Tuesday, 25 February 2014

Xin đóng góp ý kiến: TẠI SAO CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN VIỆT NAM VẪN TỒN TẠI - Lê Duy San

Sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ rồi tới các nước cộng sản Đông Âu trải qua một cuộc cách mạng nhung và sau cùng là Liên Bang Sô Viết tan rã, nhiều người tưởng rằng chế độ Cộng Sản Việt Nam chắc cũng chẳng còn tồn tại được bao lâu nữa. Nhưng thực tế nó vẫn tồn tại, vẫn sống, không những sống dai mà còn sống mạnh. Tại sao vậy ? Phải chẳng nó đã được lãnh đạo bởi những người tài ba, lỗi lạc hay chỉ vì nó đã được bọn người lãnh đạo áp dụng những biện pháp cai trị cực kỳ sắt máu và tàn bạo khiến không ai dám có tư tưởng phản kháng hay hành động chống đối để lật đổ chúng.

Ngày nay, với thông tin điện tử toàn cầu, chuyện gì xẩy ra, dù ở bất cứ đâu, dưới chế độ nào thì cũng chỉ ít phút sau là cả thế giới đều biết. Hơn nữa chúng (Việt Cộng) đã được gia nhập vào Liên Hiệp Quốc, WTO v.v… do đó chúng bắt buộc phải thay đổi chính sách cai trị sắt mắu phần nào, không còn dám tàn bạo, độc ác và dã man như trước. Nhưng ngược lại, những phương pháp loại trừ hay cô lập những thành phần chống đối, bất đồng chính kiến và nhất là những thành phần mà chúng coi là “phản động” thì lại mỗi ngày một tinh vi hơn, khắt khe hơn.

Chúng ta còn nhớ, năm 1975 bọn Việt Cộng cưỡng chiếm được toàn thể miền Nam. Để loại trừ tất cả những thành phần chống đối hoặc có thể chống đối, trước hết chúng bắt tất cả các quân nhân, mà chúng gọi là nguỵ quân, từ cấp úy trở lên và tất cả các công chức, mà chúng gọi là ngụy quyền, từ cấp chánh sở trở lên hoặc tương đương, cho đi tù mà chúng gọi là cho đi học tâp cải tạo. Kế đến chúng tạo ra vụ nổ ở hồ Con Rùa ở Sài Gòn để bắt đi tù tất cả những văn nghệ sĩ miền Nam mà chúng gọi là những tên “biệt kích văn hóa”. Rồi chúng loan tin Hiệp định Paris sẽ được thi hành để cho tất cả các chính trị gia, các thành phần đảng phái mà chúng chưa có cớ để bắt tưởng thật, xuất đầu lộ diện rủ nhau hội họp để sửa soạn cho một chính phủ Liên Hiệp ra đời. Tới khi chúng thấy hầu hết tất cả các thành phần này xuất diện, chúng làm một mẻ lưới bắt hết cho vào tù. Cuối cùng chúng tạo ra những phong trào Phục Quốc giả để bắt nốt nhưng thành phần chống đối hoặc có ý tưởng chống đối chúng còn sót lại. Những chính sách như đổi tiền, cải tạo công thương nghiệp, đánh tư sản mại bản, lập vùng kinh tế mới v.v… cũng không ngoài mục đích cô lập và vô hiệu hóa tất cả những thành phần chống đối còn sót lại. Cuối cùng, những người nào không ưa Việt Cộng, không còn muốn sống với chúng chỉ còn duy nhất một con đường là bỏ nước ra đi tức vượt biên để tìm tự do. Có thể nói, sau 10 năm, từ 1975 đến 1985 áp dụng những chính sách này, dân Việt Nam chỉ còn 2 loại người:

1/ Những đảng viên Cộng Sản và những người đã theo chế độ Cộng Sản từ trước

2/ Những người tuy không ưa chế độ Cộng Sản nhưng cũng đành chiụ tuân phục chế độ để sống qua ngày vì không có tiền để vượt biên hay vì còn quá lưu luyến với quê cha, đất tổ.

Nhưng sau 35 năm sống dưới chế độ Cộng sản, tư tưởng của 2 hạng người trên đã thay đổi và nẩy sinh ra những hạng người chống đối mới. Đó là những hạng người nào? Và Cộng Sản Việt Nam đã áp dụng những chính sách gì để loại trừ những hạng người này để tồn tại ?

I/ Sự chống đối mới của các đảng viên Cộng Sản và nhân dân Việt Nam.

            1/ Sự chống đối của các đảng viên Cộng Sản.

Phải nhìn nhận rằng vào thời điểm 1945, hầu hết người dân Việt Nam đều không hiểu biết gì về Cộng Sản.   Nếu có biết thì cũng chỉ hời hợt và nếu không ưa gì Cộng Sản thì cũng không ghét vì tất cả đều có tinh thần yêu nước rất cao. Lợi dụng điềm này, Hồ Chí Minh đã tuyên bố giải tán đảng Cộng Sản và thành lập đảng Lao Động (thực ra đây cũng chỉ là đảng Cộng Sản trá hình), nên đã lôi kéo được rất nhiều người gia nhập vào mặt trận Việt Minh rồi từ đó gia nhập vào đảng Lao Động.

 Sau khi Cộng Sản Việt Nam đã thống nhất được 2 miền Nam Bắc, đại hội đảng lần thứ 4 vào năm 1976 đã chính thức đổi lại tên đảng Lao Động Việt Nam thành đảng Cộng Sản Việt Nam (trên thực tế thì chúng đã đổi lại từ 1956). Và sau gần 10 năm với những chính sách hộ khẩu khắt khe, quốc doanh mọi ngành nghề, kinh tế chỉ huy toàn diện, và đưa Việt Nam thành một nước nghèo nhất thế giới. Bọn Cộng Sản Hà Nội đã nhận thấy rằng chủ nghĩa Cộng Sản không còn là lý tưởng của họ và chế độ Cộng Sản không phải là chế độ mà họ mong muốn. Nhiều đảng viên đã mất lòng tin và không còn tin vào chế độ nữa. Trước tình trạng này, đảng Cộng Sản Việt Nam đã phải triệu tập đại hội đảng lần thứ 5 vào cuối tháng 3/1982, để chấn chỉnh lại hàng ngũ và hun đúc lại tinh thần của các đảng viên.

Nhưng vì vẫn đi theo đường lối cũ nên cũng không đem lại một kết qủa tích cực nào do đó đại hội đảng lần thứ 6 vào giữa tháng 12/1986 đã được triệu tập và lần này vì sống còn, chúng đã phải chấp nhậnđổi mới cơ chế quản lý kinh tế, dứt khoát xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế kế hoạch hóa theo phương hướng hạch toán kinh doanh Xã Hội Chủ Nghĩa; phát huy động lực của khoa học kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại” và :

1/ Đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước; vạch ra phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế-xã hội trong 5 năm 1986-1990.

2/ Đề ra ba chương trình kinh tế lớn là: Lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.

3/ Khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần Cách mạng và khoa học.

Tuy nhiên vì bọn lãnh đạo vẫn ngoan cố nên vẫn bị Mỹ cấm vận và kết qủa chỉ là đem lại một phần nào dễ thở cho một số đảng viên đương quyền mà thôi. Còn những kẻ thất sủng hay không có quyền lợi gì thì nghèo đói vẫn nghèo đói mạt rệp nên vẫn bất mãn. Do đó tới cuối tháng 6/1992, bọn lãnh đạo Hà Nội đã phải triệu tập Đại Hội Đảng lần thứ 7 vào cuối tháng 6/1992 tại Hà Nội để thông qua “đổi mới toàn diện”. Tuy nói là đổi mới toàn diện, nhưng thực ra cũng chỉ là nửa vời. Cuối cùng chúng đã phải xuống nước, từ bỏ hết các yêu sách để được Mỹ hủy bỏ cấm vận vào năm 1994. Và đến Đại Hội Đảng lần thứ 8 vào cuối tháng 6/1996 cũng tại Hà Nội, Đại Hội đã  xác định đường lối kinh tế là đưa nước ta trở thành nước công nghiệp, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng Xã Hội Chủ Nnghĩa. Đây là một sự chuyển biến rõ ràng từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế tư bản, một sự đầu hàng rõ ràng của chủ nghĩa Cộng Sản trước chủ nghĩa Tư Bản. 

Nhưng bọn lãnh đạo Hà Nội vẫn ngoan cố chưa chịu nhìn nhận là chủ nghĩa Cộng Sản đã lỗi thời và đang phá sản, nếu không muốn nói là đang giẫy chết. Chúng vẫn ngoan cố bấu víu vào cái xác chết của chủ nghĩa Cộng Sản bằng những chữ kinh tế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa đưa tới một cái chế độ quái thai là kinh tế thì đi theo chủ nghĩa Tư Bản, nhưng chính trị thì theo chủ nghĩa Cộng Sản. Còn đảng Cộng Sản thì trở thành một đảng Mafia chuyên bảo kê cho các bọn gian thương tham nhũng, ma cô, đĩ điếm, chuyên xuất cảng lao nô và đĩ điếm để kiếm lợi.

Với những đổi mới nửa vời trên, kết qủa là vẫn chỉ những đảng viên Cộng Sản có chức, có quyền là béo bở. Những đảng viên không chức, không quyền hay đã về hưu vẫn nghèo xơ, nghèo xác nên vẫn bất mãn và lòng tin đối với đảng cũng tiêu tan. Trước tình trạng này, bọn lãnh đạo Hà Nội đã phải triệu tập Đại Hội 9 vào tháng 4/2001 và Đại Hội 10 vào tháng 4/2006 để công nhận quyền tư hữu và chấp nhận cho cả đảng viên có quyền kinh doanh.

Nhưng đâu phải đảng viên nào cũng có tiền để kinh doanh ? Mà có tiền để kinh doanh cũng chưa chắc đã thành công nếu không có chỗ dựa, không có ô dù. Thật không có gì nực cười bằng đảng viên cũng phải hối lộ đảng viên, cán bộ cũng phải hối lộ cán bộ ! Tóm lại, số đảng viên giầu có vẫn chỉ là thiểu số, còn đa số vẫn nghèo đói, khổ sở. Do đó thành phần bất mãn càng ngày càng nhiều. Không những thế, nhiều đảng viên còn nhận chân ra được là cái chính nghĩa mà bọn lãnh đạo Hà Nội rêu rao trước kia thực ra chỉ là do sự lừa bịp của bọn lãnh đạo Hà Nội mà có . Và cái lý tưởng cao cả của bọn lãnh đạo Hà Nội đề ra trong cuộc chiến 45-75 là đánh đuổi ngoại xâm, giành độc lập cho dân tộc cũng chỉ là giả tạo.

Ngày nay, nhiều đảng viên Cộng Sản đã nhận ra bọn lãnh đạo Hà Nội chỉ là một bọn bán nước, bọn lính đánh thuê cho Cộng Sản quốc tế không hơn, không kém. Vì thế nhiều đảng viên đã từ bỏ đảng hoặc trở thành những kẻ đối lập, những người bất đồng chính kiến, điển hình là các ông Trần Xuân Bách, Nguyễn Hộ, Hoàng Hữu Nhân,  Nguyễn Trung Thành,  Lê Hồng Hà,  Nguyễn Trung Hiếu, Hoàng Minh Chính, Trần Độ,  Phạm Quế Dương,  Nguyễn Thanh Giang, Trần Anh Kim, Đào Văn Nghệ v.v…

2/ Sự chống đối của dân chúng.

Sau hai thập niên 75 và 85, bọn Cộng Sản Hà Nội đã loại trừ và cô lập được hết các thành phần chống đối chúng, chỉ còn lại một thành phần duy nhất là theo chúng hoặc khuất phục chúng dù thích hay không.

Nhưng sau 35 năm (75-09) một thế hệ mới ra đời. Thế hệ này tuy sống trong chế độ Cộng Sản, được dậy dỗ và nhồi sọ tư tưởng Mác Lê, chủ nghĩa Cộng Sản, nhưng với hệ thống thông tin điện tử toàn cầu (internet) và từ đó họ có thể truy cập e-mail (electronic mail - thư điện tử) và World Wide Web (hệ thống truy cập thông tin toàn cầu) để biết mọi chuyện đã và đang xẩy ra trên thế giới. Ngụy quyền Cộng Sản Việt nam chỉ có thể kiểm soát hay ngăn cản chứ không thể ngăn cấm, nhất là đối với những người chỉ truy cập. Ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam không thể bưng bít những tin tức. Do đó thế hệ trẻ sau này, tuy không được học hỏi nhưng cũng hiểu biết nào thế nào là dân chủ, thế nào là nhân quyền. Từ đó họ hiểu rõ chế độ Cộng Sản Việt Nam chỉ là một chế độ độc tài, không hơn, không kém, cần phải đạp đổ. Chủ nghĩa Cộng Sản chỉ là gì một chủ nghĩa không tưởng, cần phải thay thế. Và bọn lãnh đạo Cộng Sản Hà Nội chỉ là một bọn bán nước, làm tay sai cho Trung Quốc không hơn, không kém, cần phải giải thể.

Từ đó, một lớp người chống đối mới đã nổi lên, điển hình như: bác sĩ Phạm Hồng Sơn, các luật sư Nguyễn Văn Đài, Lê Chí Quang, Lê Công Định, thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung, nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, nhà văn Nguyễn Văn Chấn, nhà báo Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn Xuân Nghĩa, giáo sư Trần Khuê, Nguyễn Xuân Tụ, Vũ Hùng, Phạm Đoan Trang, các bloggers Điếu Cày Nguyễn Hoàng Hải, Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Người Buôn Gió Bùi Thanh Hiếu v.v. Những đảng mới đã xuất hiện điển hình là đảng Thăng Tiến Việt Nam của Linh Mục Nguyễn Văn Lý và nữ Luật Sư Lê Thị Công Nhân, đảng Dân Chủ (mà ông Lê Công Đinh là Tổng Thư Ký và Trần Anh Kim là phó Tổng Thư Ký), Cao Trào Nhân Bản của bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Khối 8406 v.v. cùng một số các nhà tu hành như Cố Tăng Thống Thích Huyền Quang, Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Cố Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền, các Linh Mục Nguyễn Hữu Giải, Chân Tín, Phan Văn Lợi; các Mục Sư Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Công Chính v v. 

Những người dân bất mãn vì bị cướp đất, cướp nhà, những tín đồ bị mất nơi thờ phượng, những sinh viên, học sinh thấy đất nước bị xâm lấn, chủ quyền bị xâm phạm đã dám tụ tập kéo nhau lên tận Saigon hay ra tận Hà Nội biểu tình phản đối.

Qua truyền thông, báo chí, truyền hình, internet, diễn đàn điện tử v.v. bất cứ chuyện gì xẩy ra tại Việt Nam bây giờ, không những tại các thành phố lớn, mà ngay ở tại các quận khỉ ho cò gáy, chúng ta cũng đều biết. Nào là vụ dân Thái Hà ở Hà Nội, cả chục ngàn người biểu tình đòi đất cho xứ đạo và vụ Tam Toà ở Vinh, cả trăm ngàn người biểu tình đòi đất cho nhà thờ. Nào là vụ ngụy quyền Cộng Sản dùng xã hội đen hành hung dân đi khiếu kiện ở giáo sứ Kẻ Mui (Hà Tĩnh). Nào là vụ dân Tiền Giang kéo nhau về Saigon đòi nhà đất năm 2007, vụ dân tỉnh Bình Thuận kéo nhau ra Hà Nội biểu tình chống tham nhũng vào năm 2007.

II Những biện pháp đối phó của ngụy quyền Việt Cộng.

            Đứng trước tình trạng chống đối của các đảng viên cũng như của dân chúng, dĩ nhiên bọn ngụy quyền Việt Cộng không thể nào để nó lan rộng mà phải tìm cách dập tắt bằng những biện pháp sau:

            1/ Truy tố ra toà để răn đe, hù doạ.

            Luật pháp nói chung và tòa án nói riêng dưới chế độ Cộng Sản là để bảo vệ chế độ. Do đó biện pháp đầu tiên là dùng công an để đàn áp và truy tố ra tòa. Biện pháp này không những có mục đích để trừng trị mà còn có mục đích răn đe. Việc bọn Việt Cộng đổi tội danh truy tố Trần Anh Kim, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung từ tội danh “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” theo điều 88 bộ Hình Luật Việt Cộng thành tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo điều 79 Bộ Hình Luật Việt Cộng. Hoặc chúng dựng lên những con ngáo ộp như “Thế lực thù nghịch”, “Diễn tiến hòa bình” hay “Bọn phản động” cũng không ngoài mục đích này. Nhưng biện pháp này ngày nay,  hầu như vô hiệu bởi vì những người bất đồng chính kiến, hay phổ biến những tư tưởng tự do, dân chủ nhân quyền hay biểu lộ lòng yêu nước, không phải là một tội. Hơn nữa, ngày nay, tai mắt quốc tế hầu như có mặt ở khắp nơi và bọn lãnh đạo Hà Nội đã đặt bút ký vào các bản văn quốc tế như Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, nên không thể muốn xử sao thì xử. Do đó dù có khắt khe tới đâu chúng cũng chỉ có thể gắn cho một tội danh vớ vẩn để phạt tù chứ không thể tuyên án tử hình để giết người vô tội như trước kia chúng thường làm. 

            2/ Hủ hoá để làm mất ý chí đấu tranh và dễ bề sai khiến.

            Đây là một chính sách rất tai hại và cực kỳ phản động. Nó đưa cả dân tộc vào con đường sa đoạ, không lối thoát. Nhiều người đầu óc nông cạn, thấy dân chúng được ăn chơi thà dàn đã cho rằng bây giờ Việt Nam đã thay đổi. Phòng trà ca nhạc, vũ trường, bia ôm, bia mớm, tắm hơi, tắm ôm v.v. mọc ra như nấm, nơi nào cũng có.

Ban đêm thì đĩ điếm đầy đường, ngay cả chung quanh vườn Tao Đàn ở Saigon, không phải chỉ có gái điếm mà còn có cả đĩ đực. Không phải chỉ có các ông đi mua dâm mà còn có cả các bà cũng đi tìm lạc thú. Ban ngày cờ bạc khắp nơi, ngay cả các công viên, như vườn hoa Con Cóc ở Hà Nội, thanh niên nam nữ tụ tập đánh bạc công khai. Phải chăng đó là sự thay đổi mà họ đã nhận thấy ? Họ không biết rằng đây chính là chính sách của bọn ngụy quyền Hà Nội: chính sách hủ hoá người dân để làm nhụt khí đấu tranh và dễ bề cai trị. Chính sách này, ngày xưa thực dân Pháp đã áp dụng ở Việt Nam, mục đích nhằm để dân chúng mải vui chơi mà quên đi nỗi nhục mất nước mà thôi.

Ngày nay bọn Cộng Sản Hà Nội không còn lương tri của con người. Bọn chúng đã áp dụng triệt để chính sách này, không những để hủ hoá dân chúng mà còn để hủ hoá cả các công nhân viên và cán bộ chính quỳền. Mục đích của chúng là làm cho dân chúng cũng như công nhân viên, cán bộ chỉ còn biết ăn chơi, không còn nghĩ tới tiền đồ của tổ quốc, tương lai của dân tộc, mà chỉ nghĩ làm sao có tiền, thật nhiều tiền không những để cất nhà lầu, mua xe xịn mà còn để ăn chơi.

Bởi vậy chúng ta không lấy làm lạ khi thấy có rất nhiều viên chức Việt Cộng có vợ bé, có nhân tình. Có rất nhiều giảng viên, hiệu trưởng các trường đại học ở Việt Nam mua dâm của nữ sinh viên bằng điểm thi và không thiếu gì các nữ sinh viên sẵn sàng nhận làm vợ hờ, gái bao cho các đại gia, quan chức cao cấp để có tiền nói là để ăn học nhưng thực ra cũng chỉ là để ăn diện. Còn đất có bị Tầu lấn thì cũng mặc, biển có bị Tầu chiếm thì cũng kệ.

Những tổ chức buôn người, những đường dây buôn bán gái mãi dâm dưới hình thức xuất cảng lao động, giới thiệu lấy chồng ngoại quốc (Đại Hàn, Đài Loan, Trung Quốc v.v.) mọc ra như nấm và hoạt động công khai, hợp pháp. Chính cũng vì vậy mà bọn lãnh đạo Hà Nội đã không quyết tâm bài trừ tham nhũng để công nhân viên, cán bộ mặc tình tham nhũng để chúng dễ bề sai khiến.

            Nhưng đâu phải ai cũng có tiền để hủ hoá ? Ngay cả chế độ tư bản, số người giầu vẫn ít, số người nghèo vẫn nhiều huống là chế độ Cộng Sản. Không những thế, người dân còn bị áp bức, bị cướp đất, cướp nhà. Liệu bọn Cộng Sản Hà Nội có triệt tiêu được hết những thành phần bất đồng chính kiến, những thành phần bất mãn được không ? Chính bọn Cộng Sản đã nói: “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”. Có đấu tranh thì sẽ có nổi dậy.

Vì sợ dân chúng nổi dậy, bọn lãnh đạo Hà Nội đã phải cúi đầu tuân theo mệnh lệnh của Trung Cộng. Càng lệ thuộc Trung Cộng bao nhiêu, bọn Cộng Sản Hà Nội càng mất chủ quyền bấy nhiêu. Đó là điều mà toàn dân đã thấy khi Trung Cộng tung hoành trên biển Đông ngay trong lãnh hải của Việt Nam. Chúng cấm ngư dân Việt Nam đánh cá. Chúng ngang nhiên bắt ngư dân Việt Nam và đòi tiền chuộc mà bọn lãnh đạo Hà Nội vẫn không dám có một lời phản kháng. Trong khi đó thì dân Trung Quốc được tự do nhập cảnh Việt Nam không cần passport, hộ chiếu. Chúng làm việc bất hợp pháp nhưng công khai. Chúng lấy vợ Việt Nam chẳng cần giấy tờ vì gái Việt Nam bây giờ tinh thần đã bị hủ hoá, chỉ cần tiền, tiền và tiền. Liệu còn bao lâu nữa, dân Việt Nam sẽ bị đồng hoá bởi người Tầu và nước Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh của Trung Quốc ?

Với một ngàn năm Bắc thuộc cùng với chính sách cai trị vô cùng hà khắc của rợ Hán và đã bị áp đặt chính sách Hán hóa lên dân tộc ta, tổ tiên chúng ta vẫn cố đứng lên đấu tranh giành lại được độc lập cho đất nước và chủ quyền cho dân tộc. Tổ tiên chúng ta vẫn giữ vững được văn hoá và  phong tục tập quán riêng, không để bị đồng hoá bởi người Hán. Chẳng lẽ ngày nay, chỉ vì một bọn người vong bản, đã đem một chủ nghĩa ngoại lai và không tưởng là chủ nghĩa Cộng Sản về áp dụng mà nước ta bị mất, dân tộc ta bị đồng hóa ?

Không, không bao giờ, người dân Việt Nam ngày nay đã không còn sợ hãi bọn Cộng Sản như trước. Họ đã dám kéo nhau đi biểu tình đòi nhà đói đất. Họ đã dám tụt quần trước cơ quan của ngụy quyền Cộng Sản, chửi rủa và đả đảo bọn ngụy quyền tham nhũng khiến bọn Việt Cộng phải dùng xã hội đen để đàn áp.

Người dân oan khi được đài RFI phỏng vấn đã dám gọi đảng Cộng Sản Việt Nam là đảng Cướp. Điều đó chứng tỏ rằng ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam không còn uy quyền gì đối với quần chúng. Sự xụp đổ của chế độ Cộng Sản là điều chắc chắn sẽ xẩy ra, vấn đề chỉ là thời gian. Tiếc rằng, trong số người Việt tỵ nạn Cộng sản chúng ta đã có một số người, hay nói cho rõ hơn, một số trí thức mê sảng mà một đồng môn Chu Văn An, anh Bùi Bảo Trúc đã gọi là bọn chó đẻ, chỉ vì một chút lợi danh, không những đã không góp phần vào công việc giải trừ chế độ Cộng Sản Việt Nam lại đi làm tay sai cho bọn Việt Cộng khiến bọn chúng vẫn còn sống dai dẳng cho tới ngày nay.

Thật đáng phỉ nhổ !