để lấy một số tiền lớn sống xa hoa tại Pháp. Vì sự mua bán này và tin rằng Bảo Ðại có khả năng gạt ông Diệm ra khỏi chính trường Việt Nam bất cứ lúc nào, tên Bảy Viễn đã hành động y hệt một ông vua của Sài Gòn-Chợ Lớn. Ðồng đảng của tên Bảy Viễn lại nắm luôn cả Ngành Cảnh Sát Công An Nam Việt Nam lúc ông Diệm chấp chánh nữa.


Bảy Viễn

Quân Ðội Quốc Gia thời ấy chưa được thử thách nhiều và lại đặt dưới sự khống chế của Bộ Tư Lệnh Pháp tại Ðông Dương (muốn di chuyển một đơn vị quân sự Việt Nam dầu nhỏ đến đâu cũng phải được sự cho phép của Bộ Tư Lệnh Pháp). Như thế chưa đủ, nên người Pháp còn đặt tên Nguyễn Văn Hinh vào vai trò Tham Mưu Trưởng đầu tiên của Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam. Hinh là ‘’dân Tây’’ mang cấp bậc Trung Tá Không Quân của Pháp nên hết lòng khuyển mã với quan thầy thực dân Pháp. Với tư cách ấy, xuất xứ ấy mà lại điều khiển Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam, tên Hinh rất xứng đáng với danh xưng ‘’việt gian’’. Cũng may là trong thời kỳ phôi thai này, có một số Ðơn Vị Quân Ðội Quốc Gia đã may mắn có Ðơn Vị Trưởng sáng suốt để ‘’ly khai’’ khỏi sự khống chế của thực dân/Hinh để trực tiếp ủng hộ ông Diệm trong việc đối nội.


Nếu lúc ấy, các Giáo Phái tại miền Nam Việt Nam có được cái nhìn tầm mức Quốc Gia như ông Diệm, nếu họ thấu triệt được nguy cơ cộng sản như ông Diệm, thì các Giáo Phái ấy đã phải tự nguyện tìm đến hợp tác với Chính Quyền Diệm rồi. Tiếc rằng thực dân Pháp đã làm băng hoại tinh thần yêu nước của các Giáo Phái ấy và mang quyền lợi riêng tư làm mồi câu, khiến cho các Giáo Phái ấy không nhìn thấy được con đường phải theo nữa. Võ trang cho các Giáo Phái ở miền Nam là một thủ đoạn của người Pháp. Hậu quả của thủ đoạn ấy là khai sanh tinh thần ‘’lãnh chúa’’ nơi những người Lãnh Ðạo Giáo Phái. Tinh thần ấy đã uốn nắn lối suy tưởng của người Lãnh Ðạo Giáo Phái, làm cho họ chỉ còn nhìn thấy quyền lợi nhỏ hẹp trong giới hạn Tôn Giáo của họ. Giáo Sư Fishel ghi rằng ‘’các Giáo Phái võ trang ấy đã đòi giá rất cao để hợp tác với ông Diệm’’ (Marvin E. Gettleman, ‘’Vietnam...’’ Trang 198).


Tướng Trịnh Minh Thế

Người viết sách này rất hãnh diện được tôn vinh ở đây sự sáng suốt về chính trị và lòng yêu nước sâu xa của Tướng Trình Minh Thế, người đã làm đẹp mặt cho Giáo Phái Cao Ðài. Tướng Thế đã đến với ông Ngô Ðình Diệm rất sớm và cũng là một trong những người có công lớn thúc đẩy ông Diệm có thái độ dứt khoát với Bảo Ðại. Tướng Thế là một Quân Nhân đa hiệu đa năng, có khả năng hiếm có là vừa có dũng lại vừa có mưu lược. Ông ta đã đi trước người đương thời đến cả chục năm về sáng kiến và phát minh, thí dụ chế ra cách làm bom nổ chậm, lập đài phát thanh, lập đường dây điện thoại đặc biệt. Phải khâm phục Tướng Thế về cái nhìn chiến lược của ông ta ngay trước khi thỏa hiệp Genéve 1954 ra đời. Lúc ấy, Tướng Thế đã chủ trương rằng, nếu Hà Nội không chịu chấm dứt cuộc xâm lăng miền Nam Việt Nam thì cần chiếm ngay hai Tỉnh quan ải của Bắc Việt, tiếp giáp với vĩ tuyến 17, để buộc Hà Nội phải chấm dứt mọi hình thức khuynh đảo và xâm chiếm miền Nam Việt Nam.

Ðạo quân công chức quốc gia lúc ông Diệm về nước là đạo quân phục vụ nhiều năm dưới sự lãnh đạo của thực dân Pháp. Ðó là một đạo quân ngơ ngác, an phận và nói rõ hơn nữa, là khiếp nhược. Ðạo quân ấy chắc chắn không giúp gì được cho ông Diệm trong những tuần lễ đầu tiên ông ta cầm quyền.

Ðó là chưa kể đến sự phá hoại vừa công khai, vừa kín đáo của thực dân Pháp, chưa kể đến thái độ ‘’chờ xem’’ của ngay chính nước bạn Mỹ và lại càng chưa nói đến sự phá hoại còn ghê gớm hơn nữa của cộng sản...Có lẽ điều an ủi duy nhất cho ông Diệm trong lúc ấy là thái độ thụ động của quần chúng miền Nam Việt Nam. Dường như họ trông chờ xem ông ta có thể làm gì được để xoay chuyển tình thế quá đen tối lúc ấy và thế giới bên ngoài không ngạc nhiên nữa, khi có rất nhiều quan sát viên chờ đợi Chính Quyền Diệm sụp đổ ngay sau năm cầm quyền đầu tiên.
Thế mà ông Ngô Ðình Diệm đã đứng vững được năm đầu tiên và còn đứng vững hơn nữa ít ra là ở năm năm kế tiếp.

Khí phách và đởm lược lãnh đạo của ông Diệm đã bị mang thử thách dữ dội nhất vào ngày 19.3.1955, khi những người Lãnh Ðạo Cao Ðài, Hòa Hảo và Bình Xuyên liên kết với nhau thành một mặt trận rồi gởi tối hậu thư cho ông Diệm. Ðồng thời, phía thực dân Pháp tại Sài Gòn còn làm bộ nhân đức là khuyên ông Diệm ‘’đừng nên chiến tranh tại Ðường Phố Sài Gòn/Chợ Lớn để dẹp các Giáo Phái’’. Ông Diệm đã hành động đúng vai trò của một người Lãnh Ðạo Quốc Gia là không thể duy trì tình trạng quái gở và hỗn loạn là nhiều Quốc Gia trong một Quốc Gia. Chỉ cần ông nhu nhược và đầu hàng cái tham vọng lãnh chúa và thiển cận của các Giáo Phái võ trang thời ấy là miền Nam Việt Nam đã rơi vào tình trạng vô chính phủ, để rồi làm mồi cho Cộng sản ngay sau đó rồi (Vietnam Crisis, trang 86).
Quốc Gia đầu tiên chấm điểm thành tích của Chính Quyền Diệm là nước Mỹ và họ chấm điểm một cách rất thiết thực. Trước hào quang sáng chói của ông Diệm sau cuộc di cư 1954-1955, với sự ủng hộ cụ thể và nồng nhiệt của nhiều Quốc Gia dành cho ông ta, phía cộng sản rất lo sợ. Chúng vội vàng tìm đề tài tuyên truyền để mong triệt hạ uy tín đang lên cao ấy của ông Diệm. Ðề tài được chúng nhai lại nhiều lần và vẫn có kẻ ngu xuẩn trên thế giới tin theo, là sự gán cho ông Diệm cái tội ‘’làm tay sai cho đế quốc Mỹ’’


Tài liệu ngổn ngang trong sách báo ngoại ngữ đều chứng minh điều ngược hẳn lại, nghĩa là cho tới ngày chết, ông Diệm không những đã không rơi vào cái lỗi sợ sệt nước bạn Mỹ, mà còn làm cho nước bạn Mỹ nhiều lần căm hờn vì tinh thần bất khuất và vì ý thức bảo vệ danh dự cũng như Chủ Quyền Quốc Gia lúc nào cũng cực kỳ mạnh mẽ trong con người cũng như trong tác phong của ông Diệm.


Rõ rệt nhất có lẽ là thời điểm mà nước Mỹ đã lựa để khởi đầu sự viện trợ cho Chính Quyền Diệm. Mãi tới tháng 10.1954, sau hai tháng có mặt tại Nam Việt Nam để tìm hiểu hy vọng tồn tại của Chính Quyền Diệm, Nghị Sĩ Mỹ Mike Mansfield (người có ảnh hưởng rất sâu xa đối với việc hình thành chính sách đối ngoại của nước Mỹ) mới phúc trình về Quốc Hội Mỹ rằng ông Diệm rất xứng đáng được Mỹ viện trợ về kinh tế và quân sự. Mansfield kết luận trong phúc trình rằng ‘’...Ông Diệm nổi tiếng khắp Việt Nam là người có Tinh Thần Quốc Gia rất cao, là người không thể bị mua chuộc. Ông ta cương quyết diệt trừ phá hoại và diệt âm mưu, mạnh mẽ chống tham nhũng và bất công xã hội. Từ sự thất bại của tự do trước đó, ông ta đã đưa vào một sinh khí mới. ’’ (Stephen Pan & Daniel Lyons, ‘’Vietnam Crisis’’ Twin Circle Publishing Co. , New York 1966, trang 86).


Ðầu tháng 1 năm 1956, tuần báo ôn hòa và trung lập của nước Anh là tờ The Economist viết: ‘’Từ một tình thế dường như tuyệt vọng trước đó 18 tháng, Tổng Thống Ngô Ðình Diệm đã mang lại được một trật tự và một sự yên ổn có thể làm cho Miến Ðiện, Nam Dương và ngay cả Mã Lai nữa, thèm muốn. Nhưng công việc còn phải làm sẽ rất nhiều và gian nan. ’’(Vietnam Crisis, trang 80)

Tháng 6 năm 1956, tại diễn đàn Hội Những Người Mỹ Bạn Của Việt Nam, Nghị Sĩ John F. Kennedy khuyến cáo nước Mỹ ‘’hãy mau lẹ cung cấp viện trợ quân sự và kinh tế nhiều hơn nữa cho Tổng Thống Diệm, vì Chính Phủ của ông ta đã thực hiện những bước sinh tử đầu tiên để tiến tới dân chủ thực sự. Ở nơi mà trước đây, thực dân và cộng sản giành ngôi bá chủ, đã có được một Nước Cộng Hòa Tự Do và Ðộc Lập, được trên 40 Quốc Gia của Thế Giới Tự Do thừa nhận. ’’ (Hans Morgenthau, ‘’America Stake in Vietnam’’ New York 1956, trang 69)


Tên ký giả thực dân và xấc láo của Mỹ là David Halberstam sau này hung hăng chống lại sự trợ giúp của Mỹ cho Nam Việt Nam mà hồi ấy cũng phải trầm trồ ca tụng là ‘’...Diệm đã hành động rất đúng và rất can đảm trong những năm đầu tiên của Chính Phủ của ông ta.’’ (William Colby, ‘’Honorable Men, My Life In The CIA’’ Simon & Schuster, New York 1978, trang 158).


Trên đây chỉ là sự trích dẫn một vài lời trong nhiều lời ca tụng nồng nhiệt đầy kính trọng mà nhiều Quốc Gia đã dành cho Chính Quyền Diệm những năm đầu của Chính Quyền ấy. Lời lẽ trong những lời ca tụng ấy đã tạm đủ để cho người Việt Quốc Gia hiểu rằng không thể tự nhiên mà được Cộng Ðồng Quốc Tế ban cho những lời ca tụng ấy và không phải bất cứ người Việt Quốc Gia nào cũng có cơ hội được hưởng những lời ca tụng ấy.


Bốn mươi lăm của Chính Phủ Hội Viên của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc đã thừa nhận Chính Phủ Diệm và lập quan hệ ngoại giao chính thức với Chính Phủ ấy. Chính Phủ Diệm cũng còn được hưởng quy chế quan sát viên thường trực tại Liên Hiệp Quốc.


Nhiều Cường Quốc và nhiều Quốc Gia Tự Do đã mời ông Ngô Ðình Diệm tới thăm chính thức tại Nước họ để được nghe ông Diệm nói về triển vọng xây dựng một miền Nam Việt Nam Tự Do và Dân Chủ. Cử chỉ mời ông Diệm tới thăm chính thức cũng là một hình thức để các Quốc Gia thân hữu ấy chứng tỏ cho Thế Giới biết rằng không phải họ chỉ có gởi tới ông Diệm những lời ca tụng xuông mà thôi.

Có theo dõi những buổi thuyết trình, chiếu lại hình ảnh những khi ông Diệm đọc diễn văn trước các Cơ Quan Hiến Ðịnh cao nhất của các Quốc Gia thân hữu ấy, có quan sát sự kính nể mà các Nhà Lãnh Ðạo Quốc Gia ấy dành cho ông Diệm và có nhìn thấy thái độ tự trọng, tự tin và rất trang nghiêm đầy tinh thần Kẻ Sĩ Ðông Phương của ông Diệm trong cương vị đại diện chính thức cho Dân Tộc Việt Nam, người ta lại càng thêm tin rằng quả thật lòng yêu nước nhiệt thành và Tinh Thần Quốc Gia cao độ của ông Diệm đã mang lại cho ông sự kính nể và ngưỡng mộ của Thế Giới bên ngoài.

Sau khi ông Diệm bị giết hại rồi, từ đó về sau, cho tới ngày miền Nam Việt Nam sụp đổ vào cuối tháng 4 năm 1975, Chính Quyền Quốc Gia của Nam Việt Nam không bao giờ có được một người lãnh đạo có hào quang tối thiểu để được Cộng Ðồng Quốc Tế kính trọng nữa.


Chính Quyền Ngô Ðình Diệm là Chính Quyền duy nhất của người Việt Quốc Gia tạo được Chính Danh, Chính Thống và Chính Nghĩa cho công cuộc chống cộng chung.

CHIẾN DỊCH TỐ CỘNG

Một trong những thành tích được nhắc nhở nhiều của Chính Quyền Ngô Ðình Diệm là Chiến Dịch Tố Cộng. Ðể tránh dùng những chữ lớn, ta hãy lượng định kết quả Chiến Dịch ấy bằng một tiêu chuẩn thiết thực, đó là cuộc trắc nghiệm để xem người dân miền Nam Việt Nam ủng hộ Chính quyền Diệm tới mức nào và nếu có sự ủng hộ đó thì sự vạch mặt chỉ tên những tên cộng sản nằm vùng sẽ là cái thước để đo sự ủng hộ ấy. Cho tới năm 1959, kết quả thâu được cho Chiến Dịch ấy thật là tốt đẹp, người dân miền Nam đã sốt sắng chỉ chỗ ẩn núp, cho tên tuổi những tên cộng sản nằm vùng để Chính Quyền Quốc Gia theo dõi hoặc bắt giữ.

Hồ Chí Minh

Cũng nên nhắc lại là từ năm 1954 cho tới 1956, tập đoàn lãnh đạo Hà Nội ung dung ngồi chờ Chính Phủ Diệm sụp đổ. Sau năm 1956, Chính Phủ Diệm không những đã không chết mà lại vững mạnh hơn rất nhiều và nhất là Chiến Dịch Tố Cộng bắt đầu tàn phá hàng ngũ nằm vùng của cộng sản thì Hà Nội thật sự lo ngại.


Năm 1956, Hà Nội phái Lê Duẩn vào miền Nam để làm sống lại cơ cấu nằm vùng của cộng sản tại miền Nam. Người ta biết rằng Duẩn đã ở lại miền Nam từ 1956-

Trong khoảng thời gian hai năm này, cộng sản ở miền Nam Việt Nam đã khóc lóc để van xin Hà Nội cứu giúp, vì chiến dịch Tố Cộng của Chính Phủ Diệm gây tai hại quá sức chịu đựng của bọn cộng sản nằm vùng ở miền Nam rồi.


Hà Nội họp đại hội đảng khoáng đại vào đầu năm 1959 để nghiên cứu cách cứu bọn đàn em ở miền Nam. Từ phiên họp khoáng đại này, Hà Nội đi tới quyết định là dùng võ lực để chiếm miền Nam Việt Nam.


Tuy trước đó, Hà Nội vẫn đều đều xâm nhập người và vũ khí từ miền Bắc vào miền Nam, nhưng mức xâm nhập ấy chỉ để nuôi sống bọn đàn em ở miền Nam, chứ không đủ để mong lật đổ Chính Quyền Quốc Gia của ông Diệm. Ðơn vị xâm nhập quy mô đầu tiên mang bí số là 559, gồm trên 20.000 người (binh lính, cán bộ và lao công). Bắt đầu xâm nhập vào miền Nam từ tháng 5 năm 1959. Số 559 là bí số bắt nguồn từ thời điểm ‘’tháng 5 năm 1959’’). Tên Võ Bầm là sĩ quan cao cấp đầu tiên của quân đội Hà Nội được chỉ định điều khiển đoàn xâm nhập 559. Ngày 25.2.1983, Tuần Báo The Economist của nước Anh ghi lại cuộc phỏng vấn Võ Bầm do Ðài Truyền Hình Pháp, chương trình phim tài liệu thực hiện, với Phái viên Jérôme Kanapa phỏng vấn. Võ Bầm đã thú nhận rằng sự xâm nhập quy mô đã bắt đầu ngay từ năm 1959, nghĩa là hai năm trước khi Tổng Thống Kennedy bắt đầu đẩy mạnh sự viện trợ quân sự cho miền Nam Việt Nam.


Vậy thì cho tới năm 1959, ít ra, quảng đại quần chúng của miền Nam Việt Nam chưa bị các sự tuyên truyền phá hoại từ nhiều phía đầu độc sự suy tưởng của họ và họ đã để Chính Quyền Diệm có cơ hội hành động.


Những hậu quả đầu tiên của sự xâm nhập quy mô từ miền bắc đã để lại chết chóc gia tăng rất sớm. Thống kê về những sự ám sát Viên Chức Xã Ấp tại miền Nam Việt Nam từ 1957 tới 1959 cho thấy rõ mức độ tàn phá gia tăng của sự xâm nhập ấy. Thí dụ trong trọn năm 1958, có tất cả 193 vụ ám sát Viên Chức Xã Ấp ở miền Nam Việt Nam, trong khi chỉ riêng bốn tháng cuối của năm 1959, đã có tới 119 vụ ám sát tương tự (William Colby, ‘’Honorable Men...trang 158).


Chính Phủ Úc là một trong vài Quốc Gia sáng suốt và khôn ngoan nên đã sớm hiểu các khó khăn của ông Diệm, và nhất là hiểu tại sao từ 1959 trở về sau, Chính Quyền ấy càng ngày càng phải cứng rắn hơn trước khi đối phó với cộng sản. Chính Phủ Úc nhân dịp này đã gửi cho Thế Giới một lời khuyên thiết thực, đầy khôn ngoan để Thế Giới ấy biết cách đánh giá hiệu năng của Chính Quyền Ngô Ðình Diệm. Nhắc nhở Thế Giới là hãy đánh giá Chính Phủ Diệm theo tiêu chuẩn Á Ðông và theo thực tế của tình hình, hơn là theo cách đánh giá của Tây phương, Ngoại Trưởng Úc R. G. Casey viết: ‘’Hai sự việc cần được mọi người ghi nhớ khi muốn chỉ trích Chính Quyền Nam Việt Nam. Thứ nhất, Việt Nam đang ở tuyến đầu Chiến Tranh Lạnh. Chính Phủ của Xứ ấy không thể để lộ một sơ hở nào khả dĩ cho đối phương khai thác. Một sơ hở nào lộ ra cũng sẽ cực kỳ nguy hiểm, không những cho Việt Nam mà còn cho tự do cả Ðông Nam Á nữa. Thứ hai, sự thực hiện dân chủ ở Cấp Bộ Quốc Gia là một quan niệm hoàn toàn mới mẽ tại Việt Nam và cần phải có thời giờ để phát triển các định chế, các truyền thông, các tập tục hầu thực hiện các quyền dân chủ theo đường lối xây dựng và hữu trách. ’’ (Richard Lindhelm, ‘’Vietnam The First Five Years’’Ann Arbor, Michigan 1959, trang 344).

Ngày 27.1.1960, tại Trảng Sụp, gần biên giới Việt Miên trong Tỉnh Tây Ninh, cộng quân đã đánh úp và gây thiệt hại rất nặng nề cho Hậu Trạm một Trung Ðoàn Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa. Trận đánh úp này coi như chính thức mở màn cuộc chiến tranh Ðông Dương II và cho thấy mức độ xâm nhập của cộng sản vào miền Nam đã tới thời kỳ đe dọa sự tồn tại của miền Nam tự do.


Tháng 5.1960, Hà Nội họp tập đoàn lãnh đạo, rồi công khai tuyên bố tại phiên họp ấy rằng ‘’...đã đến lúc kiên trì chiến đấu dũng cảm để diệt Chính Phủ Diệm. ’’(William Colby, ‘’Honorable Men... trang159).


Jean Lacouture

Bernard B. Fall 

Thêm một dấu vết rõ rệt nữa để chứng tỏ sự hữu hiệu của Chiến Dịch Tố Cộng. Ðó là lời của hai tác giả Pháp thân cộng, Jean Lacouture và Bernard Fall. Hai tên này chạy tội cho Hà Nội bằng cách nói rằng vì bị Chính Quyền Diệm săn đuổi, lùng diệt dữ quá nên cộng sản ‘’đành phải đánh trả để khỏi bị tiêu diệt’’. Mặc dù đây là lời chạy tội cho phía cộng sản, nhưng lời chạy tội ấy lại có một tác dụng dội ngược không ngờ là đã trực tiếp nhìn nhận rằng quả thật Chiến Dịch Tố Cộng của Chính Quyền Diệm đã đánh trúng huyệt của cộng sản.


Tháng 9 năm 1960, Hà Nội họp đại hội đảng lần thứ 3 để thông qua nghị quyết tiến đánh chiếm miền Nam Việt Nam và để lừa gạt dư luận thế giới. Công cụ ấy được mệnh danh là Mặt trận giải phóng miền Nam.

Trước khi Hà Nội khai sinh công cụ nói trên, có hai biến cố tại Nam Việt Nam diễn ra theo chiều hướng bất lợi cho cuộc chiến đấu tự vệ của Nam Việt Nam. Thứ nhất là ‘’tối hậu thư’’ của ‘’nhóm Caravelle’’gửi ông Diệm và thứ hai là cuộc đảo chính bất thành của một số sĩ quan cấp Tá đêm 11.11.1960.

Dưới đây là danh sách 18 thành viên của nhóm Caravelle ký tên trong Tuyên cáo ngày 26 tháng 4 năm 1960 (xếp theo thứ tự ký tên).
 STT Tên Năm sinh Quê quán Tôn giáo Đảng phái Ghi chú
(tại thời điểm ký tên)

1Trần Văn Văn1907Long XuyênTam giáoĐảng Phục HưngThạc sĩ Thương mại, cựu Bộ trưởng Kinh tế và Kế hoạch.
2Phan Khắc Sửu1905Cần ThơCao ĐàiMặt trận Đại đoàn kết Quốc dânKỹ sư Canh Nông, cựu Bộ trưởng Canh Nông.
3Trần Văn Hương1902Vĩnh LongTam giáoĐảng Phục HưngGiáo sư Trung học, cựu Đô trưởng Sài Gòn-Chợ Lớn.
4Nguyễn Lưu Viên1919Trà VinhTam giáoKhông đảng pháiBác sĩ Y khoa, cựu Cao ủy Di cư.
5Huỳnh Kim Hữuchưa rõ(quê quán miền Nam, chưa rõ)Tam giáoNhóm Tinh thầnBác sĩ Y khoa, cựu Bộ trưởng Y tế.
6Phan Huy Quát1908Nghệ AnTam giáoĐảng Đại ViệtBác sĩ Y khoa, cựu Bộ trưởng Quốc phòng và Giáo Dục.
7Trần Văn Lý1901Quảng TrịThiên chúa giáoLiên đoàn Công giáocựu Thủ hiến Trung phần.
8Nguyễn Tiến Hỷchưa rõ(quê quán miền Bắc, chưa rõ)Tam giáoViệt Nam Quốc dân đảngBác sĩ Y khoa.
9Trần Văn Đỗ1903Biên HòaTam giáoNhóm Tinh thầnBác sĩ Y khoa, cựu Bộ trưởng Ngoại giao.
10Lê Ngọc Chấnchưa rõThanh HóaTam giáoViệt Nam Quốc dân đảngLuật sư, cựu Bộ trưởng Quốc phòng.
11Lê Quang Luậtchưa rõ(quê quán miền Bắc, chưa rõ)Thiên chúa giáoPhong trào Liên hiệp Dân chúngLuật sư, cựu Bộ trưởng Thông tin.
12Lương Trọng Tường1904Biên HòaHòa HảoĐảng Dân XãKỹ sư công chánh, cựu Thứ trưởng Kinh tế Quốc gia.
13Nguyễn Tăng Nguyênchưa rõ(quê quán miền Trung, chưa rõ)Phật giáoĐảng Cần LaoBác sĩ Y khoa, cựu Bộ trưởng Lao Động và Thanh Niên.
14Phạm Hữu Chươngchưa rõ(quê quán miền Bắc, chưa rõ)Tam giáochưa rõBác sĩ Y khoa, cựu Bộ trưởng Y tế và Công tác Xã hội.
15Trần Văn Tuyên1913Tuyên QuangTam giáoViệt Nam Quốc dân đảngLuật sư, cựu Bộ trưởng Thông tin và Tuyên truyền.
16Tạ Chương Phùngchưa rõQuảng NgãiTam giáoKhông đảng pháicựu Tỉnh trưởng Bình Định.
17Trần Lê Chất1874(quê quán miền Bắc, chưa rõ)Tam giáoKhông đảng pháiTiến sĩ Hán học.
18Hồ Văn Vui1917(quê quán miền Nam, chưa rõ)Thiên chúa giáoKhông đảng pháiLinh mục, Chánh xứ họ đạo Tha La, Tây Ninh.

Nhóm Caravelle (dân chúng còn dùng danh từ mỉa mai ‘’nhóm trí thức Caravelle’’ để tặng nhóm này nữa) gồm gần hai chục nhà ‘’trí thức ‘’ Việt Nam họp nhau tại Nhà Hàng Caravelle, là Nhà Hàng sang trọng nhất Sài Gòn thời ấy để bàn ‘’quốc sự’’. Sau bữa tiệc linh đình, với rượu ngon, gái đẹp, các vị trí thức ấy đã gửi tối hậu thư đòi Ông Diệm phải cải tổ Chính Phủ và thay đổi đường lối lãnh đạo.Trong điều kiện sinh hoạt chính trị bình thường, hiểu là không bị cộng sản đe dọa, thì yêu cầu ấy thật hợp lý. Tiếc rằng các nhà trí thức kia đã không đếm xỉa đến lời cảnh cáo thật ý nghĩa của Ngoại Trưởng Úc R. G. Casey. Nói nôm na là họ đòi ông Diệm chia ghế lãnh đạo với họ.


Ông Ngô Đình Nhu, một trí thức uyên bác, cố vấn của Tổng thống.

Nhưng nguy hơn nữa là nhóm trí thức ấy không nhìn thấy nguy cơ của cộng sản càng ngày càng lan rộng, càng đè nặng lên miền Nam Việt Nam. Theo sự suy luận của nhóm trí thức ấy thì chỉ cần ông Diệm chia cho họ một số ghế trong Chính Phủ thì nguy cơ cộng sản sẽ tự nhiên tan biến như một phép lạ. Người ta có thể chỉ trích ông Diệm về nhiều điều, nhưng không thể phê bình ông về cái nhìn sắc bén cũng như thiết thực về nguy cơ của cộng sản. Hãy cứ tưởng tượng sự lãnh đạo miền Nam được trao vào tay gần hai chục nhà đại trí thức ngây thơ thuộc nhóm Caravelle thì sự sống còn của miền Nam Việt Nam trong tự do sẽ đếm được bao nhiêu ngày sau đó ?

General Nguyen Chanh Thi.jpg
Tướng Nguyễn Chánh Thi

Cuộc đảo chính đêm 11.11.1960 diễn ra một cách rất tài tử, hay dùng chữ chính xác hơn nữa, một cách ngu xuẩn. Chưa tới hai chục sĩ quan cấp Tá, lớn nhất là cấp bậc Trung Tá, nhờ móc nối được với một vài Ðơn Vị Dù đồn trú gần Sài Gòn, đã mưu lật đổ Chính Phủ Diệm. Có hai nét nổi bật về thân thế đa số sĩ quan chủ mưu cuộc đảo chánh ấy. Thứ nhất phần lớn đều xuất thân từ quân đội thực dân Pháp. Ý niệm yêu nước, độc lập và chống cộng của họ đã bị người Pháp uốn nắn nên đã trở thành rất lờ mờ. 

Thứ hai, đa số là Huấn Luyện Viên tại Trường Ðại Học Quân Sự (Trường này trước năm 1955 là Viện Nghiên Cứu Quân Sự của Pháp tại Việt Nam. Khi Pháp rút hết thì Trường ấy trao lại cho Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, được đổi tên là Trường Ðại Học Quân Sự, rồi đến giai đoạn chót, trước khi Nam Việt Nam sụp đổ, được cải danh thành Trường Chỉ Huy và Tham Mưu). Tất cả đám chủ mưu này không ai có thành tích tranh đấu về chính trị và chưa bao giờ tham chính. Người duy nhất giữ được tư cách và khí phách là Trung Tá Nguyễn Triệu Hồng và ông ta là người chết đầu tiên khi cầm đầu một đám đàn em xung phong chiếm Tổng Nha Cảnh Sát.


Phan Lạc Tuyên đứng sau Hồ Chí Minh
Ông Phan Lạc Tuyên làm phim tài liệu cùng TFS năm 2010 - Ảnh: TFS

Ða số kẻ chủ mưu cuộc đảo chánh này đã theo đường bộ trốn thoát sang Cao Mên. Trong số này, có Đại úy thi sĩ Phan Lạc Tuyên, tác giả nhiều bài thơ tình cảm dân tộc rất được ưa chuộng, đã bị cộng sản tại Cao Mên móc nối, hứa hẹn trời biển sao đó mà ông ta đã bỏ hàng ngũ Quốc Gia để gia nhập vào quân đội cộng sản. Chúng đã phong cho ông ta tới chức Trung đoàn trưởng (có được thật sự chỉ huy một Trung đoàn hay không là điều không cần bàn ở đây) và nghe nói việt cộng mang tên tuổi ôngta dùng vào việc tuyên truyền sách động quần chúng trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968.

Sau cuộc đảo chính bất thành ấy, khi nghe thuộc hạ báo cáo về xuất xứ thành phần ‘’Phản loạn’’ phần lớn là sĩ quan Huấn Luyện Viên của Trường Ðại Học Quân Sự, ông Diệm đã gọi Trường ấy là ‘’Trường phản loạn’’ và ít ngày sau đó ông ra lệnh đuổi Trường ấy lên Thành Phố Cao Nguyên Ðà Lạt.

Vài nét vắn tắt về Trường Quân Sự này sẽ không vô ích, vì nó giúp người đọc hiểu thêm chút nữa về lý do khiến cho một số Quân Nhân miền Nam Việt Nam thù hận ông Diệm. Khi gọi Trường ấy là ‘’Trường phản loạn’’, có thể ông Diệm không ngờ rằng chính cái chính sách dùng người của ông ta đã cung cấp chất liệu để dần dần, tạo thành tinh thần phản loạn tại Trường ấy. Ông Diệm đi tiên phong chính sách dùng người ‘’theo tín nhiệm hơn là theo khả năng’’Nhiều Sĩ Quan Tỉnh Trưởng hoặc Quận Trưởng được thăng cấp rất mau, được ban thưởng hậu hĩ, nhưng cũng có thể bị cất chức rất mau. Một số đông quý vị sĩ quan từng được ân sủng như thế đã được tuyên chuyển về làm Huấn Luyện Viên Trường Ðại Học Quân Sự. Vì lúc ấy, miền Nam chưa có Trường Cao Ðẳng Quốc Phòng nên Trường Ðại Học Quân Sự là Trường Cao Cấp nhất của Nam Việt Nam. Là Quân Trường cao cấp nhất, nhưng Trường ấy lại chứa nhiều kẻ bất mãn nhất trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Chưa có Ðơn Vị Quân Ðội nào lại chứa nhiều kẻ thất sủng đến như vậy, đa số Huấn Luyện Viên tới lớp dạy học thường vẫn còn phô trương cái thuở vàng son quá khứ của họ khi vên váo kể cho các Sĩ Quan Khóa Sinh nghe thời kỳ họ còn cai trị ở Tỉnh này, ở Quận kia v.v...Ngoài sự căm thù ông Diệm đã cất chức họ, nhiều Sĩ Quan của Trường Ðại Học Quân Sự lại có một lý do khác nữa, chẳng cao quý gì, để thù hận ông Diệm thêm. Trong những lúc rãnh rỗi, họp nhau tại Câu Lạc Bộ của Trường, hoặc tụ họp nhau để ăn nhậu say sưa tại một hàng quán sang trọng nào đó, đám Sĩ Quan này thường chửi rủa ông Diệm vì ông đã ‘’ngăn cản không cho họ được sống xa hoa, trụy lạc bừa bãi’.

Vụ nhóm "trí thức" Caravelle được nhà báo Tây phương ác cảm với Chính Quyền Diệm thổi phồng thành một lý do để đám nhà báo ấy kết án Chính Quyền Diệm là ‘’thiếu căn bản dân chủ’’. Vụ đảo chính bất thành 11.11.1960 được bọn nhà báo ấy suy diễn là ‘’Quân Ðội Nam Việt Nam không tín nhiệm ông Diệm và không muốn ủng hộ ông ta nữa.’’ Dĩ nhiên, hai điều này đã được Hà Nội tận tình khai thác. Nhưng chúng vẫn chưa thấy là đủ để dùng đòn độc hạ thủ ông Diệm. Chất liệu độc thủ ấy đã được một số người thuộc thành phần "trí thức" miền Nam dâng cho Hà Nội để từ đó, đẻ ra cái quái thai chính trị gọi là "Mặt trận giải phóng miền Nam".


Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam trong một buổi lễ tuyên thệ tại mật khu ở miền Nam vào đầu thập niên 60’

Cái quái thai chính trị này là lá bài then chốt của Hà Nội để che mắt thế giới hầu đẩy mạnh cuộc xâm lược võ trang chiếm miền Nam sau này. Từ 1960 là thời điểm Hà Nội khai sinh tổ chức gọi là "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam" cho chúng. Ngày chúng chiếm được Nam Việt Nam vào cuối tháng 4.1975, cái đám trí thức miền Nam nói trên đây, vừa ngu dại, kiêu căng lại vừa thiển cận đã đắc lực giúp Hà Nội trên mặt trận quốc tế vận cũng như trên mặt trận dụ dỗ người nông dân miền Nam Việt Nam.


Năm 1961 có hai biến chuyển lớn. Một là sự tái đắc cử của ông Diệm vào tháng 4 năm ấy và hai là việc Nghị Sĩ trẻ tuổi John F. Kenedy nhận chức Tổng Thống Mỹ. Ngay sau khi biết ông Diệm tái đắc cử, cộng sản biết rõ rằng trong những năm tới, chúng còn khốn đốn hơn nữa vì chủ trương triệt để chống cộng của ông Diệm. Do đó, cộng sản quốc tế la làng rằng ông Diệm ‘’...là kẻ thù của nhân dân Á Châu và là chướng ngại chính cho sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản tại Á Châu. ’’ (Vietnam Crisis trang 110).

ẤP CHIẾN LƯỢC


Dầu cho kế hoạch lập Ấp Chiến Lược của Chính Quyền Ngô Ðình Diệm được ca tụng hay bị chê bai thì kế hoạch ấy cũng là một trong những điều được chú ý 
nhiều.


Kế hoạch gom dân lại để tách họ khỏi sự khủng bố của cộng sản và cũng để cộng sản không bám được vào dân mà kiếm lương thực, không phải là sáng kiến mới mẻ gì của miền Nam Việt Nam. Phi Luật Tân và Mã Lai đã dùng công thức ấy để chống cộng sản và hai xứ ấy đã thành công, nhất là Mã Lai. Công thức này làm cho người dân gần với nhau hơn và làm cho người dân gần gũi với chính quyền hơn. Khi còn ở lẻ tẻ, rải rác, cách xa nhau, họ dễ làm mồi cho cộng quân giết hại. Nếu vào trong một Ấp rồi thì người dân sẽ cảm thấy tự tin hơn vì biết rằng cộng quân sẽ phải đánh lớn nếu muốn giết hại dân và nếu muốn cướp thực phẩm của dân. Kế hoạch gom dân như thế đã thành công tại Phi Luật Tân và tại Mã Lai nhờ người dân ở hai xứ ấy đã sớm hiểu được hai điều sinh tử trong cuộc chiến chống cộng sản. Một là người dân hai xứ ấy, tuy không cần phải có trình độ học thức cao, nhưng đã sớm hiểu rằng họ bắt buộc phải hy sinh một phần tự do cá nhân của họ để đổi lấy sự bảo vệ của Chính Quyền Quốc Gia. Ðiều thứ hai còn quan trọng hơn nữa, là họ hiểu rằng trong cuộc chiến tranh tệ hại như chiến tranh chống cộng, nếu người dân không chịu hợp tác với Chính Quyền rồi thì trước sau, người dân cũng sẽ trở thành nô lệ cho cộng sản. Khi ấy thì không một sức mạnh quân sự nào của Chính Quyền Quốc Gia hoặc của một Cường Quốc bạn nào khác có thể giải thoát được họ nữa.


Tại Nam Việt Nam, từ 1962 cho tới tháng 5 năm 1963, Chính Quyền Diệm đẩy mạnh việc lập các Ấp Chiến Lược và gọi kế hoạch ấy là ‘’Quốc sách’’. Kết quả sơ khởi rất tốt đẹp. Chỉ nói riêng về Tỉnh Long An, Chính Quyền Tỉnh ấy đã gom được dân vào 220 Ấp Chiến Lược và trong thời gian gần một năm, Chính Quyền Long An đã dồn được các phần tử việt cộng vào 35 Ấp còn lại. Sự cô lập các phần tử việt cộng tại các Tỉnh khác cũng được ghi nhận là khả quan. Nói một cách khác, kế hoạch lập Ấp Chiến Lược đe dọa sự sống còn của cộng sản ở miền Nam Việt Nam.


Hòa thượng Thích Đôn Hậu, Thượng tọa Thích Trí Quang, Đại tướng Dương Văn Minh

Dương Văn Minh đã ra lệnh “phá bỏ” ấp chiến lược

Kể từ lúc ông Diệm tái đắc cử, Hà Nội đã đặt ưu tiên cao nhất là việc phải hạ bệ ông Diệm cho bằng được. Hà Nội còn phải vùng vẫy để thoát khỏi gọng kìm tai hại của kế hoạch Ấp Chiến Lược. Một cái bẫy thật lớn được Hà Nội tung ra để mưu loại ông Diệm. Không phải vì tình cờ mà kế hoạch phá các Ấp Chiến Lược do Hà Nội phát động lại đồng thời với cuộc khủng hoảng Phật Giáo tại miền Nam Việt Nam.

Tháng 6-1968, trong chiến khu. Lê Quang Lộc, Dương Quỳnh Hoa, Lê Hiếu Đằng - ba thành viên Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam (ảnh tư liệu của ông Phạm Hy Tùng)

Nếu chỉ hoàn toàn dựa vào chém giết và khủng bố thì có thể Hà Nội rốt cuộc sẽ làm cho nông dân vì khiếp sợ quá mà quay lại chống trả bọn chúng. Phải có một chiêu bài khác để vừa dụ nông dân miền Nam, vừa lừa bịp được thế giới bên ngoài. Nên khen Hà Nội có tài dụ dỗ giỏi để đưa được một đám trí thức miền Nam vào cái bẫy sập, hay là nên ngậm ngùi rằng miền Nam lại có thể sản xuất được một số trí thức ngu xuẩn đến mức độ làm tay sai cho một bọn phản quốc có hạng mà lại cứ tưởng rằng mình khôn ngoan lắm và yêu nước lắm? Có lẽ nên nghĩ tới sự ngậm ngùi cho đám trí thức ấy thì đúng hơn, vì khen cộng sản lừa bịp giỏi 
là làm một việc vô ích.


Thượng tọa Thích Trí Quang, bên phải

Từ lúc kế hoạch lập Ấp Chiến Lược bắt đầu được thi hành cho đến khi bùng nổ cuộc khủng hoảng về Phật Giáo tại Nam Việt Nam, thời gian trôi qua chưa tới một năm. Ðó là một khoảng thời gian chưa đủ để lượng định về kết quả của một kế hoạch có tầm mức chiến lược như vậy. Dầu sao, người ta cũng đã thấy những nhược điểm lớn nhất của kế hoạch hiện ra


GS Vũ Quốc Thúc đến ngoài 90 tuổi mới cúi đầu tin nhận Đức Giê-su vào dịp Lễ Phục sinh 08/04/2012 tại Giáo xứ Việt Nam, Paris. 

Nhược điểm đầu tiên là kế hoạch ấy được thảo bởi hai nhân vật rất ít hiểu biết về tình hình chiến tranh khuynh đảo của cộng sản quốc tế. Staley là một người Mỹ chưa từng có một chút kinh nghiệm nào về chiến tranh dấy loạn. Vũ Quốc Thúc là một Nhà Trí Thức Việt Nam chưa bao giờ được coi là người có kiến thức tối thiểu về chiến tranh du kích. Người ta hiểu rằng hai người vừa kể ít ra cũng đã có ‘’tham khảo’’ một số người, có thể là đã tham khảo luôn cả Cố Vấn Phản Du Kích của Chính Phủ Mã Lai là ông Robert Thonpson, nhưng bấy nhiêu chưa đủ. Một điều nguy hại cho kế hoạch ấy ngay từ khởi điểm là Staley/Thúc có vẻ như đã tin rằng kế hoạch gom dân để tách họ ra khỏi quân phiến loạn đã thành công tại Mã Lai và tại Phi Luật Tân thì cũng sẽ thành công tại Nam Việt Nam.

Như đã ghi ở đoạn trên, kế hoạch gom dân tại hai nước bạn thành công vì người dân ở hai xứ ấy khôn ngoan hơn người dân miền Nam Việt Nam. Vì khôn ngoan nên họ chấp nhận hy sinh một phần các quyền tự do hàng ngày của họ, biết rằng sự hy sinh ấy không vô ích, vì nếu để cho cộng sản cướp được chính quyền thì họ sẽ chẳng còn được hưởng chút tự do nào nữa.

Vì không có được sự khôn ngoan bình dân ấy ngay từ đầu nên người nông dân miền Nam Việt Nam không tha thiết với việc ra khỏi ruộng vườn nhỏ bé của họ để vào sống trong Tổ Chức Ấp Võ Trang Tự Vệ.

Thêm vào cái tâm lý tiêu cực vừa kể, ít ra cũng còn ba điều khác nữa làm cho người nông dân miền Nam Việt Nam càng thêm tiêu cực với kế hoạch lập Ấp Chiến Lược. Thứ nhất là kinh nghiệm của họ với nền hành chánh thời Pháp thuộc. Họ đã bị đày đọa quá nhiều vì thực dân và vì đám người Việt làm tay sai cho thực dân như đám Ðốc Phủ Sứ, đám Huyện, đám Cai Tổng v.v...Người ta có thể hiểu tâm trạng thất vọng não nề của những nông dân ấy khi phải sống dưới một chính quyền chỉ biết bóc lột dân và không hề có chút kính trọng tối thiểu đến đời sống của người dân.

Nỗi thất vọng chồng chất ấy được giải tỏa khi nông dân tin rằng những người cộng sản sẽ mang lại cho họ no ấm, tự do và sự kính trọng. Sự tin tưởng lãng mạn ấy đưa họ đến một kết luận vội vàng là giữa chính quyền của thực dân và chính quyền cộng sản, không có một thứ nào ở giữa. Người nông dân ấy không nghĩ được rằng có thể có một chính quyền không cộng sản và không tồi tệ như chính quyền thực dân ngày trước.


Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, luật sư Trịnh Đình Thảo với các nhà báo.

Ðiều thứ ba là sự ngu dại của đám "trí thức" miền Nam thuộc thành phần gọi là Nhóm Liên Trường. 

Nếu trí thức miền Bắc Việt Nam nổi bật vì sự khiếp nhược thì trí thức miền Nam Việt Nam nổi bật vì sự tự cao và tự tin trong ngu dại. Không biết đám trí thức miền Nam này học được ở đâu mà tự nuôi cái ảo tưởng rằng có thể thuyết phục được cộng sản Hà Nội để cho miền Nam được sống yên ổn với một quy chế tự trị. Từ cái ý niệm sơ khởi vừa dại dột lại vừa tai hại ấy, đám trí thức nói trên đã rất đắc lực tiếp tay với Hà Nội trong kế hoạch làm sụp đổ Chính Quyền Ngô Ðình Diệm.

Hà Nội thảo ra kế hoạch ba mặt giáp công để hạ Chính Quyền của ông Diệm. Mặt thứ nhất là khai sinh công cụ chính trị và tuyên truyền gọi là Mặt trận giải phóng miền Nam. Mặt thứ hai là sách động dân quê miền Nam để họ chống lại kế hoạch gom dân vào Ấp Chiến Lược.Mặt thứ ba là dùng Tôn Giáo để cô lập Chính Quyền Diệm với Cộng Ðồng Quốc Tế, nhất là cô lập miền Nam với nước Mỹ.

Người ta đã biết rằng cầm đầu đám "trí thức" miền Nam thời ấy là tên Trương như Tảng. Vì có mặt của hắn và của một số trí thức khác của miền Nam cũng ngu dại như hắn nằm trong cái gọi là "Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam", nên một phần lớn thế giới bên ngoài đã tin rằng cái tổ chức ấy không lệ thuộc cộng sản Hà Nội. Sự tin tưởng ấy đã kéo theo vô số nạn nhân trong đám trí thức Tây phương (Âu Châu, Mỹ Châu, Canada). Những thiệt hại về sinh mạng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không nguy hại cho sự sống còn của Việt Nam Cộng Hòa bằng những lời ca của Joan Baez, những lời tuyên bố của nữ tài tử Jane Fonda và chồng của y thị là Tom Hayden, những bài báo và những lời tuyên bố của Jean Paul Sartre, Oliver Todd, Jean Lacouture, Jean Lartéguy, Pierre Darcourt...Tóm lại, Trương như Tảng và đồng bọn đã lập được công lớn giúp Hà Nội ru ngủ và lừa bịp được thế giới bên ngoài trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam.


Lý Quý Chung và Trịnh Công Sơn


Tổng thống Dương Văn Minh, Bộ trưởng Thông tin Lý Quý Chung, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu, và thành phần chính phủ "vẫn chủ trương hòa giải và hòa hợp dân tộc" đang nhận lệnh của bộ đội đánh chiếm Saigon sáng 30/4/75 


Ở đài phát thanh, Dương Văn Minh ngơ ngác nhìn bộ đội trỏ tay bắt đọc tờ giấy viết sẵn

Ở mặt trận thứ hai, một đám "trí thức" khác của miền Nam (cũng trong cái gọi là Nhóm Liên Trường) đắc lực giúp Hà Nội bằng chiến thuật nằm vùng. Khí giới của bọn này là báo chí và luôn cả sự tự do mà chế độ Cộng Hòa của Nam Việt Nam để cho chúng được hưởng rộng rãi. Chủ lực của đám trí thức này là những tên thuộc thành phần ‘’ngựa non háu đá’’và ‘’điếc không sợ súng’’ như Lý quý Chung, Nguyễn hữu Chung, Hồ ngọc Nhuận v.v...

Những tên vừa kể mở hai chiến dịch. Thứ nhất là chiến dịch gây thù hận giữa nông dân miền Nam và Chính Quyền Diệm. Thứ hai là chiến dịch chia rẽ Nam và Bắc (đây là hậu thân của thủ đoạn chia rẽ Nam Bắc do thực dân Pháp đẻ ra ngày trước).

Người ta đã được đọc những bài báo do đám "trí thức" dại dột này viết về Ấp Chiến Lược. Trong những bài ấy, chúng gợi trong lòng người nông dân miền Nam tình yêu Thôn Ấp và gợi ý tưởng căm thù những ai muốn tách họ ra khỏi Thôn xóm của họ. Là thành phần thiếu hiểu biết, ít suy nghĩ người nông dân miền Nam Việt Nam đã dễ dàng rơi vào cái bẫy của đám trí thức tay sai cho cộng sản Hà Nội kia.


Khi còn cai trị Việt Nam, thực dân Pháp đã từng tung ra chiến dịch gây căm thù giữa người miền Bắc và người miền Nam. Thời ấy, đã có những kẻ ngu xuẩn ở miền Nam hăng hái thi hành kế hoạch chia rẽ hiểm độc và bần tiện của thực dân. Thêm vào đó, lúc nào cũng có ở miền Nam Việt Nam một khuynh hướng coi miền Nam không phải là một phần lãnh thổ của nước Việt Nam. Phần lớn những kẻ có khuynh hướng này đều là nô lệ cho thực dân và được quan thầy Pháp ban thưởng cho cái ân huệ ô nhục là được ‘’Vào dân Tây’’.


Bọn trí thức ‘’ngựa non háu đá’’ tuy có được cắp sách đến trường nhưng không chịu mở mắt để học về Lịch Sử của Dân Tộc Việt. Chúng trân tráo lớn tiếng nhục mạ những ‘’người Bắc di cư’’ trên mặt báo và tại những nơi Công Cộng. Trong sự dại dột ấu trĩ, bọn chúng tưởng gây hận thù và chia rẽ như vậy thì sau này chắc chắn sẽ được cộng sản Hà Nội để cho yên với chủ trương ‘’miền Nam của người Nam’’Ngoài ra, còn hai điều khác nữa, một thuộc về quân sự và một thuộc về tâm lý, làm cho kế hoạch lập Ấp Chiến Lược không thành công được. Về quân sự, khi Ấp Chiến Lược đầu tiên được tổ chức xong thì cộng quân ở miền Nam đã có khả năng mở cuộc tấn công đến cấp trung đoàn và cao hơn nữa. Về chiến lược và chiến thuật, cộng quân có thể tập trung đông đảo quân số để đạt ưu thế tạm thời rồi tấn công ồ ạt vào một vị trí cố thủ của quân chính phủ. Trước quan niệm chiến lược vận động chiến của cộng quân, quan niệm cố thủ bằng đồn bót và pháo lũy là quan niệm tất bại. Áp dụng quan niệm ấy cho Ấp Chiến Lược làm sao có thể đánh bại được cộng quân? Những người điều khiển lập Ấp Chiến Lược có một cái nhìn rất lạc quan và rất chủ quan về khả năng của một Ấp Chiến Lược. Theo họ thì một khi Ấp đã được cấp phát một số vũ khí thì dân trong Ấp có đủ khả năng đẩy lui mọi cuộc tấn công quân sự của cộng quân. Không cần phải dùng nhiều lời cũng có thể chứng minh rằng cái nhìn ấy quá sai lầm và bệnh hoạn. Các đồn bót của quân đội Pháp trong trận chiến tranh Ðông Dương 1946-1954 và các đồn bót của Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa sau năm 1954 đều không giữ được nếu cộng quân quyết định trả giá cao để diệt đồn. Trong khi đó, ngoài số vũ khí sơ sài và chỉ gồm vũ khí nhẹ, dân trong Ấp lại không huấn luyện về quân sự. Nhưng nguy hại hơn nữa là dân trong Ấp không có tinh thần tha thiết sống chết với Ấp. Một khi họ đã không tha thiết cố thủ thì kế hoạch Ấp Chiến Lược chắc chắn sẽ thất bại. Ðã thế, dân trong Ấp còn được bọn "trí thức" tay sai của Hà Nội ngày đêm nhồi vào đầu họ cái ý nghĩ căm thù Chính Quyền Quốc Gia, vì đã "cưỡng bắt họ từ bỏ ruộng vườn để vào Ấp sống như trong một trại tập trung". Một Ấp Chiến Lược nào đó bị cộng quân đánh tan sẽ là một lý do để nông dân miền Nam trốn khỏi Ấp để trở về nhà cũ.


Ðiều thứ hai là tinh thần Cán Bộ Dân Sự và Quân Sự của miền Nam trong việc thi hành kế hoạch lập Ấp Chiến Lược. Người viết sách này ghi nhận được nhiều điều bi hài trong thời kỳ có các Khóa Huấn Luyện về Ấp Chiến Lược tại Trung Tâm Suối Lồ Ô (gần Biên Hòa).


Những người được cử đi học, đều mang sẵn trong đầu tâm trạng bị động và chủ bại. Một điều đáng buồn cần ghi ở đây là trong suốt thời T.T. Ngô Ðình Diệm cũng như sau đó, hàng ngũ người Quốc Gia rất ít có Cán Bộ nhiệt tình và tận tụy cho Chính Nghĩa Quốc Gia. Do đó, kế hoạch và chính sách có hay đến đâu cũng không hy vọng thành công. Cán Bộ Ấp Chiến Lược đi học với một tâm trạng bất mãn thì làm sao còn hăng hái sống chết với dân trong Ấp?

TRỤC XUẤT KÝ GIẢ BÁO CHÍ

Người viết sách này luôn luôn kính phục sự hiên ngang của ông Ngô Ðình Diệm trong tác phong làm người Lãnh Ðạo Quốc Gia của ông. Sự hiên ngang ấy được chứng tỏ nhiều lần và càng được chứng tỏ trong vụ Phật Giáo miền Trung năm 1963. Bọn nhà báo truyền hình Mỹ thù ghét ông vì ông đã dậy cho chúng một bài học về sự lễ độ đối với người Cầm Ðầu của một Quốc Gia. Bọn ấy tuy thù ghét ông, nhưng chắc chắn là chúng không thể coi thường ông, như chúng đã quen coi thường người lãnh đạo của nhiều Nước nhược tiểu lệ thuộc vào viện trợ của nước Mỹ.


Người ta không ngạc nhiên khi thấy nhiều tờ báo lớn của Mỹ, nhất là tờ New York Times và Hãng thông tấn Accociated Press hằn học hàng ngày chỉ trích thậm tệ và cay cú bôi bẩn Chế Ðộ Ngô Ðình Diệm. Bọn ấy chỉ trích quá lố đến nỗi một tác giả lương thiện của nước Mỹ là Richard Tregakis phải lên tiếng than rằng ‘’Kennedy chịu ảnh hưởng của tờ New York Times qua David Halberstam nhiều hơn ảnh hưởng của bất cứ một giới chức nào trong chính quyền Mỹ. ’’(Vietnam Crisis, trang 125)
Trước thái độ thù nghịch phi lý ấy của bọn báo chí Mỹ, ông Diệm không còn cách nào khác hơn là bảo vệ danh dự của người Lãnh Ðạo Việt Nam Cộng Hòa. Ðó là điều tối thiểu mà ông ta phải làm, nếu không muốn bị chính người dân Việt coi thường. Nhiều tên ký giả thù nghịch với Nam Việt Nam bị trục xuất. Bị trục xuất rồi, bọn ấy lại càng thù nghịch hơn, càng phá hoại nhiều hơn nữa.


Thái độ thù nghịch ấy phơi ra ánh sáng căn bệnh tệ hại trầm trọng mà bọn làm báo và viết báo ở bất cứ chân trời nào cũng mắc phải. Nếu có khác nhau thì chỉ là ở mức độ cao và thấp. Căn bệnh ấy là sự hống hách và sa đọa của bọn ký giả, nhất là những tên ký giả có đôi chút danh tiếng. Trong khi tự phong cho mình cái vai trò ‘’điều tra’’thì những tên ký giả ấy thường chờ đợi những người Lãnh Ðạo Quốc Gia, những người làm chính trị tỏ vẻ sợ hãi và phải o bế chúng. Không thiếu gì chánh khách vì quá sợ bị chúng xuyên tạc và bôi bẩn nên đã phải lo lót chúng bằng ân huệ và bằng sự sợ sệt, nhiều khi khúm núm trước mặt bọn chúng nữa. Bọn nhà báo dám xấc láo như vậy chỉ vì từ lâu nay, chúng quen chửi bới và vu cáo những người khác, nhưng đến khi chính bọn chúng phạm tội thì không bao giờ chúng có sự lương thiện tối thiểu để tự thú nhận. Rất ít khi thấy có trường hợp một tờ báo lớn của Tây Phương phanh phui tội lỗi của bọn ký giả ở một tờ báo khác làm bậy, làm nhục thanh danh của người cầm bút.

Ngày 18.2.1963, khi phái viên của Tuần Báo Mỹ US News & World Report tại Sài Gòn hỏi ông Diệm tại sao ông trục xuất nhiều ký giả ngoại quốc như vậy, ông Diệm bình thảm trả lời: ‘’Họ đã ngang nhiên nhục mạ và bôi bẩn chúng tôi, trong khi chúng tôi đang theo đuổi một cuộc chiến quyết liệt cho sự sống còn và cho sự bảo vệ một vùng biên giới sinh tử của Thế Giới Tự Do. ’’


Thượng tọa Thích Trí Quang đang ngồi đấu tranh
trước dinh Độc Lập


đang chỉ đạo đấu tranh cho Phật pháp


Nguyễn Công Hoan đang tưới xăng lên 


và Thích Quảng Đức cháy thành ngọn đuốc 

Phải chờ mãi tới sau năm 1975, thế giới bên ngoài mới tìm được giải đáp cho thái độ thù nghịch đến phi lý của bọn báo chí Mỹ. Ðó là sự tiết lộ động trời của ông Denis Warner, một Nhà Báo lão thành quốc tịch Úc và là người đã theo sát chính trị của Ðông Nam Á từ năm 1945. Bí ẩn về sự thù nghịch kia được làm sáng tỏ, khi ông Warner cho biết rằng trong cuộc chiến tranh Việt Nam, cộng sản quốc tế đã dùng một ngân khoảng không giới hạn để tài trợ mặt trận tuyên truyền. Ngân khoảng ấy được mở tại một trương mục mang số 5210-10-045-34 thuộc Ngân Hàng Skandinaviska Banken ở Thủ Ðô Stokholm của Thủy Ðiển. Trương mục này xuất tiền cho những kẻ chửi thuê, khen mướn theo chỉ thị của cộng sản quốc tế, với mục đích tối hậu là làm cho nước Mỹ bỏ cuộc tại Việt Nam (Denis Warner, ‘’Not With Guns Alone: How Hanoi Won The War’’ Hutchinson Group of Australia 1977, trang 183).

Một tháng sau khi ông Diệm bị hạ sát, tên David Halberstam của báo New York Times và tên Malcolm Browne của Hãng thông tấn Associated Press nhận lãnh giải thưởng báo chí Pulitzer vì đã có công ‘’xuất sắc tường trình về cuộc khủng hoảng Phật Giáo tại Nam Việt Nam.’’. Trước cảnh lãnh giải thưởng vô liêm sỉ ấy, Tướng hồi hưu của Quân Lực Mỹ là Thomas A. Lane viết trong cuốn sách về sự nghiệp của Tổng Thống Kennedy rằng: ‘’giải thưởng ấy nên được trao tặng tại Ðiện Cẩm Linh của đế quốc Xô viết và trước sự dàn chào của hồng quân Nga. ’’.

CHÍNH PHỦ MỸ VÀ CÁI CHẾT CỦA TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM
Ông Diệm chết nhưng chết vì sự phản bội của Ðồng Minh Mỹ. Sự phản bội ấy chỉ được hoàn thành sau khi người Mỹ thuê mướn được một đám Tướng lãnh của Nam Việt Nam cúi mặt làm cái việc hèn hạ nhất là ‘’giết mướn’’ người lãnh đạo hợp pháp duy nhất của miền Nam tự do.


Tổng thống Ngô Đình Diệm bị bắn chết trong xe thiết giáp

Sự hằn học của báo chí Mỹ đối với Chính Quyền Diệm càng ngày càng tệ hại, nhất là từ khi bùng nổ cuộc khủng hoảng về Tôn Giáo do bọn Trí Quang gây ra, đến nỗi Linh Mục De Jaegher phải nói thẳng vào mặt tên Malcolm Browne là kẻ được coi là ‘’hung thần’’ của Hãng Accociated Press tại Sài Gòn: ‘’Quý vị đang bóp méo sự thật trong vụ Phật Giáo. Nếu cứ tiếp tục, quý vị có thể hạ được ông Diệm. Quý vị có sức mạnh để làm được việc ấy. Nhưng nếu làm điều ấy rồi thì nhiều thanh niên Mỹ sẽ phải tới Việt Nam để thay thế và những thanh niên ấy sẽ chết tại Việt Nam. ’’ (Vietnam Crisis trang 104).

Lời cảnh cáo của Linh Mục De Jaegher cũng là lời tiên tri được nghiệm rất đúng sau khi ông Diện bị hạ sát.


Sau khi ông Diệm chết, chính quyền Kennedy nhiều lần cố gắng thanh minh với Thế Giới rằng nước Mỹ không dính líu gì tới vụ giết ông Diệm, nhưng những lời thanh minh ấy không thuyết phục được Thế Giới bên ngoài. Thế Giới ấy gần như nhất trí với nhau trong ý nghĩ là quả thật nước Mỹ đã đối xử thiếu văn minh với một đồng minh nhỏ bé của mình trong lúc Ðồng Minh ấy phải đương đầu với những khó khăn ghê gớm trong nội bộ. Chung cuộc, Quốc Hội của nước Mỹ đã định lượng thế nào về cách đối xử tiểu nhân ấy ?

Thoạt đầu, cái Quốc Hội ấy ngập ngừng, chưa biết phải lên tiếng ra sao. Nhưng rồi trước sự soi mói của thế giới, Quốc Hội ấy đành phải lên tiếng. Hai Nghị Sĩ có tiếng nói mạnh của Quốc Hội Mỹ là William Fulbright và Everett Dirksen nói rằng ‘’Quyết định hạ sát ông Diệm là một sự sai lầm. ’’

Ngày 3 tháng 1 năm 1965, Nghị Sĩ Mike Mansfield tuyên bố với hai Tác giả Stephen Pan và Daniel Lyons: ‘’Chúng tôi đã đền tội vì đã loại trừ ông Diệm. ’’. Rồi đến ngày 26.1.1966, cũng Nghị Sĩ ấy lại nói với hai Tác giả kể trên rằng ‘’...Lỗi lầm tồi tệ nhất của chúng tôi là đã hạ sát ông Diệm. ’’ (Vietnam Crisis, trang 133).


Thượng Tọa Thích Trí Quang

Tài liệu của Ngũ Giác Ðài phổ biến về sau này còn ghi rõ hơn nữa về trách nhiệm không thể chối cãi được của nước Mỹ trong sự bức tử người Lãnh Ðạo Việt Nam Cộng Hòa. Tài liệu ấy viết:

‘’Về cuộc đảo chính quân sự chống lại Ngô Ðình Diệm, nước Mỹ phải nhận hoàn toàn trách nhiệm của mình trong đó. Từ đầu tháng 8 năm 1963, chúng ta đã lần lượt, khi thì cho phép, khi thì cản lại, khi thì khuyến khích đám Tướng lãnh Nam Việt Nam và đề nghị sẽ hoàn toàn ủng hộ một chính phủ thay thế. Ðến tháng 10, chúng ta cắt viện trợ để làm áp lực trực tiếp vào Diệm, do đó chúng ta bật đèn xanh cho đám Tướng lãnh. Chúng ta lén lút duy trì liên lạc với đám Tướng lãnh ấy, tán thành việc lập kế hoạch và sự thi hành cuộc đảo chính ấy, duyệt xét các kế hoạch của họ và đề nghị một chính phủ mới. Vậy triều đại chín năm của Ngô Ðình Diệm chấm dứt bằng một sự kết thúc đẫm máu. Sự đồng lõa của chúng ta trong việc lật đổ ông ta làm tăng trách nhiệm của chúng ta vào một nước Việt Nam không có lãnh đạo nữa.’’ (The Pentagon Papers, Senator Gravel Edition 1975, Volume II, trang 207).


Sau khi tuyên thệ thay thế ông Kennedy bị ám sát ba tuần sau cái chết của ông Diệm, Tân Tổng Thống Mỹ Lyndon B. Johnson tâm sự với báo chí Mỹ về cái chết của ông Diệm: ‘’Việc giết ông Diệm là một trong các thảm kịch lớn nhất của thời đại chúng ta.’’ (Vietnam Crisis trang 133).

William Colby, trùm CIA của Mỹ thì nói thẳng ra cái trách nhiệm của nước Mỹ về cái chết của ông Diệm:

‘’Ðây là một cuộc đảo chính của Tướng lãnh Nam Việt Nam đúng thế, nhưng tôi nghĩ rằng những điều căn bản của cuộc đảo chính ấy đã được định đoạt tại Bạch Cung của chúng ta.’’ (Michael Mc. Lear, ‘’The Ten Thousand Day War’’ St. Martin Press, New York 1981, trang 66).

Trong tác phẩm vừa được viện dẫn, trùm CIA Colby còn nêu rõ cái khoảng trống lãnh đạo bi thảm chắc chắn sẽ diễn ra khi ông Diệm không còn Lãnh Ðạo Nam Việt Nam nữa. Colby ghi rằng trong suốt năm 1963, nói đúng hơn là cho tới ngày ông Diệm bị hạ sát, các Cố Vấn của Kennedy chia làm hai phe, với hai chủ trương khác nhau. Một phe cho rằng nước Mỹ sẽ không thể thắng nổi nếu còn ủng hộ Chính Quyền Diệm. Phe kia thì chủ trương phải thay thế ông Diệm. Cố vấn quân sự cao nhất của Kennedy lúc ấy là Tướng Maxwell Taylor tuy không ngã hẳn về phe nào, nhưng ông ta đã làm một việc rất thiết thực là đặt câu hỏi then chốt cho cả hai phe: ‘’Có thể chúng ta không thắng được với sự ủng hộ Diệm, nhưng nếu không có Diệm thì có ai ?’’Sau câu hỏi đó, chỉ có một sự im lặng nặng nề tiếp theo.


Trên Tuần báo Mỹ Time đề ngày 1.1.1965, Bình Luận Gia Joseph Alsop đưa ra lời phê bình nghiêm khắc nhất nhắm vào những kẻ đã hung hãn chỉ trích Chính Quyền Diệm: ‘’Gần giống như là sự ngu xuẩn một cách hài hước khi người ta đòi tổ chức một Chính Phủ ở Việt Nam để làm vừa lòng những kẻ viết bình luận cho báo chí Mỹ, là những kẻ không hiểu biết gì về Á Châu và những kẻ ấy lại luôn luôn quên rằng nếu thay thế thì chỉ còn có chủ nghĩa cộng sản hung ác cho Á Châu. Chẳng còn cách nào khác hơn là phải đối phó với chiến tranh trước đã, rồi sau hãy nói tới các vẫn đề chính trị. Ðối phó với chiến tranh là con đường duy nhất để tạo các điều kiện thiết yếu cho một chính phủ tương đối ổn định. Chính phủ bất ổn chính vì chiến tranh diễn ra tồi tệ. ’’


Chín tuần sau khi Alsop viết bài bình luận trên đây thì Lữ Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đầu tiên đổ bộ lên Hải Cảng Ðà Nẵng, mở đường cho cuộc đổ bộ trên nửa triệu Quân Mỹ vào Nam Việt Nam.

Từ đây trở về sau, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ phải chiến đấu trong hoàn cảnh và khung cảnh khó hơn thời Ngô Ðình Diệm rất nhiều, họ sẽ phải tự tìm lại khí giới tinh thần để giúp họ giữ vững ngọn lửa hăng say và quyết liệt chống cộng. Chỉ mới vài tháng sau cái chết của ông Diệm, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã sớm thấy rõ tầm vóc cái khoảng trống lãnh đạo vô cùng tai hại đang chờ đợi họ trước mặt.


Khi nằm xuống, ông Diệm đã mang theo cùng với ông ba điều căn bản thiết yếu để được Cộng Ðồng Quốc Tế kinh nể là:

CHÍNH NGHĨA, CHÍNH DANH VÀ CHÍNH THỐNG



Những kẻ thù ghét ông Diệm muốn nói gì thì nói, nhưng chúng không thể chối cãi rằng chỉ có ông Ngô Ðình Diệm mới có uy tín quốc tế để phá vỡ huyền thoại Hồ Chí Minh.

Chỉ cần đặt một câu hỏi, một câu hỏi thôi: Sau khi bọn Tướng lãnh của Nam Việt Nam nhận lệnh của quan thầy Mỹ để hạ sát ông Diệm một cách hèn nhát thì sau đó, miền Nam Việt Nam được lãnh đạo như thế nào và chung cuộc số phận của miền Nam Việt Nam tự do ra sao???

LS.Phạm Kim Vinh

***
B. Toàn bộ bức thư của Tướng Dương Văn Minh viết cho Tướng Nguyễn Chánh Thi có nội dung như sau:
15-4-87

“Thi,
Ðược tin Thi tôi rất mừng. Lúc nào tôi cũng nhớ anh em thuở xưa, mà tôi còn lưu lại rất nhiều kỷ niệm.
Từ khi tôi đến nước Pháp tới nay, lật bật đã gần sáu năm rồi, sống với một cuộc đời réfugié tuy có thong thả nhưng lúc nào cũng bận tâm. Thoát được chế độ Cộng sản với hai bàn tay không – Pháp chẳng giúp đỡ gì – mình sống ẩn thân trong một đô thị thật nhỏ, kể ra cũng tạm yên.
Nghe Thi kể chuyện các anh em quân nhân, tôi rất khổ tâm. Lúc đó tôi bị đày ở Bangkok cho nên có nhiều việc tôi không được rõ hết.
Anh em có đọc sách của anh Ðỗ Mậu kể chuyện lại cho tôi nghe; tôi phải công nhận anh Ðỗ Mậu kể chuyện như vậy là rất can đảm. Lên án Cần-lao và Công-giáo đến mức đó là cùng. Ngoài ra, anh Ðỗ Mậu có trách tôi không biết tự tử như các bực tiền bối, cũng có phần đúng. Nhưng đây chỉ là một vấn đề quan niệm mà thôi.
Theo tôi, tự tử không phải lúc nào cũng là đúng. Ðôi khi mình phải dám sống để hứng nhận những hậu quả cho sự quyết định của mình gây ra. Có lẽ anh Ðỗ Mậu (cũng như nhiều người) không rõ là tôi lấy quyết định cuối cùng sau khi đã tham khảo ý kiến với một số những vị dân biểu và nghị sĩ còn lại, với những anh em quân nhân đến gặp tôi vào giờ chót, với các thầy mà trong đó thầy Trí Quang và Trí Thủ đã nói và đã nhắn nhủ để cứu dân.
Riêng tôi, tôi không tự tử không phải vì thiếu can đảm, nhưng vì những lý do rất đơn sơ :
- Tôi không tự sát vì thân thể mình do Trời Ðất (Ân trên) kết tạo, cha mẹ sanh dưỡng, mình không có quyền hy sinh.
- Mình có quyền hy sinh : tên tuổi, uy tín, tài sản, công nghiệp v…v Tóm tắt mình chỉ có quyền hy sinh những gì mình tạo ra mà thôi.
Ðây là một lý thuyết tôi đã hấp thụ từ khi biết khôn và áp dụng suốt đời, đối với tôi cũng như đối với tất cả người khác. Hôm nay tôi nói ra để cho Thi hiểu, vì lúc nào tôi cũng xem Thi như một người em trên mọi mặt, chớ không phải nói ra để phân trần chi chi. Tôi đã dám làm thì tôi cũng dám chấp nhận những búa rìu bất cứ từ đâu tới. Không có gì thắc mắc cả, và tôi coi đây chỉ là một giai đoạn thôi. Cầu xin dân ta và anh em giữ vững tinh thần thì có ngày xum họp trên quê cha đất tổ.
Tôi đã nói nhiều quá ! Lúc nào tôi cũng nhớ anh em, nhờ Thi gởi lời thăm tất cả. Tôi không mong gì hơn được gặp lại các bạn.
Thân mến
Dương văn Minh”

Có đọc lá thư trên mới thấy Dương văn Minh là con người hiền hòa, nhưng rõ ràng ông không có cái Dũng của một người làm tướng. Về điểm này ông giống Ðại tướng Võ nguyên Giáp của miền Bắc, cúi đầu nhận chức Cai đẻ mà không dám hó hé phản đối. Trong phạm vi gia đình, sai lầm của người chủ gia đình có thể dẫn tới chuyện gia đình ấy suy sụp, tan vỡ. Còn nếu làm tới chức vụ nguyên thủ quốc gia như tướng Dương văn Minh mà “tham sinh úy tử”, nhu nhược, thiếu khôn ngoan quyền biến thì chỉ đưa quốc gia đến chỗ suy tàn, thảm bại. Bài học Dương văn Minh dành cho những người làm chính trị là phải luôn tự lượng sức mình, nếu mình “tài hèn, trí đoản”, tham sống sợ chết mà cứ nhắm tới những chức vụ to tát lãnh đạo quốc gia thì chức vụ cao trọng này không mang lại vinh quang mà chỉ mang lại cho mình những sự nhục nhã ê chề và bị bia miệng ngàn đời chê trách.

Một cái nhìn về Dương Văn Minh

Ngày 30-4-1975, một quân lực đứng vào hàng thiện chiến và dũng cảm nhất thế giới đã bị trói tay và phải buông súng trước quân thù. Vì sự hèn nhát của lãnh đạo và sự phản bội của đồng minh.

Ngày 30-4-1975, VC đã dùng võ lực, xé nát hiệp định Ba Lê, bản văn mà chúng nó đã long trọng ký kết trước mặt thế giới.

Ngày hôm đó, nước Mỹ đã ôm đầu bỏ chạy, trước sự vi phạm thô bạo một hiệp định quốc tế, bản văn mà chính Mỹ đã khởi xướng và long trọng ký kết trước mặt thế giới. Ngày hôm đó, Tây Phương đã cúi mặt trước sự vi phạm một hiệp định quốc tế, bản văn mà chính Tây Phương đã cổ võ, ca ngợi, trước mặt thế giới, nhân danh những lý tưởng nhân đạo tự do và hòa bình.

Ngày 30-4-1975, khi xác của người sĩ quan QLVNCH tự sát dưới chân đài chiến sĩ đường Lê Lợi chưa kịp lạnh thì Dương Văn Minh mũ mãng “bàn giao” miền Nam cho VC. Đúng là một trò hề, một trò hề lơ láo của một tên hề lơ láo. Bọn VC nón cối dép râu mang xe tăng húc sập cánh cửa Dinh Độc Lập, tiến vào chiếm hữu ngôi nhà biểu tượng cho chủ quyền Quốc Gia của miền Nam, chứ đâu có vào để nhận bàn giao. Đối với VC, buổi lễ “bàn giao” hôm đó chỉ là một hành vi quỳ lậy và khiếp nhược của một tên tướng Nguỵ. Đối với người Quốc Gia nói chung và Quân Lực VNCH nói riêng, thì ngoài phong cách hèn hạ và khiếp nhược của một quân nhân, Dương Văn Minh còn là một đứa đần độn và háo danh.

Ngày 28-4-75, khi cụ Trần Văn Hương từ chức Tổng Thống VNCH, thì định chế hành pháp không còn nữa. Định chế lập pháp, tức quốc hội, thì lại không có quyền bầu tổng thống, hoặc chỉ định tổng thống, hoặc cho phép ai trao chức vụ tổng thống cho ai. Bởi lẽ: quốc hội không phải là sở hữu chủ quyền nhân dân. Với tư cách thụ ủy đó, quốc hội chỉ được làm những điều mà nhân dân đã minh thị giao phó, qua những điều khoản được ghi trong hiến pháp. Mà hiến pháp thì không có điều khoản nào cho phép quốc hội được trao chức vụ tổng thống cho ai.
Tổng thống đương nhiệm lúc đó, cụ Trần Văn Hương, cũng không có quyền trao lại chức vụ tổng thống cho ai. Thổng thống đương nhiệm lúc đó, cụ Trần Văn Hương, cũng không có quyền trao lại chức vụ tổng thống cho người khác. Vì vậy, trong những ngày tháng chót của Quốc Gia miền Nam, khi Dương Văn Minh nằng nặc đòi cụ Hương trao quyền tổng thống VNCH cho y, thì mọi người đã nhìn thấy rõ cái hèn, cáo háo danh và nhất là cái đần độn của y. Y nằng nặc đòi được làm tổng thống, để mũ mãng đi đầu hàng.

Cái hèn và háo danh đần độn ấy đã chẳng giúp cho CS Bắc Việt ngụy tạo được hào quang cho cái gọi là đại thắng mùa Xuân. Cũng chẳng giúp cho các nhà làm lịch sử sau này có dữ kiện để viết rằng: chính quyền hợp pháp của Quốc Gia Miền Nam đã đầu hàng.

Ngày 30-4-1975, Quốc Gia Miền Nam chỉ còn là đống hoang tàn. Trên đống hoang tàn ấy, Văn Tiến Dũng và đoàn quân của y đã nhặt được một cái túi phong lưu (capote, condom), món trang sức của đêm giao hoan giữa thằng điếm tư bản quốc tế với con đĩ vô sản quốc tế. Văn Tiến Dũng ngậm cái túi phong lưu ấy vào mồm, thổi cho căng lên, gọi đó là đại thắng mùa Xuân.

Trước khi cái túi phong lưu được thổi căng lên, nó được lau chùi cho hết nhờn nhớt. Người lau chùi, là Dương Văn Minh.

Tôi không quen, nhưng biết Dương Văn Minh, hồi chưa mất nước, tôi từng nói chuyện với y nhiều lần. Hồi đó, câu lạc bộ thể thao Saigon có 4 sân quần vợt danh dự. Hội viên câu lạc bộ muốn có sân để chơi, phải ghi tên trước. Riêng Dương Văn Minh, vì là cựu quốc trưởng, y được câu lạc bộ dành cho sân số 4 (sát hàng rào, gần hồ tắm), mỗi buổi sáng thứ hai, từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa.

Vì vậy, những sáng thứ hai, trừ ngày mưa gió, người ta thường thấy Dương Văn Minh trên sân số 4. Y chơi quần vợt với bạn bè, với người con gái, hoặc với người con rể tên là Đài. Có khi y không chơi, chỉ ngồi trò chuyện.

Tôi thường gặp y ở chỗ này, và nói chuyện với y ở chỗ này.

Tôi muốn tìm hiểu về ba khuôn mặt nổi của chính biến 1963. Hai khuôn mặt nổi khác, ông Trần Văn Đôn và ông Tôn Thất Đính, tôi đã biết khá nhiều. Chúng tôi cùng là thượng nghị sĩ.

Dương Văn Minh có cái bề ngoài đôn hậu, ăn nói chậm rãi. Người ta đã dùng nhiều tĩnh từ để nói về y, như nham hiểm, kỳ thị Nam Bắc, háo danh, v.v… Riêng tôi, thấy tội nghiệp. Không ai có thể ngờ rằng một người từng làm quốc trưởng, và được kỳ vọng như là một lá bài chính trị cho tương lai, lại có trình độ văn hóa thấp đến như vậy. Những ý niệm về lãnh đạo, như quyền uy (autorité), quyền lực (puissance), và quyền bính (pouvoir), rất xa lạ với y. Tôi đã mất khá nhiều thì giờ, và đưa ra trường hợp Nã Phá Luân, Nguyễn Huệ, để giải thích cho y hiểu rõ những thành tố của lãnh đạo, cũng như sự khác biệt sâu xa giữa quyền uy, quyền lực và quyền bính. Nhưng nhìn mặt, tôi biết y không hiểu lắm. Về CSVN và chính sách mặt trận thống nhất (politique du front uni) của CS trên thế giới, y cũng rất lờ mờ.

Y có mời tôi đến dinh hoa lan để “họp mặt” chính trị. Tôi đến một lần, để giữ lễ, và để y có dịp – nếu tôi không lầm – cảm ơn tôi đã giúp đỡ một vài đàn em của y trong vấn đề luật pháp. Những lần sau, tôi cáo lỗi. Tôi không muốn làm người khác lạ ngồi nghe những Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Kiều Mộng Thu, Hồ Ngọc Nhuận giảng chính trị. Họ là những quần thần của Dương Văn Minh. Họ là những bộ óc lớn của Dương Văn Minh. Và khi những bộ óc lớn gặp nhau…
Có lẽ ông Vũ Văn Mẫu cũng một cảm nghĩ như tôi. Ông cũng từng là khách bất đắc dĩ của dinh hoa lan.

Trình độ học vấn của Dương Văn Minh đã thấp, nhân cách của y còn thấp hơn. Liêm sỉ của một tướng lãnh, thì lại quá tệ. Ai cũng biết: trong vụ đảo chánh 1963, y đã ra lệnh ám sát Tổng Thống Diệm trên chiếc xe tăng từ nhà thờ Cha Tam về Tổng Tham Mưu rạng ngày mùng 2 tháng 11. Nhưng sau này y chối. Chẳng những chối, mà còn đổ lỗi cho người khác. Trong cuốn “Our Endless War”, tướng Trần Văn Đôn – linh hồn của cuộc đảo chánh – đã phải bực mình và viết như sau: “Big Minh không bao giờ nhận trách nhiệm về vụ cố sát anh em ông Diệm và đổ lỗi cho người khác. Mỗi khi vấn đề được đặt ra, ông ta lại tìm cách lôi kéo tôi vào. Trong thời gian bị lưu đầy ở Vọng Các, Big Minh đã thanh minh với một linh mục Công giáo rằng ông không có trách nhiệm gì về vụ giết ông Diệm, Big Minh còn khuyên linh mục, nếu muốn biết rõ câu chuyện, thì nên đến hỏi tôi (“Our Endless War”, trang 314).

Trong những lần nói chuyện, tôi có hỏi Dương Văn Minh về vụ giết ông Diệm. Theo tôi, đảo chánh nào mà không đổ máu, và giết ông Diệm thì đã sao, nếu mình có chính nghĩa, hoặc tin rằng mình có chính nghĩa? Cần gì phải chối. Nhưng y vẫn chối. Cái hèn của Dương Văn Minh là ở đó. Và y đã sống suốt cuộc đời còn lại với cái hèn ấy.

Ngày 30-4-1975, sau khi được cụ Trần Văn Hương trao quyền tổng thống, y đã ra lệnh cho QLVNCH buông súng, “vì chủ trương hòa hợp hòa giải dân tộc” và “để cứu sinh mạng đồng bào”. Chúng ta hãy tạm cho y được hưởng lợi ích của sự nghi vấn. Chúng ta hãy tạm chấp nhận rằng: y kêu gọi và ra lệnh cho anh em QLVNCH buông súng, vì chủ trương hòa hợp hoà giải và để cứu mạng đồng bào. Nhưng khi VC vi phạm hiệp định Ba lê, trả thù man rợ các anh em QLVNCH, thì y không có được một lời để bênh vực các anh em đó. Chỉ cần một lời thôi. Chỉ cần một hành động thôi. Một lời và một hành động của chính cái kẻ đã kêu gọi anh em buông súng, nhân danh hiệp định Ba Lê, và nhân danh hòa giải hòa hợp dân tộc. Nhưng Dương Văn Minh đã im lặng. Vì hèn.

Ba năm sau khi đầu hàng, năm 1978 Dương Văn Minh được VC cho sang Pháp. Sang tới Pháp và suốt 19 năm sống bên Pháp, y cũng không có được một lời về số phận đau xót của các anh em QLVNCH trong các trại cải tạo và cho thân phận cùng cực của nhân dân miền Nam dưới ách bạo quyền CS. Vì hèn.
Y cũng không có được một lời xót xa cho cả triệu đồng bào ruột thịt đã chết trên biển khi đi tìm tự do. Vì hèn.

Năm 1997, y tuyên bố sẽ về VN để góp phần xây dựng đất nước. Người ta hiểu rằng trước khi tuyên bố như vậy, y đã được VC cho phép về VN. Người ta cũng hiểu rằng y đã được VC cho phép về VN để xây dựng nước VN dưới sự lãnh đạo của VC.

Năm 1963, hèn hạ, phản bội và làm tay sai. Mười hai năm sau, năm 1975, làm tay sai, hèn hạ và phản bội. Hai mươi hai năm sau, năm 1997, lại phản bội, làm tay sai và hèn hạ.

Suốt đời phản bội. Suốt đời làm tay sai. Suốt đời hèn hạ. Suốt đời háo danh. Suốt đời đần độn. Đó là Dương Văn Minh.

Nguyễn Văn Chức


C. LÝ QUÍ CHUNG VIẾT VỀ DƯƠNG VĂN MINH

Lâm Lễ Trinh, JD , Ph.D
“Trong chính trường cũng như chiến tranh,
hảy cẩn trọng khi ca tụng đức hạnh
của những người thắng cuộc”

William Niskanen

Đầu năm 2005, Đài BBC loan báo Lý Quí Chung, 65 tuổi, qua đời tại Saigon vì bịnh ung thư. Chung là cựu dân biểu ba khoá (1966-1975) thời Đệ nhị Cộng hoà thuộc cánh trung lập chủ bại, cựu Tổng trưởng thông tin hai ngày trong Nội các Dương Văn Minh. Gần đây, nhà xuất bản Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, cho phổ biến quyển “Hồi ký không tên, HKKT” của Chung, dày 486 trang, do trùm CS Trần Bạch Đằng đề tựa, tiết lộ nhiều tài liệu liên hệ đến giai đọan hấp hối của chế độ Nguyễn Văn Thiệu.

Bài này tóm lược một số điểm giúp hiểu thêm những hoạt động phản trắc, đâm sau lưng quốc gia, của tổ chức thường được dư luận biết dưới tên “nhóm Dương Văn Minh” mà Chung là một thành phần tích cực.

1 – Chính khứa Lý Quí Chung lần hồi chuyển hướng.

Lý Quý Chung & Trịnh Công Sơn

Ngay từ những trang đầu của hồi ký, Lý Quí Chung (LQC) không chối (mà còn khoe) y là một thanh niên trốn quân dịch, ra đời trong gia đình trung lưu tại Mỹ Tho, sinh viên Quốc gia Hành chánh bỏ học, tìm các sinh sống trong nghề báo từ 1960, lúc đầu phụ trách săn tin thể thao. Trong thế giới tứ chiến giang hồ này, Chung trôi nổi từ báo Bình Minh, Điện Tín qua Tiếng Nói Dân tộc, Tin Sáng... Nghề viết lách lần hồi đưa y một cách bất ngờ vào chính trường hỗn loạn của Miền Nam thập niên 70. Khi Nguyễn Cao Kỳ nắm chức vụ Chủ tịch Ủy ban Hành Pháp, bộ trưởng Thanh niên Võ Long Triều tuyển dụng Chung làm phó giám đốc Nha Thể thao và sau đó, giám đốc Nha Tác động Tâm Lý. Người giới thiệu gởi gấm Chung là đại tá Lê Quang Hiền, một thành viên trong Uỷ ban hỗn hợp bốn bên Tân Sơn Nhứt từng móc nối với phiá Hà nội và anh ruột của “liệt sĩ CS” Lê Quang Lộc.

Chung kể lại nơi trang 78- 79: Trước khi nhận lời, tôi có hỏi ý kiến cha tôi (Lý Quí Phát). Không quay lại nhìn tôi, tiếp tục đọc báo, ông nói: “Có thằng điên mới mời mày làm giám đốc! ”. Với ông, đó là một chuyện khó tin, vì trong con mắt của ông, tôi còn là một thanh niên hư hỏng.

Nhờ Võ Long Triều can thiệp với đại tá Nguyễn Đình Vinh, đổng lý Bộ Quốc Phòng, Chung được hoãn dịch một khoá. Chung viết: “Võ Long Triều là thầy dùi, một trong những đầu mối tập hợp quân cho tướng Kỳ. Người tài trợ cho các ứng cử viên dân biểu được ông Triều tập hợp là tướng Kỳ chứ không ai khác. Rất có thể ông Kỳ đã lấy tiền từ quỹ đen, caisse noire, dành cho Thủ tướng để chi. Trong số người được ông Triều đưa vào danh sách ứng cử có tôi... Ông Triều lúc đó vừa là người đứng đầu một tập hợp chính trị có tên là Phong trào Phục Hưng Miền Nam, PTPHMN. Với sự hổ trợ tích cực phiá sau của thủ tướng Kỳ, ông Triều và những người bạn thân thiết của ông như Hồ Văn Minh, Hồ Ngọc Nhuận, Hoàng Ngọc Tuệ, Đỗ Ngọc Yến, Trần Văn Ngô còn thành lập một phong trào hoạt động xã hội có tên là Phong trào phát triển Quận 8. Phong trào này nhằm hô hào chính quyền và dân chúng góp tay biến các khu ổ chuột thành những khu dân cư khang trang” (trang 80-83).

Nhờ sự sắp xếp nói trên, LQC, 26 tuổi, một trong bẩy ứng cử viên chỉ định của PTPHMN, được lọt năm 1966 vào Quốc hội lập hiến (gồm có 117 dân biểu) của một chế độ mà y gọi là “bát nháo, tham nhũng, mất định hướng, mỗi lúc một suy tàn.” Chung thú nhận : “Tôi bước vào sân khấu chính trị không do chính tôi chủ động mà do định mệnh (sic) chọn lựa”. Rõ ràng chuột sa hũ nếp! Cũng nhờ khéo chạy chọt, Chung được bầu trưởng khối Dân tộc đối lập với Nguyễn Văn Thiệu, gồm có các dân biểu PTPHMN, Phật giáo và độc lập. Chung củng cố chức vị với vai trò chủ tịch Ủy ban điều tra vụ ám sát dân biểu Trần Văn Văn và chủ tịch Ủy ban cứu xét các vụ án chính trị dưới chế độ Diệm. Vài tháng sau, Chung thoát vòng kềm tỏa của Võ Long Triều và tách ra khỏi PTPHMN. Từ Quốc hội lập pháp kỳ 1 (Hạ nghị viện 1967-1971) - vì thấy phe Nguyên Cao Kỳ hết ăn khách -, Chung chuyển dịch vào giữa, được công khai hoá với những bài xã luận trên báo Tiếng Nói Dân Tộc (do y làm chủ nhiệm) nói về những “người Việt đứng giữa”. Áp phích tranh cử của Chung mang khẩu hiệu xu thời “Một Miền Nam Trung lập trong một Đông Dương trung lập”. Vì khuynh hướng của y không có mấy que gia nhập, LQC tự gán cho mình danh hiệu “người Việt cô đơn”, không đứng về phiá chế độ Sàigòn, cũng chưa (công khai) nghiêng theo kháng chiến. Mặt khác, Chung nói dối khi tuyên bố “không biết gì về cộng sản” và không bị “phiá bên kia” móc nối. Thật vậy, y giao du thân mật với trùm gián điệp Phạm Xuân Ẩn, sinh viên phản chiến Huỳnh Tấn Mẫm, tuyển tên cán bộ đỏ Triệu Công Minh làm tổng thơ ký trong Tiếng Nói Dân Tộc, trọng dụng Huỳnh Bá Thành tức họa sĩ Ớt (trung tá CS chỉ huy Công an tại đô thành Sàigon sau tháng tư 1975) và chứa dấu trong nhà sinh viên Nguyễn Hữu Thái (bị Toà án quốc gia truy nã về tội mưu sát Viện trưởng Nguyễn Văn Bông theo lời kể lại của bà goá phụ N.V. Bông trong quyển hồi ký Mây Mùa Thu).


Thiếu tướng nội tuyến cộng sản Phạm Xuân Ẩn

Trong cuộc bầu cử Hạ Nghị Viện nhiệm kỳ hai vào tháng 8.1971, LQC tuyên bố trên đài truyền hình sẽ từ nhiệm nếu đắc cử và nếu sau đó, Nguyễn Văn Thiệu cũng đắc cử tổng thống trong một cuộc bầu cử độc diễn, để phản đối cuộc bầu cử thiếu dân chủ của Thiệu. Chung trúng cử dân biểu ngày 29.6.1971, Thiệu đắc cử tổng thống ngày 3.10.1971. Vì lỡ hứa với cử tri, Chung phải giữ lời. Báo Tiếng Nói Dân Tộc bị rút giấy phép. Chung phải thuê manchette tờ Bút Thần sau khi tờ Điện Tín (do Chung làm chủ bút) bị đưa ra Toà. Chung như cua gãy càng, lâm cảnh thất nghiệp, vì tính toán hố. Chung nhìn nhận “lập trường đứng giữa là ngây ngô chính trị” (HKKT, trang 146). Trong canh xì phé sắp tàn, Chung xoay tìm một lá bài khác. Lá bài Dương Văn Minh, có vẻ ăn khách hơn.

2 – Gia nhập nhóm Dương Văn Minh.
Lý Quí Chung gặp Dương Văn Minh lần đầu tiên vào tháng 6.1967 khi liên danh ứng cử Tổng thống Trần Văn Hương-Mai Thọ Truyền yêu cầu y qua Bangkok, nơi Minh bị Nguyễn Khánh lưu đày, để xin Minh lên tiếng ủng hộ liên danh này. Lúc đó, Ủy ban lãnh đạo quốc gia chống lại ý định hồi hương của Minh. Chung và Tôn Thất Thiện phụ trách báo chí cho liên danh Hương-Truyền. Rốt cuộc, liên danh Thiệu-Kỳ về nhứt với 35% phiếu trong tổng số 10 liên danh ứng cử.


Dương Văn Minh - Trần Văn Đôn sau khi đảo chánh

Năm 1971, Chung làm phát ngôn viên báo chí cho liên danh ứng cử Tổng thống Dương Văn Minh- Hồ Văn Minh (chủ trương thoả hiệp với cộng sản). Hai liên danh đối thủ (khuynh hướng chống cộng) là Thiệu-Hương và Kỳ- (Trương Vĩnh) Lễ. Luật bầu cử ngày 3.6.1971 của Quốc Hội thân chính quyền - do phụ tá Nguyễn Văn Ngân giật dây- buộc mỗi liên danh phải được 40 dân biểu, nghị sĩ hoặc 100 nghị viên Hội đồng tỉnh ký tên giới thiệu.Gần hết hạn nộp đơn, Kỳ thu được 101 chữ ký của các nghị viên nhưng vẫn bị Tối Cao Pháp Viện bác ngày 6-8 vì trong số 101 này có đến 39 chữ ký nằm trong danh sách ủng hộ Thiệu. Trong danh sách niêm yết lần thứ nhứt, bởi thế, chỉ có hai liên danh Thiệu và Minh. Ngày 20.8.1971, ông Minh bất thần tuyên bố rút tên với lý do Thiệu đã bố trí guồng máy gian lận bầu cử. Theo Chung, tướng Minh có trao tài liệu xác thực cho Đại sứ Bunker. Trong quyển “Vietnam: A History”, Stanley Karnow ghi rằng Minh từ chối số bạc đút lót một triệu đô-la của Bunker để ra tranh cử. Minh cũng đã xác nhận điểm này với phóng viên Ben Bradley của tờ Washington Post, trước mặt Chung và qua sự phiên dịch của Phạm Xuân Ẩn. Chung cho rằng Nguyễn Tiến Hưng xuyên tạc khi Hưng quả quyết trong quyển sách Hồ Sơ Dinh Độc Lập rằng Dương Văn Minh có bỏ túi số tiền vừa nói.
Trong buổi họp báo đầu tiên ra mắt ký giả quốc tế, đã xuất hiện đầy đủ ê-kíp thầy dùi của Dương Văn Minh gồm có Vũ Văn Mẫu, Lý Chánh Trung, Hồ Văn Minh, Trần Ngọc Liễng, Hồng Sơn Đông, Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Nguyễn Hữu Chung và Lý Quí Chung.


Cụ Nguyễn Văn Huyền (thứ hai từ trái)

Quyết định rút lui của Minh gây bối rối cho Nguyễn Văn Thiệu nên, để tránh tình trạng độc diễn, « quân sư » Nguyễn Văn Ngân vận động trả lại 39 chữ ký trên đây cho Kỳ và xin Tối Cao Pháp Viện, bằng một phán quyết “ảo thuật” ngày 21.8.1971, chấp nhận cho liên danh Kỳ-Lễ được niêm yết trên danh sách lần thứ hai với liên danh Thiệu-Hương. Ngày 28.8, Kỳ cũng tuyên bố rút lui và đề nghị cả Thiệu lẫn Kỳ đều từ chức để cho chủ tịch Thượng viện Nguyễn Văn Huyền tạm điều khiển chính phủ và tổ chức cuộc bầu cử tổng thống khác trong vòng ba tháng. Thiệu bác bỏ. Ngày 1 tháng 9, Tối cao Pháp viện chấp thuận cho Kỳ-Lễ rút tên (HKKT, trang 218). Trong hồi ký Buddha’s Child, trang 318, Kỳ khoe Bunker đã dụ dỗ y: “Nếu ông cần tiền, chúng tôi có thể giúp hai triệu đô. Chúng tôi sẽ chuyển qua trung gian của tướng (Nguyễn Ngọc) Loan.” Như thế, Kỳ đã tự đánh giá cao hơn Minh, một triệu!

Liên danh Thiệu-Hương – không còn đối thủ - đắc cử ngày 3.10.1971 với 94,3% số phiếu bầu. Một chiến thắng không vinh quang! Trong giai đọan đàm phán tại Paris, nhiều tổ chức phản chiến không 
ngưng xuống đường. Nhiều hình thức đấu tranh được áp dụng.

Dương Văn Minh phớt lờ trước cách đánh giá thấp và khinh miệt của dư luận Mỹ đối với ông. Trong hồi ký Ending The Vietnam War, Kissinger đề cao Thiệu nhưng mạt sát Minh như sau: “Minh là con người yếu mềm nhứt trong các bộ mặt chính trị. Nếu Hà nội chấp nhận ông – điều này cũng không rõ ràng – thì chỉ vì ông là người dễ dàng lật đổ nhất.”

https://encrypted-tbn3.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcRbc9GDqnqYuTv-KY8VLM5WNCvjbqVK5MA4e1CHi-s8BXwtT-Euzw
Thích Trí Quang bên phải

Với tư cách đại diện báo chí cho liên danh Dương Văn Minh, Chung đến chùa Ấn Quang, Saigon, gặp Thượng toạ Trí Quang, qua sự giới thiệu của dân biểu Huế Trần Ngọc Giao. Để chắc ăn, Chung gia nhập vào Lực lượng Hoà Giải Dân tộc của Vũ Văn Mẫu, con gà cồ của Ấn Quang. Vũ Đình Cường và Bùi Tường Huân cũng nằm trong tổ chức này. ... Khi Chung ngỏ lời xin Trí Quang ủng hộ D V Minh, Trí Quang nhận định: “Bây giờ cần một người cầm cờ, ông ấy (DVMinh) có thể làm được chuyện đó trong lúc này... Tướng Minh không phải là người làm chính trị có bản lĩnh”. Sau đó, Trí Quang gởi Chung đến gặp Tăng thống Thích Tịnh Khiết tại chùa Bảo Quốc, Huế, và Thích Huyền Quang 
tại chùa Từ Đàm.


Dương Văn Minh, Phan Khắc Sửu, Nguyễn Khánh

Theo Chung, nhóm mệnh danh Dương Văn Minh chỉ chánh thức hình thành vào đầu 1970, một năm sau khi tướng Minh ở Bangkok về Saigon. Mỗi tuần vào ngày thứ tư, họ gặp nhau tại Dinh Hoa Lan, trên tầng lầu của dãy nhà cạnh ngôi nhà chính, ở số 3 đường Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần, Saigon. Nhóm gồm có 4 thành phần: a) cảm tình viên như Nguyễn Ngọc Thơ, Nguyễn Hữu Phi (người bạn tennis), Mai Hữu Xuân, Võ Văn Hải (cựu chánh văn phòng của TT Diệm), Tôn Thất Thiện, Bùi Chánh Thời.. b) ôn hoà: Vũ Văn Mẫu, Hồ Văn Minh, Nguyễn Hữu Chung, Lý Quí Chung.. c) khuynh tả: Trần Ngọc Liễng, Lý Chánh Trung, Ngô Công Đức (sau đào thoát qua Thuỵ Điển), Dương Văn Ba.. c) cực tả: Nguyễn Ngọc Lan, Hồ Ngọc Nhuận... Trong nhà, tướng Minh cho “tị nạn chính trị” một số người bị chính phủ truy lùng như db Phan Xuân Huy, db Dương Văn Ba, Nguyễn Văn Cước (hoạt động công đoàn).. Nơi trang 270-271, HKKT, Lý Quí Chung ghi: “Xét về gốc tích thành phần của nhóm ông Minh lộ ra sau 1975, chúng ta sẽ không ngạc nhiên về sự chuyển dịch lập trường của nhóm từ “ở giữa” sang tả, rồi hướng đến sự sẵn sàng liên kết với MTGPMN và Hà nội”. Gần phân nửa thành viên trong nhóm có quan hệ với MTGPMN như các ông Cước, H N Nhuận, Lý Chánh Trung, linh mục N N Lan, T N Liểng.. Với Linh mục Lan, thẩm phán Triệu Quốc Mạnh, nhà văn Thế Nguyên, Nguyễn Văn Cước.., Ls Liễng thành lập Tổ chức đòi thi hành Hiệp định Paris..”

Người Mỹ duy nhất mà tướng Minh tiếp là cựu trung tướng Charles Timmes, một nhân viên CIA (được William Colby thuê để thay thế Lou Conein, cố vấn nhóm tướng đảo chính TT Diệm năm 1963). Để gây cảm tình (và đồng thời dò la tin tức, nhân tiện theo dõi hành động), Timmes thường đến tặng Minh vài chậu hoa lan hiếm có hay cá quý mỗi khi có dịp xuất ngoại. Timmes cũng luôn lui tới với Kỳ, không ngoài mục tiêu kiểm soát hành tung. Chính Timmes đã sắp đặt với Frank Snepp sự ra đi của TT Thiệu và Trần Thiện Khiêm tối 29.4.1975.

Điểm đáng lưu ý: Chung xác nhận, suốt sáu năm cộng tác với D V Minh, Chung “không thấy giữa Minh và toà đại sứ Pháp có một quan hệ nào trừ những ngày cuối tháng 4.1975.” (HKKT , trang 266)
3 – Thời khắc lịch sử ô nhục: đầu hàng.


Hòa đàm Paris 1973

Hiệp định Paris được ký ngày 27.1.1973. Nhân danh “thành phần thứ ba”, LQC tổ chức với Lực lượng Hoà giải Dân tộc của Vũ Văn Mẫu và Nhóm Đòi Thi Hành Hiệp định Paris của Trần Ngọc Liễng một buổi Hội thảo tại chùa Ấn Quang, có báo giới và truyền hình nước ngoài tham dự, để ủng hộ Hiêp định này và đòi TT Thiệu từ chức. Tiếp theo là những cuộc xuống đường rầm rộ và những chiến dịch vận động quần chúng ở Huế, Đà Nẵng..v..v.. Năm 1974, Tướng Minh chính thức đến viếng Trí Quang và tiếp Trí Quang tại Dinh Hoa Lan, CBS thu hình và hai bên có ra thông cáo. Chính quyền Thiệu suy sụp mau chóng vì Mỹ rút quân và cúp viện trợ, kinh tế lẫn quân sự.


Huỳnh Bá Thành, họa sĩ Ớt

Sáng mùng một Tết Ất Mão, D V Minh đích thân đến thăm các dân biểu và nghị sĩ đối lập tổ chức “đêm không ngủ” và tuyệt thực tại tiền đình Hạ viện. Phước Long thất thủ. Tướng Nguyễn Khắc Bình, tổng giám đốc cảnh sát- công an, cho bắt giam một số đối lập: Hà Huy Hà, Tô Nguyệt Đình, Quốc Phượng, Sơn Nam, Nguyễn Ngọc Lan, Châu Tâm Luân ... Hồ Ngọc Nhuận nghi Huỳnh Bá Thành (không bị bắt) là tay trong của Trung ương Tình báo nên đề nghị với tướng Minh không cho vào Dinh Hoa Lan nữa. Sau 30.4.1975, vài bài báo cho rằng chính Huỳnh Bá Thành đã trực tiếp khuyên tướng Minh đầu hàng.


16/3/75 bỏ Pleiku

Vào tháng 3.1975, sự tháo chạy khỏi Kontum, Pleiku về hướng Nha Trang quả thật kinh hoàng. Ngày 20.3.1975, TT Thiệu ra lệnh cho Ngô Quang Trưởng tử thủ ở Huế nhưng trước đó hai ngày, Huế đã bắt đầu di tản. Có tin đồn việc rút khỏi Cao Nguyên và Quảng Trị là do sự thỏa thuận ngầm giữa Mỹ và Bắc Việt. Ngày 30.3.1975, đến phiên Đà nẳng rớt vào tay địch. Đầu tháng 4.1975, nhóm D V Minh họp báo tại Đường Sơn Quán (do Mai Hữu Xuân làm chủ), gần xa lộ Đại Hàn, tuyên bố với giới thông tin ngoại quốc quyết định của tướng Minh thay thế Thiệu...

L Q Chung kể lại: Ngày 17.4.1975, đại sứ Pháp Jean Marie Mérillon cùng cố vấn Pierre Brochard đến Dinh Hoa Lan hội kiến với ông Minh, trước sự hiện diện của Chung. Họ hứa ủng hộ giải pháp D V Minh. Cũng trong lúc đó, Nguyễn Cao Kỳ thăm dò ý kiến của hai tướng Cao Văn Viên (tổng tham mưu trưởng) và Trần Thiện Khiêm (thủ tướng về hưu được 6 tháng) để đảo chính Thiệu. Trùm CIA Thomas Polgar ra lệnh cho tướng Timmes chận đứng ý đồ. Sự kiện này được Hoàng Đức Nhã xác nhận sau 1975 với Larry Berman, tác giả của No Peace, No Honor. Đại sứ Graham Martin cùng đi với tướng Timmes đến gặp Kỳ tại nhà để khuyên Kỳ kiên nhẫn. Từ lâu, Kỳ không có cảm tình với lớp tướng già như Minh, Đôn…, Khánh...Thật ra, chính giới Mỹ cũng không ưa gì Kỳ. William Bundy, thứ trưởng ngoại giao thời Lyndon Johnson, phê bình: “Kỳ là cái đáy thùng, sự chọn lựa cuối cùng và tệ hại nhất của một quân đội tuyệt vọng!”. Stanley Karnow, trong Vietnam- A history, mô tả Kỳ “giống như một tay thổi kèn saxo trong một hộp đêm hạng hai.” Nhà văn Frances Fitzgerald, tác giả của Fire on the Lake, cho rằng Kỳ là “một kẻ lừa bịp,... một tướng lãnh làm mất tin tưởng, không có khả năng nắm quyền bính.”


Tổng thổng Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn văn từ chức.

Ngày 23.4.1975, để chận trước đảo chính, Thiệu từ chức, theo đề nghị của Hoàng Đức Nhã bằng một công điện mật mã gời từ Singapore. Thiệu đọc một bài diễn văn nảy lửa trên truyền hình, tố cáo Mỹ bội hưá và vô nhân đạo. Thiệu trao quyền cho phó tổng thống Trần Văn Hương, như Hiến pháp quy định. Hai đại sứ Martin (Hoa kỳ) và Mérillon (Pháp) thuyết phục Hương nhường quyền cho Minh. Ngày 25.4.1975, Martin giúp vợ chồng TT Thiệu và Trần Thiện Khiêm bí mật rời Sàigòn đi Đài Loan. Graham Martin lì hơn Thiệu, không bỏ chạy, dù có chỉ thị rút ra nhanh của Washington.

Ngày 26.4.1975, lưỡng viện Quốc hội (với 136 dân biểu, nghị sĩ trong tổng số 219) nhóm để nghe các tướng Trần Văn Đôn, Cao Văn Viên, Nguyễn Khắc Bình và Nguyễn Văn Minh phúc trình về tình hình an ninh. Với mục đích trấn an khối dân cử “gia nô”, nắm đa số, Lý Quí Chung – với tư cách đại diện của D V Minh - đề nghị biểu quyết a) Sẽ không có sự trả thù vì ủng hộ Thiệu hoặc chống đối lập b) Chính quyền mới sẽ cấp hộ chiếu (visas) ra đi chính thức cho những ai muốn rời VN. Kết quả: Lúc 20 giờ 54 tối, với số phiếu 147/151, dưới sự điều khiển của chủ tịch Trần Văn Lắm, Quốc hội thuận truất phế Hương và trao quyền cho Minh bằng một quyết nghị do Ls Trần Văn Tuyên giúp thảo ra.


Tổng thống 2 ngày Dương Văn Minh

Tại sao đến ngày 28.4.1975 mới cử hành lễ tấn phong D V Minh và ngày 30.4.1975 mới trình diện tân nội các? Chung tiết lộ: chính “thầy bói nghiệp dư” Hồ Văn Minh, ứng cử viên phó tổng thống trong liên danh D V Minh năm 1971 –đã đề nghị hai ngày “tốt” này. Dương Văn Minh chọn Ls Nguyễn Văn Huyền, trí thức công giáo, nguyên chủ tịch Thượng viện, làm phó tổng thống, và nghị sĩ Vũ Văn Mẫu, phật giáo, từng cạo đầu để phản đối TT Diệm, làm thủ tướng. Thành phần Nội các gồm có Hồ Văn Minh (phó thủ tướng), Nguyễn Văn Trường (Giáo dục), Bùi Tường Huân (Quốc phòng), Lý Quí Chung (Thông tin)…...Vào giờ chót, Hồ Ngọc Nhuận tránh mặt , không nhận Bộ nào và cũng không đồng ý cho ông Minh lãnh chức Tổng thống.

Trong 48 giờ ngắn ngủi tại chức, LQC, thừa lệnh tân tổng thống, vận động Pháp công nhận Chính phủ D V Minh. Mọi việc không đi đến đâu. Chung lên Đài truyền hình , với Huỳnh Tấn Mẫm kè bên cạnh, kêu gọi đồng bào ở lại, trong cảnh hỗn loạn tột cùng. Sau ngày Ban Mê Thuột thất thủ, D V Minh đã không chấp nhận kế hoạch của Kỳ lập vùng kháng chiến ở Miền Tây, lấy Cần Thơ làm thủ đô. Minh miễn cưỡng dự lễ bàn giao với Trần Văn Hương ngày 28.4.1975 lúc 16 giờ 45 vì Minh từ chối “trở thành người kế tục TT Thiệu theo Hiến pháp của Đệ nhị Cộng hoà mà ông hoàn toàn phủ nhận giá trị". Quyền Tổng thống Hương bắt tay ông Minh: “Nhiệm vụ của Đại tướng rất nặng nề!”. Không có sự bàn giao giữa hai thủ tướng Vũ Văn Mẫu và Nguyễn Bá Cẩn vì Minh cho đây là điều vô ích. Hơn nữa, lúc đó, Cẩn đã đào thoát khỏi VN (HKKT, trang 383).

Chung ghi: Từ khi Quốc hội biểu quyết cử Minh thay thế Hương, lực lượng không quân ở Tân Sơn Nhứt đã đóng cổng, chối từ nhận lệnh điều động của TT Minh. Khi ông Minh và đoàn tùy tùng vừa từ Dinh Độc lập trở về Dinh Hoa Lan thì các loại súng ở Dinh Độc Lập và Hải quân ở bến Bạch Đằng bắn lên như điên nhưng chẳng biết bắn vào mục tiêu cụ thể nào. Mọi người đều chui xuống bàn. 
 Chung kể thêm, nơi trang 386: Tối 28.4.1975, Đô đốc Chung Tấn Cang, tư lệnh Hải quân, vào Dinh Hoa Lan gặp ông Minh, có lẽ nói về quyết định ra đi. Sau đó, có tin ông Minh chấp nhận cho con rể là Đại tá Đài đưa con gái và hai cháu ngoại của ông lên tàu di tản với Đô đốc Cang. Bà Minh ở lại. Vào lúc này, có thể ông Minh đã biết không có hy vọng thương thuyết với quân giải phóng. Trong quyển sách Cruel Avril, Olivier Todd cho biết: cùng đi với Chung Tấn Cang vào gặp Minh, có hai sứ giả của cựu thủ tướng Trần Văn Hữu, thời Bảo Đại, là Lê Quốc Tuý và Mai Văn Hạnh (năm 1984, hai người này liên hệ với vụ CS xử tử Trần Văn Bá). Họ đề nghị ông Minh mời Hữu về làm thủ tướng vì “Hànội và Chính phủ Cách mạng lâm thời tán đồng vai trò của ông Hữu.” Cũng trong ngày 28.4.1975, từ Paris về đến Bangkok, cựu dân biểu Ngô Công Đức điện đàm với ông Minh cho biết không có cách nào kết thúc chiến tranh bằng chính trị.Sáng 29.4.1975, Sàigòn hoảng lọan hoàn toàn. Tướng Nguyễn Khắc Bình đã bỏ chạy, chỉ còn phó tổng giám đốc cảnh sát Phạm Kim Quy. Quy cho biết y chỉ có thể điều động được một sư đoàn cảnh sát dã chiến và sẽ cố gắng thi hành chỉ thị của tổng thống (Minh) giữ trật tự trong đô thành. Lý Quí Chung đề nghị nên tuyên bố ”Sàigòn bỏ ngõ” và “để quân giải phóng kiểm soát, bảo vệ an ninh.” Ông Minh giao cho db Hồ Văn Minh soạn thảo bản tuyên bố. Chiều tối, tướng Vĩnh Lộc, tổng tham mưu trưởng, cùng chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (từ lâu theo MTGPMN) đến thuyết trình với ông Minh rằng tình thế tuyệt vọng. Chung liền đề nghị với ông Minh nên vào Dinh Độc lập ngủ đêm nay. Minh phản đối vì ông đã từng tuyên bố trước đó với bạn bè, nếu thành Tổng thống, ông không bao giờ xử dụng Dinh Độc Lập, “Mình sẽ vào đó đánh quân vợt mà thôi!” Rốt cuộc, vào lối 9 giờ tối, ông Minh và gia đình đồng ý vào Dinh Độc Lập vì nơi đây có hầm chống pháo kích kiên cố. Cùng đi, có hai cặp vợ chồng LQC và Nguyễn Hữu Chung.

Tám giờ sáng ngày 30.4.1975, TT Minh tuyên bố với Nội các: Vì Chính phủ không có khả năng giữ an ninh nên ông quyết định trao quyền cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam. Phòng họp yên lặng, không ai phản đối. Lối 15 phút sau, kỹ thuật viên đài truyền thanh đến Dinh để thu âm bài tuyên bố giao quyền, lần thứ ba mới thu hoàn chỉnh. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh dành đích thân mang băng ghi âm đến Đài “cho chắc ăn.” Y cũng cho biết sẽ thảo ra và cho phát thanh – với tư cách quyền Tổng tham mưu trưởng- một nhật lênh chỉ thị cho quân đội buông súng. Tướng Vĩnh Lộc sáng hôm đó, đã chạy khỏi Sàigon bằng tàu hải quân với tướng Trần Văn Trung. Nguyễn Cao Kỳ và Ngô Quang Trưởng cũng đã rời Sàigòn trên một chiếc trực thăng riêng. (HKKT, trang 400).


Nội các Dương Văn Minh

Trong lúc chờ đợi quân cách mạng xuất hiện, tướng Minh cho nhân viên Nội các biết họ có quyền chọn ra đi hay ở lại. Ông thông báo luôn cả số bến và số cổng để lên tàu VN Thương Tín còn đậu ở hải cảng Sàigòn. Chỉ có Nguyễn Hữu Chung điện thoại cho hay y quyết định ra đi cùng gia đình. Bùi Tường Huân kẹt lại giờ chót.


Khoảng 11 giờ 30 sáng, chiếc xe tăng CS đầu tiên loại T-54 tiến trên đại lộ Thống Nhất về phía Dinh Độc lập, ủi sập cổng, sau khi bắn hai phát đại bác long trời lở đất. Tiếng chân chạy ồn ào trong đại sảnh, có tiếng đạn lên nòng, một khẩu lệnh vang dội: “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!” D V Minh là người bước ra đầu tiên, thiếu tá tùy viên Hoa Hải Đường đi bên cạnh, phiá sau là Vũ Văn Mẫu, Lý Quí Chung… .. Nhiều bộ đội ở đầu kia đại sảnh hét to: “Mọi người giơ hai tay lên!”. Minh, Mẫu và tuỳ tùng nhất loạt tuân lệnh. Gần bên bộ đội võ trang, lố nhố những gương mặt quen thuộc: Nguyễn Vạn Hồng (Cung Văn), Nguyễn Hữu Thái, Huỳnh Bá Thành, Huỳnh Văn Tòng, Huỳnh Tấn Mẫm... Tất cả mang thường phục. Chúng la to: Mình thắng rồi! Mình thắng rồi ! Viên đại úy chỉ huy xe tăng ký hiệu 843 (về sau, đuợc biết tên là Bùi Quang Thận) nói với tướng Minh: Anh chỉ cho tôi đường đi hạ cờ ngụy. Minh quay qua Chung: “Toa dẫn người này đi.” Chung dùng thang máy đưa viên sĩ quan lên sân thượng của Dinh, kéo cờ vàng ba sọc đỏ xuống, thay bằng cờ MTGPMN.

Trở lại phòng họp, bên cánh phải Dinh, Chung nghe một người bộ đội (có lẽ chính trị viên; tên được biết về sau là Bùi Văn Tùng) hất hàm bảo ông Minh: Anh hãy viết ngay một tuyên cáo đầu hàng. Tướng Minh trả lời rằng sáng này, ông đã có một tuyên bố trao quyền rồi. Viên chỉ huy nói: “Anh chẳng có gì để trao. Anh chỉ có thể tuyên bố đầu hàng! “



Dương Văn Minh bị dẫn ra đài phát thanh

Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu và LQC được đưa đến Đài phát thanh trong hai xe jeeps để thu băng. Bản tuyên bố đầu hàng do Bùi Văn Tùng soạn thảo. Sau khi đọc vào lúc 13 giờ 30, Minh và Mẫu được đưa trở lại Dinh Độc Lập. Từ ngày 30.4.1975 cho đến 2.5.1975, các ông Minh, Mẫu, Nguyễn Văn Huyền. và một số nghị sĩ, dân biểu vẫn còn được phép ở trong Dinh để gặp Trần Văn Trà, Cao Đăng Chiếm, Mai Chí Thọ... đại diện Ủy ban Quân quản, xong họ tự do ra về.

Ở đài phát thanh, bản văn cộng sản Phạm Xuân Thệ soạn sẵn.

Phạm Xuân Thệ

4- Sau ngày 30.4.1975

LQC bị bịnh ung thư nặng nên phải ngưng một thời gian khá dài mới viết được phần hai của quyển hồi ký. Phần đầu gồm có 24 chương liên hệ đến 13 năm hoạt náo chính trị của y tại Miền Nam VN. Cuối tháng chạp 2002, sức khoẻ phục hồi phần nào, Chung viết thêm hai chương chót, dài 62 trang, về cuộc sống……… lăn lóc 30 năm trong địa ngục cộng sản. Chung qua đời đầu năm 2005. Chương “Sau ngày 30.4.1975”, 34 trang, tuy ngắn nhưng phản chiếu khá đủ những nỗi thất vọng của y về “thiên đường” xã hội chủ nghĩa.

Vì giỏi chạy chọt nên Chung nhận được chiều 12.6.1975 thơ của Cao Đăng Chiếm , Phó chủ tịch Ủy ban Quân quản Saigon, hoãn cho y “học tập tập trung”. Nhóm dân biểu phản chiến Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Phan Xuân Huy, Đinh Xuân Dũng, Nguyễn Phúc Liên Bảo... cũng hưởng được ân huệ này: phần thưởng của sự phản bội! Tuy nhiên, Chung cũng phải trả một giá rất đắt: toàn thể tài sản bị tịch thâu, cha Chung bị liệt nửa thân mình vì uất ức mất hết của cải; gia đình Chung ly tán, 6 em gái và một em trai bỏ nước ra đi; Chung phải gỡ bán từng cánh cửa trong nhà để mua thực phẩm. Hai “công tử cưng” của Chung phải đi mài bản kẻm trong một nhà in và làm bồi bàn khách sạn.

Năm 1975, bốn tháng sau ngày “giải phóng”, Võ Văn Kiệt, bí thơ thành ủy TP-HCM, cho phép Ngô Công Đức, chủ nhiệm, tái xuất bản tờ Tin Sáng, có Dương Văn Ba, Nguyễn Hữu An, Nguyễn Văn Binh, Hồ Ngọc Nhuận... cộng tác. LQC đảm trách vai trò phó biên tập. Mục tiêu của Kiệt là tập trung nhóm dân biểu phản động này lại vào chung một giỏ để tiện việc kiểm soát, đồng thời ra chỉ thị cho họ rình rập lẫn nhau để dâng công và viết lách tuyên truyền cho Đảng. LQC cho biết: Ngay từ lúc đầu, có những “mâu thuẫn nội bộ” về vấn đề quản lý, tiền bạc; “các gắn bó với nhau từ thời cũ lại không suông sẻ”. Tin Sáng tuyên bố “hoàn thành nhiệm vụ” (sic) sau 5 năm. Từ đó để độ nhựt, “nguyên tổng trưởng Thông tin, nguyên dân biểu đối lập ngụy quyền LQC” – tước danh thời vàng son mà Chung thường nhắc để tự an ủi – đành cam phận đi nhặt tin ... bóng đá, bán cho các báo. Cho đến ngày qua đời, LQC phụng sự tất cả là bảy tờ tạp chí và nhật báo CS. Chung than thở chán nản : “Tôi là một quả chanh đã hết nước rồi!” (HKKT, trang 434)

Lối năm 1988, bất chấp mọi đàm tiếu, LQC viết một bức thơ cho Võ Văn Kiệt, lúc đó Phó chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng, bày tỏ nguyện vọng “ngày nào đó trở thành đảng viên Đảng CSVN”. Kiệt không màng phúc đáp. Trong cảnh chim lồng cá chậu, Chung ê chề nhận thức trước khi qua đời: Sau 30 năm, tôi vẫn phải gánh trên lưng mình cái lý lịch “viên chức cao cấp chế độ cũ” như một cục bướu..., tôi chưa bao giờ là một thành viên trọn vẹn của chế độ mới. Tôi vẫn hiểu được rằng thật khó cho người cộng sản tin dùng trọn vẹn một người không phải của mình... Một trong những câu nói đầu tiên sau thời gian cha tôi bị tắt tiếng là nói với tôi một cách giận dữ: “Tao không muốn gặp mày nữa. Gia đình mày như thế này, cha mày như thế này, mà mày còn viết báo cho cộng sản. Tao từ mày.” (HKKT, trang 426). Sự trở mặt của LQC đối với phía quốc gia không được CS bồi đáp đúng mức.

Sau vài hôm - cùng với Trần Văn Hương, Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Huyền - bị Mai Chí Thọ và Tạ Bá Tòng nhồi sọ về đường lối cách mạng và chủ thuyết Mác Lê, ông DV Minh ngoan ngoãn trở về đời sống dân giả và tuyên bố hãnh diện được đi bầu. Năm 1982, ông Minh nhờ một bạn học cũ là bà Bùi Thị Mè (được CS vinh danh “Bà mẹ chiến sĩ”) năn nỉ với Võ Văn Kiệt, bí thơ thành ủy TP. HCM, cho phép xuất ngoại sang Pháp. Lúc đến chào từ biệt, ông Minh cho Kiệt biết Toà Tổng lãnh sự Pháp có ngỏ ý, theo chỉ thị từ Paris, lo cho ông bà Minh mọi phương tiện, kể cả vé máy bay nhưng ông Minh đã từ chối: “Mọi việc đã có chính phủ tôi lo rồi!”. Mặt khác, ông Minh hứa khi sống ở nước ngoài ông sẽ “không có một lời tuyên bố nào bất lợi cho nước nhà.”(HKKT, trang 445). Ông bà DV Minh được mang theo hành lý với số cân không hạn chế và không bị kiểm tra, theo lệnh của Kiệt. Năm 1984, với tư cách Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Kiệt đi dự Quốc khánh của Cộng hoà Dân chủ Đức. Trên đường về, Kiệt ghé Paris thăm Phạm Ngọc Thuần, Phạm Hoàng Hộ và Dương Văn Minh. Một trong những câu nói đầu tiên của ông Minh khi gặp Kiệt tại nhà bác sĩ Danh là: «Anh đã biết đó, tôi luôn giữ lời hứa khi rời khỏi Sàigòn. Sang đây, tôi không tiếp xúc báo chí và cũng không có một lời tuyên bố nào bất lợi cho ở nhà» Có hai lần ông Minh chuẩn bị hồi hương nhưng không hiểu vi sao dời lại. Cuối cùng, ông Minh qua California sống vơi người con gái và quá vãng tại đây.

Nơi trang 447 của HKKT, LQC viết: Khi ông DV Minh và vợ đi khỏi Sàigòn rồi, tôi có dịp gặp Thượng tọa Trí Quang, ông nói: “Thật rất tiếc. Đáng lý ông Minh nên ở lại đất nước bởi chính ông là người từng kêu gọi dân chúng không nên bỏ quê hương ra đi. Nhiều người vì nghe ông ở lại. Thế mà bây giờ ông lại ra đi...”

Tác giả bài này được cựu đại tá Nguyễn Linh Chiêu, hiện sống ở Huntington Beach, California, cho biết: Năm 1983, ông Chiêu có tổ chức một bữa cơm tại Paris để gặp lại hai bạn cũ Dương Văn Minh và Trần Văn Đôn. Trả lời câu hỏi của ông Chiêu tại sao thủ tướng Vũ Văn Mẫu đòi trên Đài phát thanh Sàigòn sáng ngày 30.4.1975 Quân đội Mỹ phải rút khỏi VN trong 24 tiếng đồng hồ? Tướng Minh cho biết chính đại sứ Hoa kỳ Graham Martin đã yêu cầu Tổng thống Minh có quyết định ấy để tạo lý do cho Mỹ chuồn gấp.

Lý Quí Chung kết thúc quyển Hồi Ký Không Tên với câu hỏi: Ông Dương Văn Minh là người của Pháp, Mỹ hay Cộng sản? Và Chung liền tự trả lời: “Tôi nghĩ ông Minh chỉ là người yêu nước”.

Ba thập niên sau ngày Miền Nam bị bức tử, lịch sử có sẵn sàng xác nhận như thế hay không?

LÂM LỄ TRINH HỒI