Tháng Chạp năm 1997 : Cái chết ở tuổi mười một
(Chương mở đầu tác phẩm hồi ký « Bắc Triều Tiên, 9 năm để thoát khỏi địa ngục » - Eunsun Kim & Sébastien Falletti)
Từ gần một tuần qua, tôi đơn độc trong căn hộ lạnh lẽo tại Eundeok, ngôi làng nhỏ nơi tôi sinh ra ở Bắc Triều Tiên. Cha mẹ tôi đã bán hết tất cả đồ đạc trong nhà, chỉ trừ một chiếc bàn thấp và một tủ ngăn vách, để mua thức ăn. Gạch lót sàn cũng đã bị bán đi, tôi ngủ ngay trên nền xi-măng, trong một túi ngủ tạm bợ làm bằng quần áo cũ.
Trên các vách tường trơ trụi, chỉ còn lại mấy khung ảnh đặt cạnh nhau - chân dung « Chủ tịch vĩnh cửu » Kim Il Sung và tướng quân Kim Jong Il. Cả hai nhìn thẳng vào tôi. Nhưng đem bán các ảnh chân dung này sẽ bị xem là báng bổ, có nguy cơ bị tử hình.
Trời tối sẫm, dù vậy tôi vẫn đọc được những gì mình viết ra. Điện đóm không có, vả lại các bóng đèn đã biến mất từ lâu. Đêm nhẹ xuống sau buổi chiều tháng Chạp. Không còn lò sưởi nữa, nhưng tôi không thấy lạnh mấy, vì đã sức tàn lực kiệt. Tôi không có gì ăn từ nhiều ngày qua, tôi sẽ chết đói. Vì vậy mà tôi cố viết lại bản di chúc của mình. Tôi mười một tuổi.
***
Tôi đã quyết định như thế trên đường trở về nhà. Đó là lần thứ ba tôi đi tìm mẹ và chị Keumsun. Cả hai đã đi Rajin-Sonbong, thành phố lớn bên cạnh làng tôi từ sáu ngày trước để tìm thức ăn, vì chúng tôi chẳng còn gì để ăn ở Eundeok cả. Lấy hết can đảm, tôi băng qua chiếc cầu bắc qua sông, rồi men theo đại lộ chính đến bến xe.
Khách bộ hành rất hiếm hoi trên hè phố, nhưng tôi nhìn chăm chăm vào khuôn mặt tất cả những người đi ngang qua, sợ lỡ không trông thấy mẹ nếu bà quay về theo hướng ngược lại. Phía bên trái, tôi nhận ra cửa hàng bán mì mà tôi ưa thích biết bao, hồi trước ba tôi thỉnh thoảng có dẫn tôi đi ăn vào dịp lễ. Đằng xa là tiệm chụp hình mà chúng tôi đã từng đến chụp những tấm ảnh kỷ niệm gia đình.
Ở bến xe, người ta để cho tôi được gia nhập vào đám đông đang chen chúc phía sau một chiếc xe tải được sử dụng làm xe đò chạy tuyến Rajin-Sonbong, cách đó một giờ xe chạy. Tôi không phải trả tiền, có lẽ vì là con nít.
Trong suốt cuộc hành trình, tôi không ngừng hồi hộp quan sát những chiếc xe hơi và xe tải đang lưu thông trên đường để tìm ra khuôn mặt mẹ. Nhưng đến trạm cuối, tôi chỉ còn trơ lại một mình, đối diện với một hàng rào lính tráng. Trước mặt tôi, là những hàng rào kẽm gai có phóng điện bảo vệ lối vào Rajin- Sonbong.
Phải có giấy phép đặc biệt mới được vào trong thành phố. Thế nên tôi đành phải rình rập ở đó cả tiếng đồng hồ, canh chừng những bóng người đi ra, với niềm hy vọng và tâm trạng khủng hoảng. Không thấy cả mẹ lẫn chị Keumsun ra khỏi khu rào chắn. Thất vọng, tôi quyết định trở về nhà vì trời đã sập tối.
Lần này thì tôi chắc chắn rằng mẹ và chị không bao giờ trở về nữa. Chắc là có chuyện gì xảy ra rồi, hoặc là cả hai đã bỏ rơi tôi. Trái tim thắt lại, đầy cay đắng, tôi thầm trách mẹ. Lúc đi mẹ bảo là mẹ sẽ mang đồ ăn về « trong hai hoặc ba ngày nữa ». Và mẹ để lại cho tôi 15 won để sống tạm qua ngày. Cả một gia tài đối với tôi !
Thoạt đầu tôi rất phấn khích vì chưa bao giờ có nhiều tiền như thế. Đôi mắt tôi sáng rỡ. Một mình, y như người lớn, tôi hãnh diện đi đến jangmadang, ngôi chợ nằm gần bên sông. Tôi mua một miếng đậu hũ, rồi quay về căn hộ bé tí chỉ có một phòng của chúng tôi ở tầng một. Tôi thưởng thức từng muỗng nhỏ cái khối trắng mềm mại ấy, chia thành nhiều suất để có thể duy trì được đến khi mẹ trở về. Ngon ơi là ngon, tôi rất thích ăn đậu hũ !
Trong suốt hai ngày tôi ở nhà, quan sát những người qua lại thông qua khung cửa sổ nhìn ra đường. Từ khi ba mất hôm 11/11, nghĩa là cách đây vài tuần, hai chị em tôi đã nghỉ học do quá bận đi đào bới rễ củ và kiếm củi trên núi để kiếm sống. Hơn nữa nếu trở lại trường thì rất xấu hổ vì chúng tôi không còn thứ quần áo nào ra hồn. Tất cả đều đã bán hết rồi, nay chị em tôi phủ lên người những miếng giẻ rách tả tơi. Ra đường tôi rất sợ gặp phải bạn học cùng lớp.
Sau bốn mươi tám tiếng đồng hồ, cái đói bắt đầu giày vò tôi, và cả nỗi sợ hãi bị bỏ rơi. Từ khi nhấm nháp hết miếng đậu hũ, tôi chẳng còn gì để cầm hơi nữa. Mẹ thì vẫn chưa về ! Tôi nằm trên sàn nhà, nhắm mắt và nhẩm đếm trong đầu : chắc chắn là mẹ sẽ xuất hiện khi tôi đếm đến mười. Nhưng chẳng có gì thay đổi cả. Tôi bèn đếm từ 10 ngược trở lại 1. Cũng không hơn gì.
Rồi tôi tập nhịn đói cho qua bữa. Trên nền balcon, tôi tìm được mấy chiếc lá củ cải đầy bụi hồi đó chúng tôi mang phơi còn sót lại. Tôi nhặt vài chiếc ít bị héo nhất đem nấu lên thành món canh. Trong hai ngày, tôi sống sót với loại canh vô vị này…
Thêm hai ngày nữa trôi qua, tôi không còn có gì để cho vào miệng nữa, thậm chí tôi chẳng còn đủ sức lực để đi ra ngoài ăn xin hay ăn cắp…Cơ thể tôi quen dần với cái đói đang hành hạ, nhưng tôi bị kiệt lực. Chỉ còn lại trong tôi một sự mệt mỏi ngày càng thêm nặng nề. Tôi cố ngủ, người yếu như sên, có cảm giác như sàn nhà sẽ nuốt chửng tôi. Thật kỳ lạ, tôi cảm thấy như đang bị hút vào tâm trái đất vậy !
Bỗng chốc tôi hiểu rằng mình sẽ chết. Lúc mẹ và chị tôi trở về, có khi là đã quá trễ. Thế là hết. Từ khi nạn đói bắt đầu, tôi đã quen với cái ý nghĩ là chắc tôi không qua khỏi, cho đến nỗi tôi không còn sợ chết nữa. Tuy vậy tôi tự nhủ, tôi không thể ra đi như thế mà không để lại dấu vết gì…Tôi bỗng nảy ra quyết định soạn thảo di chúc. Tôi muốn mẹ biết được những gì tôi đã trải qua, biết rằng tôi đã đợi mẹ, đã làm mọi cách để đi tìm mẹ. Và nhất là tôi cảm thấy mình bị bỏ rơi.
Trong ngăn kéo của chiếc bàn thấp, tôi tìm được một cuốn sổ nhỏ bằng giấy tốt và một cây bút chì, trong số những món đồ hiếm hoi còn chưa bị bán đi. Ngồi xổm trong bóng tối mờ mờ, tôi bắt đầu viết. Tôi kể lại nỗi gian truân của tôi, về ba chuyến đi tìm mẹ tận thành phố lớn, về sự tuyệt vọng. Tôi nắm chặt cây bút chì, viết đầy cả trang giấy.
(…) « Mẹ ơi, con đợi mẹ. Con chờ đợi đã sáu ngày trời rồi. Con cảm thấy con sắp chết. Tại sao mẹ không về với con ? »
Tôi khóc nức nở, nằm vật xuống trong cái bóng tối đang dần dần phủ dày lên người. Bỗng dưng tôi nghe có những tiếng động trên cầu thang, trái tim tôi đập loạn cả lên. Nhưng không, đó chỉ là những người hàng xóm trở về nhà họ…
Tôi đặt bản thảo lên một vị trí dễ thấy trên bàn. Rồi với gương mặt đẫm lệ, tôi nằm dài ra và nhắm mắt lại, tin chắc rằng mình sẽ chẳng bao giờ thức dậy nữa.
Chương 1 : Viết, như một chứng nhân
Tháng Ba 2011. Những cánh cửa tự động sập lại, đoàn tàu chuyển động, và đường ke chờ tàu lướt qua trước khi tôi bị nuốt chửng vào miệng hầm tối đen. Tôi dán người vào cửa kính, thấy lòng trống vắng. Những luồng sáng thoảng qua trên vách tối - một chiếc kính vạn hoa dạng quảng cáo, chiếu lên một câu khẩu hiệu mà tôi không đọc nổi. Tất cả đều diễn ra quá nhanh tại Seoul, ngay cả trong métro.
Tôi 25 tuổi, tên tôi là Eunsun.
Trông tôi cũng giống như các nữ sinh viên khác, và nhờ vóc dáng nhỏ nhắn, không ai nhận ra là tôi già hơn các bạn học. Chừng 40 phút nữa, tôi sẽ đến trường đại học Sogang, một trong các trường đại học nổi tiếng nhất của Hàn Quốc. Trường tôi trông không ấn tượng bằng trường Korea University hay Yonsei danh giá, nhưng tôi cảm thấy thoải mái như ở nhà mình với những dấu mốc quen thuộc, với các bạn bè tôi đã có được.
Thời khóa biểu trong ngày đã được định sẵn. Tôi sẽ ôn thi trong thư viện, với chiếc máy tính xách tay Samsung hai màu đỏ trắng, và đôi khi bấm nghịch chiếc iPhone có vỏ bao màu tím, để tìm ra các bạn bè đang ngồi ở quán cà phê Starbuck trong trường. Tôi thích uống caffe latte, vì đối với tôi thì cà phê expresso quá đắng. Rồi tôi quay lại thư viện, cố không ngủ gục trên chồng sách.
Tôi học ngành ngôn ngữ và văn minh Trung Hoa, bạn đọc sẽ hiểu lý do ở những chương sau. Tại Hàn Quốc, phải ganh đua rất dữ dội để có được điểm cao, nhưng tôi cố gắng tối đa. Rất ít bạn cùng lớp biết được rằng tôi không được đến trường trong nhiều năm trời, nên tôi phải phấn đấu để rút ngắn lại sự chậm trễ của mình.
Tôi thích học hành, nhất là vào học kỳ đầu tiên, khi các giảng viên đều mới mẻ và nhiệt tình nên học hỏi được rất nhiều thứ. Khoảng 10 giờ tối, tôi trở về căn hộ nhỏ nằm lạc loài trong trung tâm đô thị lớn, gặp lại chị Keumsum và mẹ.
***
Tác giả Eunsun Kim tại Seoul. |
Seoul là một thủ đô khổng lồ có 15 triệu dân, đầy những tòa nhà chọc trời, với những xa lộ mênh mông băng ngang. Một dòng sông lớn - sông Hàn - chảy qua giữa thành phố, với những chiếc cầu cao đến chóng mặt. Nhưng vào mùa đông khi dòng sông đóng băng, gần như có thể đi bộ qua sông mà không cần đến cầu. Phía sau nổi bật lên những dãy núi nhọn hoắt, trên một đỉnh núi sừng sững một ngọn tháp truyền hình to lớn. Tháp Nam Sơn là biểu tượng của thành phố đã cưu mang tôi.
Tất nhiên là ở đây đôi khi bị kẹt xe nhiều tiếng đồng hồ dưới cơn mưa dầm tháng Bảy, và tiền thuê nhà hết sức đắt đỏ. Nhưng cuộc sống thì thú vị biết bao, thực tiễn biết bao, và trôi đi rất nhanh. Internet tốc độ cao có mặt ở khắp nơi. Mỗi góc phố, ngày cũng như đêm, đều có nơi giải trí. Tại khu phố sinh viên Sinchon, buổi tối tôi thường đi với bạn bè uống Maekju, một loại bia nội địa, trong những quán bar không đóng cửa bao giờ. Chúng tôi thưởng thức mực khô và choukoumi, ngon kinh khủng, có thể nuốt chửng cả miếng.
Nhưng các bạn không chịu tin lời tôi là các loại hải sản ở Bắc Triều Tiên ngon hơn, tuy điều đó là sự thật. Họ không hiểu tôi, vì tôi đến từ một thế giới khác. Và cái thế giới đó, họ thậm chí còn không thể tưởng tượng ra được.
Toa tàu lao với tốc độ nhanh làm rung chuyển dưới chân. Xung quanh tôi, các ajuma có mái tóc xoăn đang đọc những truyện dài nhiều kỳ, qua điện thoại di động có ăng-ten đã được gập lại. Ở đây, người ta gọi các bà nội trợ là ajuma. Vịn tay vào các thanh kim loại, các nữ sinh viên đi những đôi giày gót nhọn lơ đãng thả hồn theo nhạc, chiếc iPod đeo bên tai. Số khác chuốt lại mascara trên mi, rút ra những chiếc gương bỏ túi. Các cô làm ngơ trước người bán rong dĩa CD đang cố bán bộ sưu tập đĩa Frank Sinatra cho ông cụ trong toa, nhờ những thùng loa gắn trên bánh xe. Các ga tàu mênh mông lần lượt diễu qua một cách máy móc.
***
Métro Hàn Quốc làm cho tôi mơ mộng. Chìm vào kỷ niệm, tôi nhớ lại những nhà ga ở Bình Nhưỡng mà tôi đã được ba dẫn đến, cách đây lâu lắm rồi. Các nhà ga này sang trọng tuyệt vời, với những chùm đèn màu tím như trong phim. Ánh đèn néon nhợt nhạt ở đây không thể sánh kịp.
Tôi nhớ mãi chuyến đi đến thủ đô Bình Nhưỡng. Hồi đó tôi lên chín tuổi, đi với ba và chị Keumsun, còn mẹ muốn ở lại coi nhà. Chuyến đi thật là tuyệt, cho dù chúng tôi chả có gì để ăn. Không thấy có nhà chọc trời ở đó, nhưng chúng tôi nhìn thấy một khách sạn đang được xây dựng mà đã cao đến 150 mét. Trên đỉnh công trình này, máy móc và con người chao động, có vẻ bé nhỏ như những con kiến !
***
Chỉ còn ba trạm nữa là đến trường, tim tôi đập nhanh với bản hợp âm của toa tàu. Tốc độ này làm cho lòng tôi dậy sóng, nó nhắc nhở rằng tôi đến từ một hành tinh khác. Ở đó, phải mất hai ngày dài vô tận trên tàu hỏa để đến được Chongjin, nơi ông bà tôi cư ngụ, chỉ cách thành phố nhỏ Eundeok của tôi có 95 cây số. Một chuyến đi vắt cạn sức lực trong thời tiết giá lạnh ; chen chúc nhau như những con vật, chúng tôi tiểu tiện vào những hộp sắt vì sợ mất chỗ.
Cùng một khoảng cách đó, tại Hàn Quốc tôi chỉ mất không đầy 20 phút, trên một chuyến tàu cao tốc tiện nghi. Ở Bắc Triều Tiên, chỉ có thủ đô mới được hưởng những tiện nghi hiện đại, như là trạm métro ở Bình Nhưỡng đã làm tôi lóa mắt.
Tôi hồi tưởng lại về tất cả những người tôi đã bỏ lại sau lưng, không có bất cứ tin tức gì kể từ ngày tôi trốn khỏi đất nước để tìm phương sống sót. Lúc đó tôi 11 tuổi, bụng trống rỗng, nhà cửa không còn. Các cô dì, chú bác, các bạn học cùng trường lớp của tôi có sống sót qua trận đói đó hay không ?
Trong toa tàu, một hành khách liếc nhìn tôi, như thể tôi là người ngoại quốc…Trong khi tôi đã làm mọi cách để trông giống như một thiếu nữ Hàn Quốc, với đôi giày cao gót, chiếc váy ngắn và áo blouson bó sát. Thực ra tôi sinh ngày 15 tháng 8 năm 1986 tại Eundeok, thành phố công nghiệp nhỏ bé thuộc tỉnh Hamgyong ở miền Bắc. Sau cuộc hành trình đầy sóng gió kéo dài 9 năm xuyên qua Trung Quốc và Mông Cổ, tôi đã thành công trong việc tìm được tự do. Tại Seoul, tôi có được hộ chiếu, không còn là một người không giấy tờ sống lén lút nữa, và bắt đầu một cuộc sống mới.
Tuy vậy, những kỷ niệm thường xuyên quay lại đè nặng lên tôi, và một câu hỏi luôn ám ảnh : Vì sao dân tộc Bắc Triều Tiên của tôi lại phải khổ đau đến như thế ?
Câu trả lời, tôi tìm được trong sách báo từ khi đến được nơi đây : đó là do một chế độ độc đoán vô nghĩa. Do sự điên cuồng của một triều đại khát máu, triều đại họ Kim, đã chà đạp trong biển máu tất cả những ai chống đối. Do một thảm họa kinh tế, hậu quả của một hệ thống cộng sản chủ nghĩa bị đẩy đến mức cùng cực. Tuy vậy các câu trả lời này không làm tôi hài lòng, không thể làm trái tim tôi dịu lại.
Nhất là, chúng làm cho tôi cảm thấy mình hoàn toàn bất lực. Dù chỉ sống cách vùng biên giới tua tủa những rào kẽm gai chia cách vùng đất quê hương tôi chưa đầy 40 km, tôi không thể làm gì để giúp đỡ các đồng bào mình, đang kiệt quệ vì nạn đói và sự trấn áp của một quyền lực nghiệt ngã. Bắc Triều Tiên đã trở thành một hố đen sâu thẳm đối với 22 triệu cư dân, bị những người trên hành tinh này, cũng như người anh em Hàn Quốc cùng dòng máu bỏ quên. Nỗi đau dâng ngập lòng tôi.
***
« Trạm Sinchon ».
Giọng nói máy móc xé toang sự im lặng trong toa tàu, kéo tôi ra khỏi dòng suy nghĩ. Tôi thất thểu bước xuống bến tàu, tìm lối ra, leo lên những bậc cầu thang như một cái máy. Tôi quyết định rằng kể từ lúc này, một khi chui lên mặt đất, tôi sẽ không còn giữ thái độ thụ động nữa. Không thể kéo dài tình trạng này !
Tôi cần phải kể lại câu chuyện của mình. Để quá khứ đáng sợ không trôi vào quên lãng, để nói lên tiếng nói của hàng triệu người Bắc Triều Tiên đang chết dần chết mòn từng ngày trong im lặng. Và để tố cáo sự khổ đau của hàng trăm ngàn người đã từng cố thoát khỏi địa ngục như tôi, nay đang trốn chui trốn nhủi ở Trung Quốc. Hai mươi hai ngàn người đã đến được vùng đất hứa Hàn Quốc. Và ở đây, chúng tôi bị xem như những công dân hạng hai, trong khi sai lầm duy nhất của chúng tôi là đã chối từ nguy cơ bị chết đói.
Vì những người anh em Bắc Triều Tiên của tôi không có quyền nói lên tiếng nói, tôi sẽ nhân danh họ mà viết. Tôi tin rằng đến một ngày nào đó, hai nước Triều Tiên sẽ được thống nhất, tuy phức tạp, nhưng rồi cũng sẽ đạt được. Để thành công trong việc hợp nhất, chúng tôi cần có sự giúp đỡ của toàn thế giới. Nhưng nếu muốn tìm ra giải pháp, thì cần phải hiểu được nguồn cội của cái ác.
Tôi đã khám phá được một số, cùng với mẹ và chị, vào cái ngày đáng nhớ mà tôi cứ ngỡ mình sẽ thở hơi cuối cùng.
« BẮC TRIỀU TIÊN, 9 NĂM ĐỂ THOÁT KHỎI ĐỊA NGỤC » - Chương 2 : Tôi từng là học sinh ngoan
Tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc mình sẽ biến mất khỏi cõi đời này nhanh chóng như thế. Vào mùa đông năm 1997 đó, tuổi thơ đã hoàn toàn lìa bỏ tôi, mà tôi không nhận ra. Trong nhiều năm trời, tôi đã là một cô bé khá hạnh phúc. Tôi không thiếu thốn gì cho đến năm lên chín.
***
Eundeok, thành phố quê hương tôi nằm ở vùng cao phía đông bắc của đất nước đầy núi non, cách dòng sông Đồ Môn chưa đầy 15 km. Dòng sông này là đường biên ngăn cách với Trung Quốc và Nga. Ở phía bên kia, chạy xe chừng một giờ là đến biển.
Vào mùa đông, trời lạnh như cắt thịt, tuyết đọng suốt nhiều tuần lễ dưới bầu trời xanh mênh mông. Đôi khi để đến trường, tôi phải vượt qua tấm khăn trải bàn trắng muốt ngập lên đến ngực ấy. Ngược lại, trời luôn nóng và ẩm vào dịp sinh nhật tôi lúc giữa mùa hè. Đó cũng là ngày kỷ niệm được giải phóng khỏi quân Nhật chiếm đóng năm 1945, một ngày lễ lớn.
Cho dù có nhiều nhà máy bao quanh, nhưng thành phố quê tôi không lớn lắm : chỉ cần một tiếng đồng hồ là đã đi được một vòng thành phố. Ở đằng xa, có thể nhận ra được vài bóng cây trên dãy núi ở xa nhất, nhưng những ngọn đồi gần đó gần như đều là đồi trọc, vì cây rừng đã bị đốn để làm củi sưởi.
Trước khi đến được những tòa nhà đầu tiên, người ta đi qua nhiều vùng mỏ đã trở nên nổi tiếng, từ khi các nhà lãnh đạo ở Bình Nhưỡng bị thất sủng được gởi đến đây để trừng phạt. Quân đội có nhiều doanh trại, cơ sở gần đó, cũng như mọi nơi trên khắp cả nước, vì chúng tôi thường xuyên lo sợ bị Mỹ và đồng minh là Hàn Quốc xâm lăng.
Những lần leo lên núi để tìm nấm, tôi nhận ra những nòng súng đại bác được ngụy trang ít nhiều, và đằng xa là trại lính mà chúng tôi cố tránh đi qua vì lính tráng ở đây vốn nhiều tai tiếng. Họ thường dùng quyền hành của mình để trộm đạo của dân nghèo. Chẳng hạn khi một toán lính đi qua mặt một người đàn ông đang hút thuốc, họ có thể đòi người này cho họ cả gói thuốc. Còn nếu từ chối thì hãy coi chừng !
Một dòng sông chảy ngang qua trung tâm thành phố Eundeok, có một chiếc cầu lớn bắc qua sông. Đôi khi tôi cũng tắm ở đó. Nhà tôi ở cách con sông chỉ có mười phút đi bộ. Những tòa chung cư lớn nhất thành phố được xây bằng xi-măng màu xám, với những balcon sơn trắng hay hồng, cao tối đa năm tầng. Ở đây quảng cáo không hề hiện diện. Những bức tường hoặc để trần, hoặc đầy những câu khẩu hiệu vinh danh lãnh tụ Kim Jong Il của chúng tôi. Tòa nhà tôi ở chỉ có ba tầng, những bức tường đều bị nứt nẻ. Những người hàng xóm bảo, chung cư này trước sau gì cũng sập.
***
Dù vậy, vào đầu thập niên 90 tôi cảm thấy khá hạnh phúc. Không có gì vui bằng gặp lại ba tôi sau giờ học. Đôi khi ba dẫn tôi đi xem phim, nếu ba có được mấy tấm vé nhờ mối quan hệ ở chỗ làm.
Ba tôi làm công nhân xưởng sản xuất vũ khí « 20 tháng Giêng » - tên này được đặt để kỷ niệm ngày Chủ tịch Kim Il Sung, người sáng lập chế độ, đến thăm. Tại Bắc Triều Tiên, đa số các cơ sở nhà nước đều mang cái tên ghi dấu ngày được một nhà lãnh tụ đến thăm viếng. Một thói quen kỳ lạ bộc lộ tệ tôn sùng cá nhân, vẫn được các lãnh đạo duy trì, nhưng sau này tôi mới hiểu được.
Mỗi lần như thế, ba hẹn tôi trước rạp xi-nê vào cuối buổi học ban chiều. Tôi đến đó một mình, như người lớn vậy. Nhưng có một tấm vé trong túi chưa đủ : khó nhất là tìm cho được một chỗ ngồi, vì người ta chen lấn nhau để vào phòng chiếu phim. Thế là ba nhấc bổng tôi lên, để tôi ngồi trên vai ông, rồi chen vào đám đông. Những giây phút đó làm tôi thích mê ! Chúng tôi xem các bộ phim phiêu lưu, có những người hùng chiến đấu với bọn Nhật đô hộ. Viền quanh màn ảnh là những hàng chữ to tướng kêu gọi : « Tất cả đoàn kết lại phía sau tướng quân Kim Jong Il ! ».
Cũng có khi ba đưa tôi đến hàng bán mì lạnh, món đặc sản của thủ đô Bình Nhưỡng. Chúng tôi mang theo một cái xô, ba tôi hãnh diện chìa ra cho bà bán hàng bốn tấm phiếu thực phẩm của nhà nước, rồi cha con tôi về nhà thưởng thức món ăn. Tôi chưa bao giờ được ăn thức gì ngon như thế ! Cho dù không đủ để ăn cho đã thèm…
Ba mẹ tôi không hề tưởng tượng được có ngày sẽ bị chết đói, vì cả hai đều xuất thân từ những gia đình « lý lịch tốt ». Có nghĩa là những người có người thân giữ các chức vụ kha khá trong quân đội, hoặc trong đảng Lao động đang điều hành đất nước. Bằng cớ là thời trẻ, ba mẹ tôi đều sống ở Bình Nhưỡng – chỉ giai cấp ưu đãi mới được cư ngụ ở thủ đô.
Ông ngoại tôi là sĩ quan quân đội, đã từng nuôi những dự định lớn lao cho con gái. Ông mơ mẹ tôi sẽ được đi học tại trường đại học Kim Il Sung danh giá, ngôi trường tốt nhất đất nước, chính Kim Jong Il cũng từng học tập tại đó. Để đảm bảo việc con gái có được điểm cao trong kỳ thi tuyển, thậm chí ông đã tranh thủ các giảng viên bằng cách tân trang lại sân chơi của trường. Khổ thay, mẹ tôi có tính cách như con trai, không thích học lên. Bà muốn trở thành tài xế ! Và hôm đi thi, bà đi trễ…Tham vọng của ông tôi đành sụp đổ.
Kể từ đó, mẹ tôi tỏ ra có cá tính hết sức mạnh mẽ, nhờ đó mà đã cứu được tôi sau này. Chính bà là người ra lệnh trong nhà. Bà không cao lớn, nhưng là một phụ nữ thông minh và kiên định. Khi bị bệnh, gương mặt bà vẫn tươi tắn, không tỏ dấu hiệu gì khác thường cả. Tôi cũng giống mẹ, khi còn nhỏ điều đó làm tôi bực bội vì mỗi lần bị ốm nhẹ, chẳng ai tin tôi cả và vẫn bắt tôi đi học. Có lẽ sức mạnh này đã giúp tôi sống sót, trong khi biết bao người khác đã ngã gục.
***
Tại Eundeok, mẹ tôi là người nuôi sống gia đình, nhờ việc làm tại bệnh viện của khu mỏ. Bà mang về những thức ăn thừa từ căng-tin, khiến chúng tôi tránh được cái đói trong suốt nhiều năm trời. Bà thường phàn nàn là ba tôi thiếu thực tế, cho rằng ông vừa ngây thơ, vừa không đủ cứng rắn. Trong tấm ảnh cưới, ba trông khá đẹp trai, nhưng tôi nhớ rằng ở ngoài thì ông gầy hơn. Một hôm, mẹ bảo ba đi hái trộm bắp trên đồng để có cái ăn. Ông trở về với hai bàn tay trắng và…không có áo khoác : ông đã để lại chiếc áo khi bị người nông dân bắt quả tang và dọa sẽ tố cáo. Mẹ tôi giận điên lên !
Tại Triều Tiên, người đàn ông phải mạnh mẽ nếu muốn được vợ tôn trọng. Cuộc hôn nhân của ba mẹ tôi do bà ngoại sắp xếp, vào cái thời mà mẹ rời Bình Nhưỡng để đến sống ở Chongjin, thành phố cảng lớn ở vùng duyên hải phương đông.
Ba tôi không có khiếu kinh doanh, nhưng nuôi dưỡng một niềm đam mê, đó là viết lách. Tại nhà máy, ông luôn xung phong viết báo cáo, kẻ khẩu hiệu hay viết những bài tuyên truyền. Vượt lên tất cả những thứ đó, ba tôi còn là một người có tấm lòng cực tốt, và với một bé gái như tôi, thế là quá đủ.
Tôi cũng có thể trông cậy vào chị Keumsun của tôi, nhờ chị bảo vệ trong trường hợp gặp khó khăn. Nếu bọn con trai chọc phá tôi, chị liền truy đuổi và không ngần ngại lao vào đánh nhau. Chị Keumsum và tôi không giống nhau, nhưng cũng có lần người ta tưởng chúng tôi là hai chị em sinh đôi. Chị lớn hơn tôi hai tuổi nhưng lại nhỏ con hơn, nước da sẫm màu, mắt to, khác hẳn với tôi. Ngược lại chúng tôi có cái mũi giống nhau, và một tình thân gia đình khó tả. Nhất là chị hết sức cá tính ! Chị rất tự tin, biết cách lý luận và thuyết phục người khác là mình có lý. Tại Eundeok, bạn hữu của cha mẹ tôi gọi chị là « cô bé người lớn », vì cái vẻ nghiêm nghị của chị.
***
Tôi thích đi học, và là học sinh ngoan. Sáng nào cũng vậy, trời hãy còn tối khi mẹ đánh thức chúng tôi dậy. Tôi rửa mặt bằng nước lạnh, thường là lạnh buốt vào mùa đông. Rồi trong khi mẹ chuẩn bị bữa sáng, tôi ủi cẩn thận bộ đồng phục học sinh. Chiếc váy màu xanh đậm, chiếc áo trắng, và thêm một chiếc khăn quàng đỏ xinh xắn của Đội Thiếu niên. Tôi còn nhỏ, chưa được quyền mang chiếc huy hiệu có hình Kim Il Sung mà tất cả người Bắc Triều Tiên đều đeo thường xuyên trên ngực áo, từ khi được kết nạp Đoàn ở tuổi thanh niên.
Trong ánh sáng chập choạng của buổi bình minh, tôi đến với các bạn học tại quảng trường lớn ở trung tâm thành phố. Đúng bảy giờ, chúng tôi khởi hành đi đến trường, xếp hàng theo từng lớp, nhịp nhàng vừa đi vừa hát các bài ca ngợi lãnh đạo.« Cho dù còn bé, nhưng tinh thần chúng tôi rất cao ! Chúng tôi luôn sẵn sàng phục vụ tướng quân Kim Jong Il ! ». Một trong các bài hát ưa thích của tôi là bài Vạn dặm để học tập. Bài này kể lại chuyến đi qua các làng mạc và núi non Trung Quốc của chàng thanh niên Kim Il Sung, khi chiến đấu chống lại người Nhật.
Sau mười phút đi rập ràng theo kiểu quân nhân, chúng tôi đứng khựng lại muôn người như một trước ngôi trường, để các giáo viên kiểm tra lại đồng phục. Cuối cùng chúng tôi có thể vào lớp.
Buổi học luôn bắt đầu bằng việc đọc nhẩm, thường là một trang sách về thời tuổi trẻ của Kim Jong Il, mà chúng tôi phải noi gương. Hay là các giai thoại như câu chuyện về bà mẹ ông là Kim Jong Suk, thu nhặt các hạt ngũ cốc dưới đất, trước cái nhìn tò mò của con trai.
- Vì sao mẹ làm như thế, mẹ có thiếu thốn gì đâu ?
- Vì không thể lơ là trước một nguồn tài nguyên nào, con ạ.
Tôi vẫn không hiểu được ý nghĩa đằng sau giai thoại, nhưng tôi cố khắc ghi vào trí nhớ, theo yêu cầu của cô giáo.
Thường thì tôi kín đáo nhìn một vòng quanh lớp. Chúng tôi có bốn chục đứa, ngồi sau những chiếc bàn kê dọc trên sàn. Trước mặt tôi, trên bục là chiếc bàn gỗ to của cô giáo, một tấm bảng đen, và phía trên, Kim Jong Il trong bức ảnh chăm chú quan sát chúng tôi. Ở cuối lớp là một chiếc lò sưởi mà vào mùa đông chúng tôi có thể hâm nóng các gà-mên thức ăn cho bữa trưa.
Rồi cô giáo bước vào lớp. Cô chỉ định một học trò để cao giọng đọc trang sách trước mặt. Môn học về cuộc đời các lãnh tụ một trong những môn quan trọng nhất, cùng với môn toán, ngôn ngữ Triều Tiên và đạo đức cộng sản.
Trong giờ học cần phải giữ im lặng, nghịch ngợm một chút là có thể dẫn đến việc bị sỉ nhục trên lớp : trước mắt tất cả mọi người, cô giáo đánh chúng tôi với chiếc gậy to vẫn được dùng để chỉ lên bảng. Hồi đó tôi vẫn nghĩ bạn nào hư thì bị phạt đòn là bình thường. Phải nói thêm rằng, tôi luôn tránh được hình phạt này, nhờ tôi là học trò ngoan.
Tuy vậy, tôi không thể tránh được các buổi tự kiểm hàng ngày được áp đặt mỗi người dân trên đất nước này, tại nhà máy cũng như trường học. Lần lượt vào cuối ngày, chúng tôi phải thú nhận các sai trái của mình trước cả lớp. Tôi nhớ lại có một hôm, khi vất vả làm việc trong vườn rau của cô giáo, tôi đã bực tức thốt lên :
- Hái bắp để làm cái gì chứ, trong khi mình chẳng được ăn !
- Thái độ cá nhân chủ nghĩa này là không thể chấp nhận được, trong xã hội Bắc Triều Tiên xã hội chủ nghĩa !
Cô giáo cho gọi tôi đến, gay gắt mắng tôi như thế, sau khi một bạn học tố cáo.
Hôm sau tôi phải tự kiểm một cách thảm hại trước cả lớp, trước khi chuyển qua phản công bằng cách tố lại thái độ không tốt của đứa bạn đã bán đứng tôi. Thành thật mà nói, tôi đã trả thù với một sự thích thú có phần độc ác, vì tôi ganh tị với cô bạn này. Ba của con bé ấy làm việc trong cùng nhà máy với ba tôi, nhưng nhận được tiêu chuẩn thực phẩm cao hơn rất nhiều, do cấp bậc cao hơn.
***
Ở trường, cần phải tôn trọng tôn ti trật tự. Vào đầu năm chúng tôi « bầu » ra một lớp trưởng, và những người phụ trách cho mỗi phận sự quan trọng. Về mặt chính thức, thì đó là các cuộc bầu cử tự do, nhưng chỉ có một ứng cử viên ! Ngày nay tôi nhận ra trò giả dối đó cũng là hình ảnh của chế độ độc tài vẫn luôn ngự trị trên đất nước tôi.
Mọi việc diễn ra như thế này : một ngày trước cuộc bầu cử, cô giáo bí mật gọi tôi đến, có lẽ vì tôi là học sinh ngoan. Hôm sau vào ngày bầu bán, cô hỏi cả lớp :
- Các em có đề cử ra ứng cử viên nào không ?
Im lặng. Tôi bèn rụt rè giơ tay lên nói : « Kim Song Ku », theo như lệnh của cô giáo đã rỉ tai tôi hôm trước.
- Ai đồng ý ? - Cô hỏi.
Không chút ngần ngại, cả lớp liền thông qua, và như vậy anh bạn Kim Song Ku đã được bầu lên. Thực tế thì ba của cậu này là thợ mộc, và chúng tôi nghi rằng ông ấy đã cung cấp cho cô giáo những đôi đũa gỗ.
Tại Bắc Triều Tiên, không có phương cách nào để bảo đảm cho sự thành công của con em tốt hơn là việc tặng quà cho thầy cô giáo. Lại thêm vài điều nữa mà ba mẹ tôi, vốn không bao giờ đi họp phụ huynh, đã không chịu hiểu cho.
Tuy vậy có một lần việc bầu cử đã gây ngạc nhiên cho tôi. Cô giáo yêu cầu học sinh bầu ra một người phụ trách việc quét dọn lớp hàng ngày sau mỗi buổi học. Một phận sự không lấy gì làm thú vị, nhưng mang lại cho ta ít nhiều uy tín trong trường. Một nam sinh đứng dậy và đề nghị tên tôi. Tôi cảm thấy mặt mũi đỏ bừng lên.
Hồi đó tôi rất nhát tiếp xúc với bạn trai, và không nói chuyện với đám con trai bao giờ. Thành ra tôi chưa bao giờ để ý đến cậu bạn ấy, nhưng kể từ hôm đó tôi bắt đầu âm thầm ngưỡng mộ cậu. Phù hiệu của bạn ấy mang hai vạch và ba ngôi sao, nghĩa là thuộc cấp bậc rất cao. Tôi thì chỉ có hai ngôi sao mà thôi.
Các biểu tượng này quy định thứ bậc trong lớp, người cao nhất là ba sao và ba vạch. Cô giáo chọn ra để thưởng cho các học sinh ưu tú - đó là các học sinh ngoan ngoãn nhất, hoặc là thường tự nguyện làm các công việc nặng nhọc. Cô cũng hay dùng để thưởng công cho các học trò nào mà cha mẹ tỏ ra hào phóng với cô hay với nhà trường. Chẳng hạn, khi một cửa kính bị vỡ, các phụ huynh đề nghị được trả tiền sửa chữa. Và thế là cậu con được « thăng cấp ». Tại Bắc Triều Tiên là như thế. Nhưng rủi thay cho chị Keumsun và tôi, ba mẹ tôi chưa bao giờ hiểu được cái cung cách này.
Lúc đó tôi tự hỏi, không biết cậu bạn kia đề nghị tôi vì đánh giá tốt về tôi, hay đơn giản là vì cô giáo đã ra lệnh cho cậu. Đến nay điều đó vẫn là một bí mật. Tôi không biết cậu bạn bây giờ ra sao, và có lẽ tôi sẽ không bao giờ biết được…
« BTT, 9 năm để thoát khỏi địa ngục » – Chương 3 : Ở vương quốc họ Kim
Tôi nhớ mãi buổi chiều tháng Bảy năm 1994 ấy…
Tôi lên tám, hôm ấy trời mưa như trút nước. Hồi đó chúng tôi cư ngụ trong một căn nhà nhỏ. Những giọt nước rơi rào rào trên mái nhà, mạnh cho đến nỗi từng giọt lớn nhễu liên tục xuống trần. Cùng với ba, tôi chạy từ đầu này tới đầu kia căn phòng để lấy xô hứng nước, tránh cho nhà khỏi bị ngập.
Bỗng dưng một tiếng động khô khan vang lên trước cửa. Một người đàn ông hiện ra trước cổng, quần áo sũng nước. Ngạc nhiên thay, đó là ông tổ trưởng dân phố, ở đây người ta gọi là iminban. Một nhân vật cần phải dè chừng, vì ông ta dòm ngó và báo cáo với chính quyền tất cả những gì xảy ra trong khu phố chúng tôi.
Toàn bộ đất nước được những con người đáng ngờ loại này giám sát, và nay họ vẫn đang đảm bảo sự kiểm soát của chế độ trên 22 triệu người dân Bắc Triều Tiên.
- Tối nay, nhớ coi tin tức trên ti-vi. Có một tin quan trọng sẽ được loan báo ! - ông ta vội vã ra lệnh.
Rồi không chờ đợi câu trả lời, ông biến mất dưới làn mưa tầm tã. Đây là lần đầu tiên chúng tôi nhận được một mệnh lệnh như thế.
***
Đúng giờ, tôi ngồi trước ti-vi, bên cạnh chị Keumsun và ba. Chúng tôi rất hồi hộp vì tò mò, nhưng cũng hơi phấn khích. Có một điều gì đó rất đặc biệt đã xảy ra.
Như thường lệ, trước phông nền cảnh Bình Nhưỡng và dòng sông Taedong, nữ phát thanh viên truyền hình xuất hiện trong chiếc váy truyền thống. Nhưng tối hôm đó, cô trình ra một gương mặt thẫn thờ, gần như sắp khóc. Cô đột ngột thông báo :
- Chủ tịch Kim Il Sung đã từ trần.
Ba tôi sững sờ bất động. Bầu trời như vừa sụp đổ. Chị tôi và tôi lo lắng nhìn ông. Tất cả chúng tôi đều bị thôi miên trước những hình ảnh liên tục được chiếu. Tôi không hiểu cả, nhưng biết rằng có việc gì đó không thể tưởng tượng được vừa xảy đến.
Rồi mẹ tôi đi làm về, bà cũng khóc. Tôi chưa bao giờ thấy mẹ trong tình trạng như thế cả. Tại bệnh viện, bà được biết tin cùng với các đồng nghiệp, và một người quá xúc động đã lên cơn đau tim. Ngày hôm đó có nhiều người đã chết vì bị sốc trên khắp cả nước.
Mẹ tôi suy sụp vì bà thành thật yêu mến Chủ tịch. Hồi còn nhỏ ở Bình Nhưỡng, mẹ đi học ở gần Mangyongdae, nơi Chủ tịch sinh ra. Đó là một trang trại với những bức tường bằng đất trộn rơm bao quanh, đã trở thành một địa điểm hành hương của quốc gia. Tôi cũng có lần được đến đó, nhưng lúc ấy tôi còn bé lắm.
Mẹ kể rằng có một lần Kim Il Sung bằng xương bằng thịt đã đến thăm trường. Bà đã có dịp đến gần, đứng cách ông chỉ có một mét ! Theo bà tả lại thì Chủ tịch rất cao, có nụ cười tươi. Trên những bức chân dung ngự trị khắp nơi, kể cả ở lối vào nhà ga Eundok, thì ông có vẻ là người tốt và nhiệt thành.
Ông gần như là Thượng đế đối với chúng tôi, và ý nghĩ là ông đã chết có vẻ khó tưởng tượng được. Người ta có thể sống mà không cần Thượng đế hay không ? Không cần có cha hay không ? Đó là người đã giải phóng nhân dân khỏi ách quân Nhật, là nhà lập quốc, người cha của dân tộc.
Cảnh khóc than tập thể khi Kim Jong Il qua đời. |
Khi cái chết của ông được loan báo, cuộc sống đã ngưng đọng lại trên cả nước cho đến khi tang lễ vĩ đại diễn ra vài ngày sau đó, được truyền hình trực tiếp. Khắp nước Bắc Triều Tiên diễn ra những cảnh khóc lóc tập thể : những người lính lăn ra đất mà khóc, các phụ nữ gào lên đau đớn. Và mưa không ngừng rơi. Trên truyền hình, người dẫn chương trình giải thích « ngay cả đất trời cũng khóc cho sự ra đi của lãnh tụ vĩ đại ».
***
Ngày nay đang ở trung tâm Seoul, câu nói đó vẫn còn vang vọng trong tai tôi. Nó tiêu biểu cho quá trình tẩy não mà chúng tôi phải chịu đựng, và hiện vẫn tiếp diễn tại Bắc Triều Tiên. Hồi đó, đứa bé gái là tôi thực sự tin là ông trời đã khóc vì tuyệt vọng, vào cái ngày 8 tháng 7 năm 1994 ấy.
Nay thì tôi biết rằng, chỉ đơn giản lúc đó là mùa mưa, và vào mùa này tại Bắc Triều Tiên mưa rất nhiều. Nhưng do bị đầu độc, tôi tin tất cả những gì được kể ở trường, ở nhà, với lại cũng không có bất cứ phương tiện nào để nghe được một cách diễn đạt khác. Ngay cả người lớn cũng không có khả năng so sánh.
Cuộc sống lưu vong từ đó đến nay đã cho phép tôi dần dần thoát được ra khỏi các luận điệu tuyên truyền và nhìn thẳng vào thực tế : đất nước tôi đang nằm trong tay một chế độ độc tài khát máu. Các lãnh tụ họ Kim không phải là những người cha bảo vệ con dân, mà rõ ràng là các bạo chúa. Tuy vậy cho đến ngày nay, đại đa số đồng bào tôi không hề có cách nào để mở mắt. Dân tộc tôi hoàn toàn bị cô lập, phải sống trong một thế giới khép kín.
Không nên trách họ tại sao lại không nổi dậy, vì họ không có phương tiện nào để mài dũa tinh thần phê phán, không ý thức được tầm vóc sự bất hạnh của mình. Họ không thể đánh giá được thực tế phũ phàng của chế độ độc tài. Internet không hề hiện diện, ngoại trừ đối với các lãnh đạo cao cấp của đảng. Việc nối mạng truyền hình quốc gia, gọi điện thoại và trao đổi thư tín với nước ngoài đều bị cấm đoán, những ai vi phạm có thể bị bắt đi lao động cải tạo.
Tuy vậy ngày càng có những mẩu tin thoát ra được qua ngõ biên giới Trung Quốc nhờ những người buôn bán và chạy áp-phe, nhưng ảnh hưởng của chúng không đến được với các tỉnh nằm sâu bên trong. Tại biên giới chia cách với miền Nam, vùng đất được quân sự hóa nhất thế giới, các tháp canh và bãi mìn tạo nên một thành lũy không thể vượt qua nổi.
Không có thông điệp nào đến được với Bắc Triều Tiên, ngoại trừ một số truyền đơn tố cáo các tội ác của các lãnh đạo họ Kim, được thả bay qua các hàng rào kẽm gai. Những gia đình bị chia cắt từ khi chiến tranh chấm dứt năm 1953, vẫn không có được một tin tức nào từ người thân của họ đang sống ở phía bên kia « DMZ », tức vùng phi quân sự. Người ta vẫn gọi vùng biên giới tua tủa rào kẽm gai hiện cắt làm đôi bán đảo Triều Tiên như thế. Sự quên lãng đang ngự trị giữa hai xã hội Nam Bắc.
***
Cũng như mọi người, hôm sau khi Kim Il Sung qua đời, tôi cũng bị khủng hoảng. Từ sáng sớm, mẹ đã bắt chị Keumsun và tôi lên núi hái hoa viếng ông - một nhiệm vụ nặng nhọc mà tất cả bọn trẻ con chúng tôi đều phải làm mỗi khi đến dịp sinh nhật lãnh tụ. Và hãy coi chừng nếu như trở về tay không, hay tệ hơn nữa, là với những đóa hoa màu vàng. Chúng tôi sẽ bị mọi người cười nhạo, bị thầy cô giáo trừng phạt. Đó là vì màu vàng được xem là màu tượng trưng cho kẻ thù Mỹ. Chúng tôi đều nghĩ là tất cả những người Mỹ đều tóc vàng !
Buổi tối ngày 9 tháng 7 năm 1994 ấy, không có một bông hoa nào còn sót lại trên cây, do cuộc càn quét của bọn trẻ chúng tôi.
Sau khi hái hoa, tôi trở về tham dự buổi lễ tưởng niệm ở trung tâm thành phố. Giữa đám đông đang gào khóc, đến lượt tôi cũng bật khóc. Tôi không biết chính xác vì sao mình lại khóc, nhưng cảm thấy cần phải làm như thế. Tôi bị kích động bởi không khí chung quanh.
Tôi còn nhớ là có một cô bạn bên cạnh không khóc nổi. « Nó làm bộ khóc » - tôi nghĩ như thế khi nhìn thấy giọt nước bé tí nơi khóe mắt cô. Nhưng cô bạn không có chọn lựa nào khác, cô có nguy cơ bị đánh giá không tốt nếu cặp mắt cứ ráo hoảnh.
Tuy vậy nỗi đau buồn của chúng tôi là thành thật, chúng tôi thành tâm yêu mến Kim Il Sung, cũng như con trai và là người kế vị ông, Kim Jong Il. Họ là những ông già Noel của chúng tôi ! Ngày 15/4 và 16/2, sinh nhật của hai vị lãnh tụ, là ngày tuyệt vời đối với trẻ em. Chúng tôi nhận được một kí-lô bánh kẹo của lãnh tụ tặng cho.
Trước đó một hôm, tôi cứ lăng xăng như khỉ, hồi hộp không ngủ được. Đến sáng, với bộ đồng phục tinh tươm, tôi hãnh diện đi nhận món quà : một túi lớn bằng nhựa trong mang hàng chữ « Chúng tôi không mong muốn gì hơn trên thế giới này ». Tôi cho rằng đây là cách để cho người dân hiểu rằng không có ai hạnh phúc hơn chúng tôi…
Bên trong chiếc túi có nào kẹo chewingum, kẹo caramel, bánh bột đậu nành rắc đường, bách bích-quy…Cả một giấc mơ ! Trên đường về, tôi ôm chặt gia tài này vào lòng, che phủ bằng một mảnh vải mà mẹ tôi đã cẩn thận đưa cho để tránh những cặp mắt thèm muốn.
Ngay cả sau khi đến Hàn Quốc, phải mất một thời gian sau tôi mới nhìn ra được sự thật. Tôi không muốn tin Kim Jong Il là một nhà độc tài nghiệt ngã. Tại Seoul, tôi đọc được cuốn sách do đầu bếp người Nhật của ông viết – người đầu bếp này đã trốn về Tokyo để tránh móng vuốt của Kim Jong Il sau nhiều năm dài làm món sushi phục vụ cho ông Kim.
Kenji Fujimoto đã kể lại chi tiết sự tàn bạo và những bê tha phóng đãng của lãnh tụ. Điều này quá xa vời so với hình ảnh vị thần hộ mệnh mà chúng tôi được dạy dỗ trong nhà trường, nên ban đầu tôi từ chối không muốn tin vào những gì đã đọc.
Mỗi buổi sáng lên lớp chúng tôi đều được học một giai thoại về cuộc đời gương mẫu của Kim Jong Il. Người ta dạy chúng tôi là vào ngày ông ra đời, một ngôi sao đã xuất hiện trên đỉnh núi Paekdu, ngọn núi lửa khổng lồ nơi quốc gia Triều Tiên đã được tạo lập cách đây nhiều ngàn năm. Câu chuyện cứ như một chuyện thần tiên.
Người ta cũng ca ngợi công trạng của Kim Il Sung, lãnh tụ giải phóng dân tộc. Hồi còn nhỏ, lúc đi Bình Nhưỡng, ba tôi đã chỉ cho xem một gốc cây hùng vĩ, trong một công viên nằm dọc theo dòng sông Taedong, nơi mà cậu bé Kim Il Sung hồi trước đã leo lên để cố chạm đến một chiếc cầu vồng. Chính ở đó mà ông nảy ra ý tưởng phát động cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
***
Ngày nay, tất cả những dối trá này đã bốc hơi, và tôi hãi hùng nhìn thẳng vào thực tế. Ở đây, tôi được biết về các trại cải tạo khủng khiếp ở đất nước quê hương tôi, nơi có ít nhất 150 ngàn tù nhân đang chết dần chết mòn, vào lúc mà bạn đang đọc những dòng này. Hồi còn ở Bắc Triều Tiên, tôi không biết đến sự hiện diện của các trại cải tạo ấy, chỉ biết đơn giản là có những người đột ngột biến mất.
Tại Seoul, khi nghe lời kể của những người cũng chạy trốn sang đây, tôi hiểu rằng đất nước tôi thực ra chỉ là một nhà tù rộng lớn. Trong đó, những người tù không hề ý thức được về tầm vóc nỗi bất hạnh của mình, vì trước hết họ phải chiến đấu để có thể sống sót.
Tất cả những câu hỏi này lại hiện về trong đầu tôi vào tháng 11/2010, khi Bắc Triều Tiên đột ngột bắn pháo vào một hòn đảo Hàn Quốc ở Hoàng Hải. Bốn người đã thiệt mạng vì đạn súng cối, chỉ cách Seoul có bảy mươi cây số. Chị tôi và tôi cứ ngỡ chiến tranh đã xảy ra. Keumsun nói với tôi :
- Họ đã điên cả rồi !
Tôi thì tôi không nghĩ là sẽ có một cuộc chiến tranh toàn lực. Tôi tin chắc rằng chế độ sẽ không bao giờ từ bỏ quyền lực, từ bỏ các loại vũ khí nguyên tử đang được bí mật chế tạo. Và tôi tự hỏi, liệu có một ngày nào đó mình sẽ được trở về đất nước Bắc Triều Tiên đã được giải phóng khỏi các bạo chúa, khỏi sự bần cùng và nạn đói…
Chương 4 : « Chúng ta sẽ chết hết »
Một thiếu niên làm việc trên cánh đồng hợp tác. Ảnh chụp ngày 30/09/2011 dưới sự kiểm soát của chính quyền BTT. |
Bắc Triều Tiên, 9 năm để thoát khỏi địa ngục
Chương 4 : « Chúng ta sẽ chết hết »
Người tôi mỏng như một cành lá, nhưng tôi có cảm giác mình nặng cả tấn. Tôi sụp xuống trong tình trạng vô thức trên nền nhà lạnh buốt. Bóng tối giá băng của căn hộ nuốt chửng lấy tôi một cách nghiệt ngã. Tâm trí nhẹ như bông của tôi không còn sức chiến đấu, và trái tim tôi đã mất đi lòng can đảm.
Mẹ đã đi rồi. Thế là hết, tôi thậm chí còn không rung động khi nghe tiếng bước chân trên cầu thang. Buổi tối tháng Chạp năm 1997 ấy, tôi sẽ lìa bỏ cõi đời ở tuổi mười một…
Bỗng nhiên một tiếng động khô khốc xé lấy màng tai tôi. Một giấc mơ chăng ? Hay là một cơn ác mộng ? Tôi mở hé một bên mắt một cách máy móc. Một dáng người tiến thẳng về phía tôi, cái bóng lớn dần lên. Sợ hãi, tôi ló ra khỏi chỗ tranh tối tranh sáng. Và tôi chợt nhận ra những nét quen thuộc. Đó là mẹ tôi ! Và chị Keumsum, ở ngay phía sau bà.
Một đợt adrénaline bỗng trả lại cho tôi nghị lực, cơn khủng hoảng biến ngay. Một niềm vui sướng mênh mông ! Tôi chưa bao giờ vui mừng như thế.
Cách đó chỉ vài tiếng đồng hồ, tôi đã viết bản di chúc của mình. Thế mà hai người thân yêu đây rồi ! Một phép lạ…Tôi bỗng thấy xấu hổ vì đã thốt ra tiếng kêu tuyệt vọng lúc mẹ và chị đang trên đường về - thật không can đảm chút nào. Với lại tôi đã viết ra những lời khá căng về mẹ. Bà phát hiện ra bản di chúc trên chiếc bàn thấp. Tôi nín thở. Mẹ đọc tờ giấy và trở nên câm lặng. Khuôn mặt bà không biểu lộ một xúc cảm nào, tôi không bao giờ biết được lúc đó bà nghĩ gì. Niềm vui nhòa nhạt đi.
…Và biến hẳn, khi tôi nhận ra rằng mẹ và chị trở về tay không, trái với bao mong đợi của tôi. Chuyến đi Rajin-Sonbong đã thất bại. Hai người không mang về chút gì để tôi bỏ vào miệng, mà tôi thì vô cùng đói ! Tôi chưa được ăn gì sau món canh vô vị cách đây hai ngày. Thất vọng khủng khiếp, nhưng tôi không dám biểu lộ ra.
Mẹ có vẻ vừa kiệt sức vừa lúng túng sau chuyến đi dài vô ích ấy. Và việc đọc bản di chúc của tôi không giúp thêm được gì. Vì không có gì ăn, bà rót một ly nước lã để uống. Cái nhìn của bà lướt quanh căn phòng tối tăm và trống rỗng. Mẹ thốt lên bằng một giọng mệt mỏi :
- Giờ thì mẹ con mình chỉ còn việc chết đi ở nơi đây. Tất cả chúng ta sẽ chết hết…
Trong im lặng, mẹ buông mình xuống chiếc mền vá víu nhiều chỗ, dọc theo vách ngăn gian bếp, dưới khung cửa trổ. Đây là chỗ ít lạnh nhất trong căn hộ. Chị tôi và tôi thu mình lại, dựa vào mẹ. Bóng tối bao trùm lên ba mẹ con. Tôi chìm vào giấc ngủ, nơi trú ẩn cuối cùng của chúng tôi. Chúng tôi đói khát, vô vọng, nhưng ít nhất tôi không đơn độc.
***
Buổi sáng, những tiếng động đường phố vọng đến, nhưng chúng tôi không ai động đậy. Mẹ vẫn nằm trên nền nhà suốt nhiều tiếng đồng hồ, như một giấc ngủ miên viễn. Áp lực đè nặng trên vai bà đã trở nên không thể chịu đựng nổi. Mẹ biết rằng bà là thành lũy cuối cùng chống lại một căn bệnh truyền nhiễm đã hoành hành trên đất nước từ ba năm qua và ngày càng thêm trầm trọng : đó là nạn đói.
Từ năm 1995, những người trong gia đình chúng tôi đã ngã rạp như ruồi, người này theo chân người kia, và chúng tôi sẽ là những người kế tiếp trong danh sách. Trong hai năm qua, bà ngoại tôi đã mất đi, rồi đến ông ngoại. Cách đây một tháng, đến lượt ba tôi qua đời do kiệt sức vì đói khát. Dưới đôi mí mắt nhắm nghiền, hẳn là mẹ tôi lại thấy diễu qua cuộn phim đau thương – cha mẹ rồi đến chồng chết đói – một cuộn phim chưa có hồi kết.
Tôi không được ăn mì từ một năm qua. Cho đến tận năm 1994, tôi vẫn chưa hề bị thiếu ăn vì như đã nói, mẹ tôi mang về nhà những thức ăn thừa từ căng-tin bệnh viện. Nhờ bà mà chúng tôi được thường xuyên ăn cơm với món kimchi – đặc sản của Triều Tiên làm bằng cải thảo muối cay. Cái món dưa muối màu đỏ, cay nồng và ngon làm sao ! Một khi đã quen, thì cứ muốn thưởng thức mãi.
Nhưng từ khi lên chín tuổi, chúng tôi không còn có được cơm ăn mỗi ngày : tại bệnh viện, thức ăn ngày càng thiếu thốn. Thay vì cơm, mẹ cho chúng tôi ăn món bột bắp nấu chín, mà tôi không thích chút nào. Tôi rên rỉ :
- Con không muốn ăn đâu !
Tuy vậy tôi biết rằng chẳng có thức gì khác.
Kể từ thời điểm này, các cửa hàng quốc doanh ở cạnh nhà gần như trở thành vô dụng. Đó là một cửa hàng nhỏ bằng xi-măng, có hai cửa sổ với chấn song sắt, trông giống nhà tù hơn là cửa hàng. Toàn bộ nguồn thực phẩm cung cấp cho thành phố đều phải chính thức chuyển qua các gian hàng tối tăm này, vì tại Bắc Triều Tiên tất cả đều thuộc sở hữu Nhà nước - theo như giáo điều của chủ nghĩa xã hội. Ở đó có thể tìm thấy từ đồng phục học sinh cho đến dầu ăn hay gạo - trên nguyên tắc
Từ hai năm qua, cửa hàng quốc doanh hầu như luôn đóng cửa vì không được tiếp tế. Dần dà, tiêu chuẩn phân phối cho các nhà máy trở nên không thường xuyên, rồi đứt hẳn. Và mỗi người tự xoay sở ở « chợ đen », mua bán những gì có thể tạijangmadang – chợ dân sinh được Nhà nước mặc nhiên cho phép tồn tại, hay ngay trên các đường phố. Trên bậc thềm những ngôi nhà, người ta chưng ra một vài món hàng, và mỗi khi bán được lại dùng để mua thực phẩm mà giá cả luôn tăng vọt.
***
Từ khi trốn được khỏi Bắc Triều Tiên, tôi mới biết rằng chúng tôi là nạn nhân của nạn đói khủng khiếp đã tàn phá đất nước vào giữa thập niên 90. Cho đến ngày nay, vẫn chưa có chuyên gia nào biết chính xác có bao nhiêu người đã bị chết đói, trong tấn bi kịch mà chính quyền luôn chối bỏ : ít nhất là 500.000 người, hay có lẽ hơn một triệu, theo một số tổ chức phi chính phủ. Tại Seoul, tôi phát hiện rằng tỉnh Hamgyong của tôi ở miền bắc, là nơi bị nạn đói hoành hành nhiều nhất.
Nguyên nhân của trận đói thì có nhiều và phức tạp. Trước hết, sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991 đã làm đảo lộn một nền kinh tế vốn lệ thuộc vào ông anh cả cộng sản. Các nhà máy lần lượt đóng cửa vì không còn nguồn điện, phân bón biến mất khỏi các cánh đồng, tiêu chuẩn thực phẩm co rút lại như miếng da lừa. Rồi kể từ năm 1994, những trận lụt khủng khiếp đã là phát súng ân huệ cho nền nông nghiệp èo uột của tỉnh chúng tôi.
Số lương thực tồn trữ hiếm hoi được dành cho các quân nhân và giai cấp ăn trên ngồi trước, trong khi dân chúng chết dần chết mòn vì đói khát. Trước hết là trẻ con, rồi đến người già và phụ nữ. Chất lượng thực phẩm phân phối từ khi tôi mới sinh ra cho đến giữa thập niên 80 ngày càng tệ hại, nhưng kể từ năm 1994, số lượng bị giảm mạnh, và những chuyến giao hàng thường xuyên bị hủy. Về mặt chính thức, những người có trách nhiệm của cửa hàng nói là hàng chỉ bị giao trễ mà thôi. Tuy nhiên đôi khi chúng tôi không nhận được gì trong suốt sáu tháng trời.
***
Năm 1995, bà ngoại tôi là người đầu tiên ngã xuống tại Chongjin. Rồi năm sau đó, đến lượt ông ngoại tôi, một quân nhân về hưu qua đời, hậu quả của việc tư nhân hóa. Sức khỏe mong manh của ông không chịu đựng nổi khi Nhà nước chấm dứt chế độ phân phối nhu yếu phẩm. Mẹ tôi biết được thảm kịch này qua một lá thư, mà sau đám tang rất lâu mới đến tay bà. Cũng do thư từ chậm chạp mà mẹ chưa bao giờ có thể nói lời vĩnh biệt người cha. Dưới đôi mắt nhắm nghiền, nhất định bà đang nghĩ về điều đó.
Điều nghịch lý là gia đình tôi đã phải trả giá đắt cho vị thế « ưu tiên » và lòng tin mù quáng vào chế độ. Chưa bao giờ những người thân của tôi lại nghĩ rằng chế độ có thể để cho họ chết đói ! Họ hoàn toàn lệ thuộc vào tiêu chuẩn lương thực của Nhà nước, và bỗng chốc bị ngã gục nhanh chóng hơn những người biết « chân trong chân ngoài » để tồn tại.
Chỉ có những ai biết buôn bán chợ đen kiếm tiền mới có khả năng mua được thực phẩm ngoài chợ. Các cán bộ và sĩ quan cao cấp thì được hưởng chế độ cung cấp đặc biệt. Cuối cùng, chỉ có những viên chức trung cấp như ông ngoại tôi bị ảnh hưởng nhiều nhất khi chế độ phân phối chấm dứt. Ông ngoại không có khiếu kinh doanh, và không có khả năng làm những việc khác để sống còn.
Rồi vào mùa hè năm 1997, nạn đói tấn công vào ba tôi. Thể chất yếu ớt của ông lại càng hom hem thấy rõ, ngay sau khi tiêu chuẩn của nhà máy không còn nữa. Tôi vẫn còn nhớ được khuôn mặt ông, ngày càng hốc hác thêm. Một buổi tối, khi vác than về để cả nhà sưởi ấm, thân hình gầy còm của ông bỗng ngã gục vì mệt nhọc, trước cặp mắt tuyệt vọng của mẹ.
« Trước khi từ giã cõi đời, những người sắp chết thường làm những điều dại dột » - một câu châm ngôn Triều Tiên nói như thế. Trong những ngày cuối, cái đói đã làm cho ông mất trí. Ông có những hành động kỳ cục, làm cho mẹ bực mình. Một hôm khi đi làm về, bà thấy căn nhà hầu như trống rỗng. Mẹ tôi hoảng sợ, tưởng là bị trộm khuân. Thật ra, những người hàng xóm đã thuyết phục ba tôi giao cho họ tất cả những gì chúng tôi có để mang ra chợ bán. Hết sức giận dữ, mẹ tôi đã tìm lại ở jangmadang những vật dụng quý giá nhất đối với bà, đặc biệt là chiếc mền xinh đẹp vốn là quà cưới. Nhưng đã quá trễ, những món đồ đó đã bị bán đi !
Rồi đến một hôm, ba tôi đã gục ngã hẳn. Chúng tôi thậm chí còn không có khả năng chi trả cho một tang lễ. Trên ngôi mộ của ông được đào trong bùn, chúng tôi chỉ có thể cắm một mảnh gỗ có khắc tên ông, để người ta không quên mất ông quá sớm. Vài tuần sau đó, mảnh gỗ này đã bị lấy cắp mất, có lẽ là để sưởi ấm. Người ta sẵn sàng làm bất kỳ thứ gì để sống sót.
***
Từ khi ba tôi qua đời, cuộc sống của chúng tôi trở thành địa ngục, với viễn cảnh duy nhất là cuộc đấu tranh sinh tồn. Ngay cả bệnh viện cũng không còn khả năng nuôi ăn các bệnh nhân, không còn ai nhận được tiêu chuẩn phân phối. Chị em tôi không còn đến trường nữa, như tôi đã nói, vì chẳng còn trông ra hồn người. Nhất là vì chúng tôi không có thì giờ, suốt cả ngày trời đều dành cho việc kiếm ra thứ gì đó có thể ăn được.
Cả ba mẹ con sống ẩn dật trong căn hộ, trốn tránh mọi cái nhìn. Mỗi ngày chúng tôi âm thầm ra đồng để ăn cắp lúa và bắp, trốn tránh các cuộc tuần tra của các toán lính. Chúng tôi lén nhổ từng bụi cây, rồi đi lên núi để tướt hạt mà không ai nhìn thấy. Chúng tôi cũng tìm kiếm rễ củ và nấm. Đôi khi mẹ con tôi hái củi – vốn ngày một hiếm, mang đi bán, dành dụm để có được miếng ăn hàng ngày. Mẹ tôi dồn chút sức lực cuối cùng vào những nhát búa bửa củi, trong khi chị Keumsun và tôi bẻ những cành cây nhẹ nhất để bó thành những bó củi nhỏ. Thật là khó nhọc ! May thay, chúng tôi chưa bao giờ bị bắt quả tang.
***
Nằm bất động, đôi mắt khép hờ, trong đầu mẹ tôi hẳn đã liên tục chiếu đi chiếu lại những hình ảnh này. Chuyến đi Rajin-Sonbong là hy vọng cuối cùng của bà. Mẹ nghĩ rằng ở cảng, bà có thể kiếm ra tiền hay tìm được thức ăn, cứu được chúng tôi. Nhưng nỗ lực tận cùng này đã thất bại.
Mẹ vẫn không nhúc nhích, nhưng kỳ lạ thay, tôi cảm thấy bà đang vạch ra một kế hoạch trong im lặng.
Bên ngoài, mặt trời đã lên cao. Bỗng dưng mẹ ngồi bật dậy, ánh mắt sáng rực. Bà đã quyết định chuyển sang hành động. Bản năng sinh tồn của bà vẫn chưa bị tước đoạt.
Thụy My dịch